Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

27. Ðịnh Hướng Thuyền Ðời

22/02/201115:45(Xem: 4481)
27. Ðịnh Hướng Thuyền Ðời

PHÁP NGỮLỤC
ThíchĐức Niệm
PhậtHọc Viện Quốc Tế Xuất Bản Phật Lịch 2535 - 1991

27. ĐỊNH HƯỚNG THUYỀN ĐỜI

Thưaquý bạn,

BiểnPhật Pháp mênh mông. Rừng thiền sâu thăm thẳm. Nếu không có minh sư bạn hiềnthiện tri thức hướng đạo giúp đỡ thì thật là khó tránh khỏi lầm đường lạc lối.

Chúngta sanh vào thời pháp nhược ma cường này. Chánh tà lẫn lộn, thánh phàm khóphân. Nếu người học đạo, không quán sát kỷ, không suy nghĩ chín chắn, khôngthận trọng trong việc tìm thầy hướng đạo cho mình, mà chỉ biết chạy theo sự kêugọi rủ rê rỉ tai, thì về sau khó tránh khỏi cái nạn mất định hướng, không tìmđược thầy hiền bạn tốt, do đó không tìm đâu ra phương pháp chân chánh để tuhọc, mất căn bản nương tựa, rồi mù mịt không biết về đâu, phải chuốc lấy thấtvọng khổ đau oan uổng một đời, lúc đó dù có muốn hướng thiện tu hành mà vẫnkhông thành đạt!

Đãbao thánh năm tôi âm thầm thành tâm lạy Phật, đọc tụng kinh sách Phật giáo,theo Thầy Đức Niệm nghe giảng thuyết kinh Phật, tư tưởng của Phật từ từ thấmsâu vào lòng tôi, tâm trí tôi cũng theo đó mà sáng sủa hơn. Khi biết Phật Pháprồi, có những lúc hồi quang phản chiếu thấy rõ điều sai lẽ phải. Tôi tủi hậnphận mình sanh nhằm vào thời cách Phật quá xa, pháp nhược ma cường, lại thêmnước mất nhà tan, mang thân sống gởi đất khách quê người, mà còn chút thiệnduyên hằng tuần đến Phật Học Viện Quốc Tế nghe thầy giảng kinh thuyết Phật. Tôitỉnh ngộ, đời là mộng huyễn, là biển khổ triền miên. Tôi sớm dứt khoát tư tưởngquay lái thuyền đời, không còn hời hợt để thời gian trôi qua một cách vô ích.Không chạy theo thú vui dục lạc ở đời như trước nữa. Tôi đã tìm ra định hướngcho niềm tin qua một trong những bài thuyết pháp của Thầy. Tôi đã tìm đượchướng đi cho lẽ sống thăng hoa thánh thiện. Một trong những câu chuyện đượclồng vào trong bài thuyết pháp của Thượng Tọa Đức Niệm nay tôi xin đem cốnghiến quý bạn.

Bạnơi! Vào một chiều Chủ nhật như bao chiều Chủ nhật. Nhưng hôm nay nhằm ngày VuLan thắng hội. Ngày báo hiếu! Với đức độ uy nghi điềm đạm, nơi điện Phật, Thầyhướng về thiện tín thập phương, cất giọng đồng lảnh lót bắt đầu thời pháp, Thầynói:

"Hômnay tôi xin nói về đề tài, chọn đường tu học". Thầy tiếp:

Thưaquý vị! Thường tình con người lúc nào cũng tham được nhiều, cầu hoàn mỹ, thíchmới chán cũ, quên phủi ân, bội bạc nghĩa, sùng thần bái thánh, tranh quyền đoạtlợi, thích tự xưng mình là kẻ cả để làm thầy tổ ăn trên ngồi trước thiên hạ. Đó là căn bệnh trầm kha của hầu hết mọi người! Những tánh đó lá căn tánhphàm tục trói buộc con người, khiến cho con người phải giong ruổi vong thân,truy cầu cho thỏa lòng tham vọng. Nhưng nghĩ cho kỹ thì, trong thế gian này cómấy người được trọn vẹn theo như ước muốn của mình đâu? Phải không thưa qúy vị!

