Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

13. Phương pháp chuyển hóa và tâm nguyện độ sanh của Đức Từ Phụ - Thích Nữ Như Nguyệt

16/05/201314:22(Xem: 2312)
13. Phương pháp chuyển hóa và tâm nguyện độ sanh của Đức Từ Phụ - Thích Nữ Như Nguyệt


Tuyển tập

Phật Thành Đạo

Nhiều tác giả
--- o0o --- 

Phần I

Bản chất và con đường Giác Ngộ

--- o0o ---

PHƯƠNG PHÁP CHUYỂN HÓA
VÀ TÂM NGUYỆN ĐỘ SANH CỦA ĐỨC TỪ PHỤ

Như Nguyệt

Khổ vui là vấn đến cảm thọ, và có cảm thọ là do có tâm. Như vậy muốn hết khổ thì việc cốt yếu là chuyển cái tâm hiện tại của ta. Không chuyển tâm mà chỉ thay đổi hoàn cảnh, thì không bao giờ có giải thoát thật sự, mà chỉ là thay đổi kiểu đau khổ này sang đau khổ khác. Tu hành, nói gọn, chính là việc chữa trị tâm bệnh hay chuyển tâm.

Trong địa hạt văn minh vật chất, người tiến bộ là người biết chế biến những tài nguyên thiên nhiên để sử dụng cho đời sống được tiện nghi hơn. Ví dụ: sử dụng năng lượng mặt trời, năng lượng thác nước, năng lượng gió, năng lượng hạt nhân ...

Mặc dù con người đã đạt đến mức tiến bộ rất cao trên phương diện chuyển hoá năng lượng vật chất để có năng lượng tối đa, song chính phát minh khoa học kỹ thuật cũng đang đe doạ và có khả năng tiêu diệt toàn thế giới một khi chiến tranh hạt nhân bùng nổ.

Nguyên do chính là con người chỉ tìm cách chuyển hoá để làm chủ những năng lực ở ngoại giới, mà chưa làm chủ, chưa kiểm soát được năng lực bên trong, đó là năng lực của dục vọng. Lòng tham không bao giờ ngừng nghỉ, nên Phật đã mệnh danh cõi người ta là cõi dục.

Cũng vì muốn đạt được hạnh phúc chân thật và tối đa cho bản thân, cho nhân loại và cho tất cả hữu tình, sau khi thành chánh quả dưới cội bồ-đề đức Phật đã công bố một phương pháp chuyển hoá một cách thần kỳ. Từ đó Ngài đã mở cánh cửa giải thoát khổ đau và bất tử cho chúng sanh Ta-bà. Bất cứ ai biết áp dụng phương pháp đó cũng sẽ giác ngộ giải thoát như Ngài. Đó là phương pháp chuyển hoá năng lực của tâm, tức chuyển Tham, Sân, Si thành Giới, Định, Tuê?

Vậy thế nào là chuyển hoá năng lực tâm linh? Đó là việc chúng ta có thể và cần phải làm nếu muốn hết khổ. Muốn chấm dứt khổ, ta phải biết nhận diện ra những hình thái của khổ cùng những nguyên nhân và yếu tố hay điều kiện sinh khởi của nó để diệt tận gốc. Cũng như muốn diệt kẻ thù cần phải nhận ra kẻ thù và chỗ ở của chúng.

Ai cũng thuộc lòng một bản kê đầy đủ về khổ mà đức Phật đã dạy như ba loại khổ và tám loại khổ.v.v. Nhưng Phật khuyên chúng ta, mỗi người phải nhìn vào bản thân mình để thấy rõ đau khổ thật sự là gì ? Nó nằm ở đâu? Khổ cũng như vui, là một cảm thọ. Nếu không có cảm thọ thì không có khổ. Vậy vấn đề khổ vui, tóm lại, chỉ là vấn đề cảm thọ, tức là nhận vào, thâu nạp một cảm giác, mà ta gọi là "cảm thọ của tôi." Cảm thọ tự nó đã là khổ: Phật thường ví dụ đời sống cảm thọ như con bò bị lột da, hết sức đau khổ, dù nó đứng bất cứ nơi nào, dưới nước hay trên khô, gặp nóng hay lạnh.

Có cảm thọ là không bao giờ có thoả mãn. Trong mọi cuộc vui, mọi yến tiệc, hay bất cứ tình trạng nào được mệnh danh là hạnh phúc, luôn luôn người ta cảm thấy còn thiếu một cái gì, còn có cái gì chưa trọn vẹn. Không bao giờ mọi sự sẽ diễn ra hoàn toàn tốt đẹp như ý. Dù cho con người có sở hữu toàn thể vũ trụ, nhưng một khi còn có cảm thọ thì vẫn còn đau khổ. Khái niệm khổ trong Phật giáo được viết là dukkhatrong tiếng Pali, vốn có nghĩa là không thoả lòng hay không thoả mãn. Nói đơn giản, cái gì không thoả mãn đều mang lại cảm giác đau khổ; thế gian này lại chứa đầy sự không thoả mãn như vậy, như câu thơ của Bùi Giáng trong "Mưa nguồn:"

Trời đất lạnh là lòng anh không thỏa
Gửi hồn đi phương hướng hút theo ngàn
Hồn ngơ ngát loay hoay về hỏi dạ:
Có bao giờ dạ thoả giữa không gian?

Cái khổ nguy hiểm hơn là khi ta nghiền ngẫm, đặt tên, hay xem năm uẩn và các sự vật là "tôi" và "của tôi."

Ngày xưa, có người hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất:

- Làm sao có hạnh phúc được, khi không còn cảm thọ?

Tôn giả đã trả lời một câu rất thâm thúy:

- Trạng thái không có cảm thọ mới chính là hạnh phúc.

Ở đây ta phải hiểu câu trả lời này trong bối cảnh đích thực của nó là phát ngôn của một bậc A-la-hán, đã chứng quả Vô sinh, không còn chấp ngã, nên được tự tại trước những bận tâm của thế tục như còn mất, vinh nhục, sống chết, được thua,... đối với một vị như vậy thì Sinh như mùa đông mặc thêm áo, Tử như mùa hè cởi bớt áo. Sinh Già Bệnh Chết, nơi vị A La Hán, không còn là "Khổ" như quan niệm thường tình khi còn chấp thủ một bản ngã.

Trong Kinh Đại Bát-nhã, Phật cũng dạy rằng tính của thọ nơi người phàm là "nhận lãnh, thâu nạp vào mình" nên phải khổ vì tâm luôn luôn dao động bởi những cuộc thăng trầm. Nhưng đối với Bồ tát thì thọ là "Không," vì Bồ tát không nạp thọ những gì từ bên ngoài đưa tới, khi giác quan và đối tượng (Căn, Trần) gặp gỡ.

Có lần một người ngoại đạo đến mắng đức Phật, nhưng Ngài vẫn ngồi điềm nhiên như không. Người ngoại đạo bèn hỏi sao Ngài có thể giữ được bình tĩnh khi bị tấn công với đủ lời sỉ nhục như vậy? Phật trả lời vì Ngài không thọ, cũng như được ai biếu quà mà không nhận, chỉ có thế. Khi nghe lời ấy, người kia được cảm hoá, xin trọn đời được quy ngưỡng. Đó là "tính Không" của cảm thọ, mà người thiếu tu tập không thể làm nổi.

Nghe người khác mắng chửi nhục mạ mình thì trừ phi tai mình bị điếc, hoặc ngu si không hiểu gì, mới làm thinh được như Phật. Người thế tục thường dính mắc điểm này, tự hỏi, thế thì tu hành hoá ra cũng như bị tàn tật, dốt nát hay sao? Tu hành để đi đến chỗ không có cảm thọ như người bị bệnh tê liệt thần kinh hay sao?