Conngười là một động vật nhỏ bé trong muôn loài động vật. Sức chịu đựng nắng mưathời tiết của con người so với loài động vật cũng thua kém xa. Chẳng hạn trâu,dê, hươu, nai, chim chóc v.v... phần nhiều sanh ra đều thích ứng ngay với hoàncảnh tự lực cánh sanh, tự tìm lấy thức ăn để sống. Trong khi đó, con người phảisuốt ba bốn năm nhờ sự bú mớm săn sóc của me cha. Thế mà lắm người miệng thườngtự phô trương, không chút e dè, đối với bề trên mình không biết sợ phạm thượngvới các bậc ân nhân, các đấng thánh hiền. Đối với dưới mình không biết tự hổvới lương tâm và tự thẹn với muôn loài. Lòng tham quá độ mà không mấy khi biếtđủ. Tự để mình sống tự cao tự đại mà lại lặn hụp trong ngũ dục sắc, danh, tìnhái, uống ăn, chơi ngủ. Người học Phật thiếu minh sư hướng dẫn, không thực tâmchân chánh hành trì, cũng sẽ không ra ngoài công lệ tham tạp đó. Nghĩa là lợidụng đạo để tạo danh lợi cho mình.

Phươngpháp tu hành của Phật có muôn vạn pháp môn. Có số người tu Phật muốn gồm tất cảchùa miễu, nên chùa miễu nào cũng đi, thầy bà nào cũng đến, Không có pháp môntu rõ rệt. Hạng người ngày thường được gọi là tu lòng vòng tin đạo lang bang.Đó là những hạng người không hiểu biết Phật Pháp là gì, chỉ ở ngoài cổng ràonghe ngóng, rồi nói hùa theo. Như thế chẳng khác nào kẻ chèo đò phớt lẹ qua mặtnước sông hồ, chỉ biết thoáng qua trên mặt nước chứ đâu thể nào biết được chiềusâu ở lòng đáy ao hồ. Hạng tu lòng vòng này đối với việc trong thiên hạ thìsáng, trong lúc đó, việc tu của chính bản thân thì quờ quạng.

Bởilẽ suốt ngày chỉ để tâm chạy rong tìm biết việc tạp của thiên hạ, xem thiên hạdở hay, tốt xấu , mà tự quên đi tìm biết chọn thầy, chọn bạn, chọn pháp môn đểchuyên tâm hành trì, suốt ngày tháng cứ chạy đôn chạy đáo chỗ nào cũng có mặt,để nghe thử ông thầy này, ông sư kia, bà Phật tử nọ, rồi phê bình chỉ trích,trong lúc đó lại quên quán sát phê bình chỉ trích những lỗi lầm phàm tục củachính mình. Đó là hạng người xách nước cho người tắm, mà tự mình quên tắm. Bưngnước cho người uống mà tự mình khát. Kinh Thủ Lăng Nghiêm Phật nói: Hai mươilăm thứ viên thông, Di Lặc Bồ Tát chỉ quán thức tâm viên thông, đích chứng lýduy thức. Quán Thế Âm chỉ tu nhĩ căn viên thông, chứng nhập tam ma địa. Đại ThếChí Bồ Tát chỉ niệm Phật viên thông, mà chứng đắc lục căn thanh tịnh. Trì ĐịaBồ Tát quán tánh đất bằng phẳng mà nhập trí viên thông. Nguyệt Quang đồng tử doquán tánh nước mà chứng được vô sanh nhẫn. Lưu Ly Quang đồng tử quán tánh giómà chứng tam ma địa. Ngài Ô Sô Sắc Ma do quán tánh lửa mà chứng được trí huệ vôthượng. Hư Không Tạng Bồ Tát do quán tánh hư không mà được diệu lực viên mãn.Xá Lợi Phất do quán nhãn thức mà chứng được kiến tánh viên thông. Tu Bồ Đề doquán ý căn mà đạt đến tánh năng phi sở phi, chứng nhập ý căn viên thông v.v...(xin quý vị xem kinh Thủ Lăng Nghiêm, kinh Hoa Nghiêm thì sẽ rõ). Do đó, chúngta chưa thấy vị Bồ Tát nào cùng lúc tu nhiều pháp môn, giong ruổi bên ngoài màquên chiếu chính mình, lại có thể chứng đắc được nhiều môn viên thông, đạtnhiều quả vị.

Ngườihọc đạo ngày nay tâm trí thiếu chuyên tinh. Đã học tu tham thiền, lại quay ramuốn niệm Phật. Niệm Phật chưa đến đâu, lại đòi tu mật. Thiền, Tịnh, Mật chưahiểu biết gì thì liền tu phép Quán Âm, thiền xuất hồn, nhứt thượng thừa v.v...tạp nhạp đủ thứ! Tin học Phật Pháp thấy chưa đủ, lại khẩn cầu thần tiên. Cầukhấn thần tiên chưa xong, lại quay ra giong ruổi chạy đi tìm bùa mê, phép lạ,bát quái sấm truyền bói quẻ bói tướng v.v... Suốt tháng năm, cứ lo chạy đônchạy đáo, dáo dác khắp tìm, tán tâm loạn tưởng, lãng phí thì giờ, chỉ cầu đượcchút danh, chỗ nào cũng có mặt, để được quen chùa này, người nọ. Cứ thế tuổiđời chồng chất, tóc bạc sức mòn, mà họ vẫn còn chưa tỉnh ngộ, nào có lợi ích gìcho con đường tu tiến đâu?! Rốt cuộc không đi đến đâu mà thân tàn sức yếu, quaylại trách người, giận thầy, oán trời, rồi sanh tâm chán nản xa chùa, rời bỏđạo.

Trảihơn mười năm giong ruổi trên đường đời ở xứ Mỹ này, tôi đã thấy bày ra trướcmắt bao nỗi phiền toái của tình người làm cho tôi bàng hoàng tỉnh thức. Tôikhông để mình lặn hụp trong biển đời mộng huyễn nữa. Tôi biết tất cả đều làmộng huyễn bất tịnh. Dù cho có suốt đời năm bảy mươi năm lặn lội đuổi bắt lợidanh, rồi cuối cùng có để lại được gì cho ta? Hay khi buông xuôi đôi tay rồicũng lại giống hệt như ngày trong bụng mẹ mới ra chào đời với hai bàn taytrắng, mà nghiệp mình phải tự mang! Nhà cửa vợ con danh vọng có cứu ta sống lạiđược không? Khi hơi thở chấm dứt, những thứ đó có chịu theo ta không? Hay chỉmột mình ta phải chịu quả báo nghiệp khổ? Rõ ràng như thế, tại sao ta không sớmthức tỉnh giác ngộ, nghe lời Phật dạy, nghe lời thầy khuyên, để gắng tu tâm sửamình. Không ai thương ta bằng ta thương ta. Không ai biết ta bằng ta biết ta.Không ai cứu ta bằng chính ta tự cứu lấy ta. Chồng vợ con cái chỉ thêm tróibuộc, chỉ làm phiền cho nhau. Ơn cha mẹ như trời biển, ta cố gắng báo đền. Tìnhđồng loại nghĩa quốc gia, ta cố gắng phục vụ. Còn tất cả lợi danh, ái ân, tìnhđời là giả tạm, buộc ràng, phiền lụy. Nhà thơ đã nói:

Trầnthế đã nhiều oan nghiệp lắm,

Lệlòng mong cạn chốn am không,

Cửathiền một đống duyên trần dứt,

Quênhết người thân chốn bụi hồng.

Sanhra đời chịu phải mấy mươi năm chinh chiến. Cuối cùng nước biến nhà tan, thânbằng quyến thuộc phải ly tán, kẻ ở người đi, sống trong cảnh sanh ly. Ngườisống trên đất khách quê người cũng như ở quê hương, đều phải nhọc nhằn tìm cáisống. Sống không thoải mái, khổ nhiều vui ít, đủ thứ đày đọa kiếp người. Còn gìnữa mà chưa tỉnh thức? Còn gì nữa mà phải công kích nói xấu hủy báng nhau? Rắnđộc phun nọc hại mạng người. Kẻ vu khống hủy báng người hiền, nguy hiểm hơn rắnđộc. Cổ đức nói: "Ôi! Luận người ở đời búa để trong miệng. Ngậm máu phunngười, trước dơ miệng mình". Vu khống hủy báng người hiền là việc làm tántận lương tâm, thiếu mất nhân cách con người. Tin vào hạng người này là ta vôtình mở ngõ vào hầm chông tội ác, bước gần sát đến cảnh giới của qủy la sát,yêu ma, sa đọa địa ngục.