Cái cực thiện và cái cực ác có một bề ngoài hoàn toàn giống nhau, nên dễ đánh lừa người thiếu trí. Người tu hành đến chỗ làm chủ được cảm thọ thì ngược lại rất bén nhạy, thường được gọi là thần thông, như Tha Tâm Thông (biết tâm niệm người khác), Thiên Nhĩ Thông (nghe rất xa), Thiên Nhãn Thông (thấy được những gì người khác không thấy...). Người phàm phu chỉ nhạy cảm đối với những gì liên hệ đến "tôi" và " của tôi" cho nên cảm thọ của họ hết sức hạn chế và dễ gây đau khổ cho mình và người. Đức Phật nhờ không thọ lời nhục mạ, nên Ngài không tự làm khổ mình, không gây thêm thù oán, mà trái lại còn cảm hoá được đối phương.

Nguồn gốc của đau khổ, như vậy, chính là cảm thọ do chấp ngã, hay bám lấy quan niệm về một cái tôi, mà Kinh Kim Cang gọi là Ngã Tưởng. Đây là Vô minh căn bản, còn gọi là Si.

Sự yêu thích cài gì hợp với tôi gọi là Tham. Ghét cái không hợp với tôi gọi là Sân. Chính là ba phiền não, hay vọng tưởng căn bản Tham, Sân, Si này mà phát sinh những thói xấu khác như bám víu, kiêu căng, ngã mạn, sân hận, nghi ngờ, ganh tị v.v… Có đến tám muôn bốn ngàn thứ, nghĩa là rất nhiều. Duy thức học gọi đấy là Bất Thiện Tâm Sở, nghĩa là tất cả đều là sở hữu tùy tùng của một cái tâm vô hình, vô tướng nhưng lại là năng lực điều động tất cả sự sống chết, vui buồn, mê ngộ, đau khổ và hạnh phúc của ta, tùy theo cách sử dụng nó. Biết sử dụng những bất thiện tâm sở này để chuyển hoá chúng vào mục đích tu học, thì cũng như khoa học gia chuyển hoá năng lượng mặt trời và thác nước, hoặc như Gia Cát Lượng trong Tam Quốc Chí đã dùng mưu lược, thu hết 30.000 mũi tên của quân Tào Tháo bắn sang, đem về cho Châu Du.

Ở đây ta cần nhận diện Vọng Tưởng đích thực là đau khổ. Người học Phật thì không đợi tới khi bị bắt ngồi tù vì tội trộm cướp mới thấy khổ, mà thấy khổ ngay lúc bắt đầu nổi lòng tham muốn chiếm đoạt của người khác, vì lòng tham ấy phát xuất từ cái thấy sai lầm (Vọng tưởng) cho rằng cái tôi là trên hết. Vậy bước đầu để chấm dứt khổ là nhận diện ra cái khổ: Sự chấp ngã, vọng tưởng chính là nguồn gốc. Khi nhận ra nó rồi, muốn tận diệt nó, ta phải tìm hiểu môi trường hoạt động của nó và những yếu tố giúp nó tăng cường hoạt động. Cũng như người săn bắt cướp, cần phải biết sào huyệt, sở thích, đường đi lối về của bọn cướp.

Chúng ta đã thấy rằng khổ vui là vấn đề cảm thọ, và có cảm thọ là do có tâm. Như vậy muốn hết khổ, thì việc cốt yếu là chuyển cái tâm hiện tại của ta. Không chuyển tâm mà chỉ thay đổi hoàn cảnh, thì không bao giờ có giải thoát thật sự, mà chỉ là thay đổi kiểu đau khổ. Tu hành, nói gọn, chính là việc chữa trị tâm bệnh hay chuyển tâm. Chẳng hạn khi ta phải sống trong một môi trường hay cãi cọ, mọi người ưa gây sự với ta, thay vì cảm thấy khó chịu, đau khổ, bực tức, ta hãy nhớ lại rằng hoàn cảnh này là dư báo của quá khứ. Có lẽ trong quá khứ ta đã gây nhiều oan trái với họ, bây giờ đến lúc phải trả. Ta nên vui vẻ mà trả, đây là cơ hội tốt. Khi nghĩ vậy, ta sẽ không gây thêm oan trái, mà còn có thể giải trừ được những oán thù đã qua.

Trong kinh Kim CangPhật dạy ai tụng kinh ấy mà bị người khinh chê thì sẽ tiêu trừ được quả báo ác nghiệt nhiều đời trước và mau đắc đạo. Ngược lại khi gặp thuận cảnh, như được vinh dự, được thăng chức, được nhiều tiền, ta sẽ từ bỏ bám víu tiền tài, danh vọng; nhớ lời Phật dạy về Vô thường, Vô ngã, để đem san sẻ cho người khác những gì ta có. Tu tập như vậy thì dù có bị mất mát bớt tài sản ta không buồn khổ lắm, vì ít ra cũng đã sử dụng tài sản vào một vài việc hữu ích.

Đức Phật Thích-ca sau khi giác ngộ, Ngài ngồi lại dưới cội bồ-đề nhiều ngày để suy nghĩ xem có nên đem cái mà Ngài đã giác ngộ để nói cho mọi người nghe không? Đã có lúc Ngài tự nghĩ sự giác ngộ của Ngài quá sâu xa vi diệu, người đời khó có thể lĩnh hội, tốt hơn nhập Niết-bàn ngay. Nhưng rồi Ngài hồi tưởng lại, cái hành tích của tất cả chư Phật trong thời quá khứ, bất luận vị nào ra đời cũng cùng một tâm nguyện độ sanh. Song bản ý của chư Phật trước sau vẫn là độ sanh, Ngộ Nhập Phật Tri Kiến.

Như vậy, Ngộ Nhập Phật tri Kiến là như thế nào? Muốn thế thì việc đầu tiên ta phải có chánh kiến. Cái nhìn đúng như thật về bản thân và mọi thứ bên ngoài. Cái gì hợp với ta đều tốt. Cái gì chống lại ta đều xấu. Sự tốt xấu mà ta gán cho người hay vật khác đều do tâm phân biệt tùy hứng của ta, hoàn toàn không liên quan gì đến người hay vật. Mọi thứ là "Tính Không."

Cùng một cảnh vật ấy, đối với người này là thiên đường, mà đối với người khác lại là địa ngục. Hoặc cùng một con người ấy, lúc đầu ta cho là bạn, lúc sau ta cho là kẻ thù. Tất cả quan niệm trái ngược như, vui-khổ, tốt-xấu, bạn-thù, đều do tâm chấp ngã pháp sinh. Sự thật hoàn toàn không có những thuộc tính do ta thêm thắt vào như vậy, nên gọi là "Tính Không." Thấy được điều này, tạm gọi là chánh kiến về tính không. Có chính kiến thì ta không bị dẫn dắt bởi cơn thịnh nộ khi gặp người mà ta cho là kẻ thù, cũng không bị lôi cuốn bởi sự ái luyến khi gặp người mà ta cho là bạn thiết, cũng không thờ ơ lãnh đạm khi gặp một người mà ta cho là người không thân. Có được hai yếu tố trên đây, chính kiến về tính không và từ bỏ cái thấy đầy ngã chấp, cùng tất cả thói xấu kèm theo (như phóng đại ưu điểm của những gì ta ưa, thổi phồng khuyết điểm của những gì ta ghét). Đồng thời tu tập những đức tính như nhẫn nhục (do thấy rõ nhân quả) khiêm cung (do thấy vô thường, duyên sinh, không có gì là tôi, và của tôi thật sự) là đã sống được một cuộc đời giải thoát an vui. Tột đỉnh của sự tu tập là quả giác ngộ giải thoát, thành Phật để cứu vớt chúng sanh. Bởi vậy cần có một yếu tố quan trọng hơn tất cả trên đường tu tập đó là Bồ-đề tâm. Có phát tâm bồ-đề mới đi đúng quỹ đạo của Phật và thành Phật được. Nên bồ-đề tâm được gọi là hạt giống Phật, và trong kinh điển Đại Thừa, chỉ có Bo-tát, người đã phát tâm bồ-đề và đang thực hành hạnh lợi tha. Bồ-đề tâm là cái tâm lợi tha cầu giác ngộ thành phật để có thể cứu vớt vô lượng chúng sanh. Nhưng trước khi có được tâm bồ-đề, ta cần phải từ bỏ cái thấy sai lạc là có một cái tôi biệt lập không dính dấp gì đến người khác và có chính kiến rằng mọi sự khổ hay vui đều không thật có, đều do tâm chấp ngã tạo ra. Vậy bồ-đề tâm là cách chuyển hoá khổ đau tốt nhất trong bất cứ trường hợp nào. Sở dĩ ta có thể chuyển hoá được là vì mọi thứ ta thấy theo kiểu chấp ngã thông thường đều không thật, khổ vui và mọi thứ đối đãi khác như Ta Bà, Tịnh Độ v.v. . . đều do tâm ta tưởng tượng. Cả hai đều không thật chất, tính không, đều do tâm biến. Nhưng chúng sanh thì "biến" theo lối ích kỷ hẹp hòi chấp ngã, đem lại đau khổ cho mình và mọi người, mọi vật. Còn kiểu "biến" của Bồ Tát thì đem lại giải thoát an vui cho mình và tất cả chúng sanh. Bởi vậy ta nên học cách "biến" của Bồ tát, của Phật thì đỡ khổ bội phần và công đức vô lượng.

Thế thì con đường chuyển hóa và tâm nguyện độ sanh của đức từ phụ đều đem lại an vui tuyệt đối cho muôn loài.

--- o0o ---


Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi tặng phiên bản điện tử tuyển tập này.

--- o0o ---

Vi tính: Hải Hạnh - Giác Định

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 3809)
Trong Việt Nam Phật Giáo sử luận, tập một, khi bàn về sự liên hệ giữa thiền và thi ca, giáo sư Nguyễn Lang viết: “Thi ca không có hình ảnh thì không còn thi ca nữa, cũng như đi vào lý luận siêu hình thì thiền không còn có thể là thiền nữa”
14/12/2012(Xem: 6899)
Bản-thể-của-Phật còn gọi là Như Lai Tạng, Phật Tính, Pháp Giới, Chân Như... (tiếng Phạn là Tathagatagarbha), là một khái niệm quan trọng của Đại Thừa Phật Giáo.
19/06/2012(Xem: 6527)
Những khi mà tâm hồn tôi bị hoang mang và dao động trước những thống khổ của con người do chính con người gây ra, những lúc đó tự nhiên những câu thơ của Bùi Giáng, những câu thơ mà một thời tôi đã từng say sưa đọc lại có dịp sống dậy trong tâm hồn buồn bã của tôi:
04/03/2012(Xem: 46148)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (tập 4), mục lục: Sắc đẹp hoa sen Chuyện hai mẹ con cùng lấy một chồng Cảm hóa cô dâu hư Bậc Chiến Thắng Bất Diệt - Bạn của ta, giờ ở đâu? Đặc tính của biển lớn Người đàn tín hộ trì tối thượng Một doanh gia thành đạt Đức hạnh nhẫn nhục của tỳ-khưu Punna (Phú-lâu-na) Một nghệ sĩ kỳ lạ Vị Thánh trong bụng cá Những câu hỏi vớ vẩn Rahula ngủ trong phòng vệ sinh Voi, lừa và đa đa Tấm gương học tập của Rahula Bài học của nai tơ Cô thị nữ lưng gù
02/01/2012(Xem: 2913)
Đức Thế Tôn thành đạo bằng con đường nào? Bằng con đường chí thiện, có nội dung đoạn trừ các lậu hoặc, để thành tựu Niết-bàn và giáo hóa chúng sanh. - Điểm Đến Chí Thiện Sau những ngày từ bỏ vương cung, cạo bỏ râu tóc, mặc áo hoại sắc, làm người xuất gia, Thế Tôn nói: “Mặc dù cha mẹ không bằng lòng, than khóc nước mắt đầy mặt, ta vẫn cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống đời sống thoát ly gia đình. Ta xuất gia như vậy, kẻ đi tìm cái gì chí thiện, đi tìm con đường vô thượng tối thắng, hướng đến tịch tịnh”.[1]
25/12/2011(Xem: 3024)
“Bạch đức Thế Tôn! Xin Ngài hãy thuyết pháp! Bạch đức Thiện Thệ, xin Ngài hãy thuyết pháp! Có những chúng sanh ít nhiễm bụi đời sẽ bị nguy hại, nếu không được nghe Chánh pháp. Nếu những vị này được nghe Chánh pháp họ sẽ thông hiểu” Theo kinh Āriyapariyesana, sau khi đức Thế Tôn thành đạo, Ngài chiêm nghiệm và quán chiếu sâu vào pháp do Ngài mới chứng được, là sâu thẳm, là vi diệu, cao quý, siêu lý luận, chỉ có người trí mới thấu hiểu, còn phần nhiều chúng sanh thì đam mê ái dục, chạy theo ái dục, khómà thấy được pháp lý duyên khởi, khó mà thấy được định lý tất cả hành là tịch tịnh…
08/01/2011(Xem: 2636)
Bạn có nghĩ rằng ta là người vĩ đại và quan trọng? Dĩ nhiên, hầu hết chúng ta đều nghĩ thế, ít nhất ra là vào một thời điểm nào đó. Nhưng mà rất khó để ôm giữ cái cảm giác quan trọng đó nếu bạn chịu khó suy xét đến cái thế giới không gian huyền diệu mà con người lần đầu tiên vừa thăm dò đến. Ta hãy nhìn nó như thế này:
07/01/2011(Xem: 2456)
Chiều 28-12-2000, phi trường Quốc tế Indra Gandhi, New Delhi rộn rịp đầy bóng những tăng ni sinh Việt Nam với những bó hoa tươi nhiều màu trên tay, những đôi mắt long lanh ngời sáng, những nụ cười hoan hỷ luôn nở trên môi… tất cả đang rộn ràng, hớn hở, chờ đợi đón phái đoàn hành hương từ Việt Nam sang do HT. Thích Trí Quảng, Trưởng Ban Hoằng pháp Trung Ương GHPGVN, Trưởng Ban Trị Sự Thành Hội TPHCM, và Tổng Biên tập báo Giác Ngộ làm trưởng đòan.Tháp Đại Giác ghi dấu sự thành đạo của đức Phật
05/01/2011(Xem: 2804)
Ngược dòng thời gian hơn 25 thế kỷ, kể từ thời điểm trọng đại đánh dấu một chiến công lẫy lừng trong lịch sử nhân loại, một con người bình thường bằng đấu tranh nội tại đã tự mình vượt thoát khỏi mọi sự trói buộc của khổ đau sanh tử luân hồi. Một đại vĩ nhân xuất hiện. Những lời tuyên bố đầu tiên của Ngài mãi mãi về sau vẫn là một khúc ca khải hoàn, chấm dứt trường chinh chống bọn giặc Ma vương phiền não, đưa một con người từ phàm phu lên vị trí một Bậc Giác ngộ, Bậc Đạo Sư của trời người. Từ đó nhân gian tôn xưng Ngài là Đức Phật -- Bậc Giác ngộ tối thượng. Và như thế, hằng năm đến ngày mùng tám tháng chạp, mọi người con Phật trên khắp năm châu đều nô nức đón chào một sự kiện lịch sử: Đức Phật Thích Ca Thành Đạo. Hòa với niềm vui chung của muôn loài, hôm nay chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về ý nghĩa Thành Đạo của Đức Bổn Sư.
05/01/2011(Xem: 3743)
Mỗi năm đến ngày mùng 8 tháng Chạp, giới Phật giáo Bắc tông cử hành lễ kỷ niệm Ngày Thành đạo của đức Phật Thích Ca nhưng theo truyền thống Phật giáo Nam tông, ngày đức Phật Đản sanh, Xuất gia, Thành đạo và Niết bàn đều là ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch. Riêng đối với tôi, ngày tháng Thành đạo là ngày nào không quan trọng mà vấn đề chính chúng ta cần tìm hiểu về ý nghĩa của sự Thành đạo. Kỷ niệm đức Phật Thành đạo theo tinh thần kinh Hoa Nghiêm để cùng tiến bước trên con đường chánh pháp, xây dựng cuộc sống an lạc tốt đạo đẹp đời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567