Nhữngkẻ hay dòm ngó, xoi bói, nói xấu người hiền, để thỏa mãn lòng ganh tị, để tỏ rata đây hiểu biết hơn người, là những kẻ niềm tin và thiện duyên đạo đức đã khôcạn. Theo sách Thánh hiền Ngữ lục thì những kẻ như trên thuộc về hai hạng ngườisau đây: Một là vừa mới thoát kiếp từ ngạ qủy, la sát. Hai là tuy là mang hìnhngười, nhưng tâm địa của họ là yêu tinh ma mị, tìm cách phá hại người hiềnđức".

Nhiềukhi họ tỏ ra ham tụng kinh Đại thừa để thỏa mãn lòng hiếu kỳ với tà tâm kiêumạn. Họ tụng kinh ăn chay tưởng là hơn hết, vọng cầu người khen, tưởng việc làmcủa mình như thế là hơn cả. Những hạng người này sống trong hư danh vọng tưởng,tự mình đào huyệt chôn mình, tự mình mở cửa ba đường ác đạo để vào.

Nóicùng gốc rễ, đáo để có thể tóm một lời: "Những kẻ thích danh lợi, dục vọnglà những kẻ ưa vu khống hủy báng người hiền", Bởi họ muốn người khác chú ýđến họ. Họ muốn đồng hóa người hiền đức cũng thấp hèn ô uế như họ. Họ là nhữngcon người không sợ tội lỗi, không có lòng tin nhân quả luân hồi, nghiệp báo.Phật nói: "Không tối tăm nào bằng người không biết tin nhân quả. Không tộiác nào bằng kẻ dám hủy báng người hiền, mà không biết ăn năn sám hối".Hạng người như thế, họ sống không có ích lợi gì cho chính bản thân của họ, màcòn lại làm hại cho đời. Đối với tín ngưỡng, họ chỉ làm tổn thương cho đạo. Họsùng tín vị nào, trước sau gì vị đó cũng bị họ vu khống. Họ gần bạn bạn đạo,chậm mau gì rồi cũng đặt điều rỉ tai nói xấu. Đó là lẽ tự nhiên.

Vậythì còn có ý nghĩa gì nữa để gọi là Phật tử học đạo? Nói cho cùng, những hạngngười như thế chưa đủ tư cách làm một con quỷ biết quy đầu chánh pháp, chớ đừngnói là có đủ tư cách của một môn đồ kính ngưỡng tôn giáo, thì làm sao có đủ tưcách là đệ tử Phật?

Cổđức tiên hiền hành đạo thành công. Cái bí quyết là ở chỗ biết chọn pháp mônthích hợp với khả năng của mình, rồi chuyên tâm tu hành trì thâm nhập. Từngngày từng phút phải cẩn trọng giữ gìn thân miệng ý ba nghiệp cho được thanhtịnh. Không dám hé miệng phóng tâm, buông lung hành vi cử chỉ. Thủ khẩu nhưbình. Tâm tâm niệm niệm hướng thiện nhớ Phật. Phong độ nghiêm túc. Đạo hạnhquán thông. Người niệm Phật thì chuyên tâm trì danh hiệu Phật đến tận cùng tâmý, không còn lo nghĩ buông lung. Người tham thiền thì ý chí phải định tỉnh,phải quả quyết để xa lìa sanh tử, một lòng thiền quán, cho dù trời đất ngửanghiêng, lòng vẫn quyết không giao động nao núng, chứ không phải tu thiền vănnghệ ngâm thơ, uống trà cho vui, tà tà hưởng thụ, giả trang thiền tướng.

ĐứcPhật suốt 6 năm thiền định trong rừng khổ hạnh. Ngày ngày với hạt bắp hạt mè đểđộ nhật. Chim chóc trùng dế, làm ổ trên người Ngài. Thú rừng rắn rết đủ thứhiểm nguy vây bủa, nhưng Ngài vẫn bất động.

Ngườitu trì chú phải nhất niệm, chuyên tâm hành trì đến chỗ tâm chú hợp nhất, năngsở không hai. Người tu hành phải nhất tâm quyết chí trước sau như một. Phảiluôn luôn thúc liễm thân tâm, kiểm soát hành vi tâm niệm của mình từng giờ từngphút. Không thể tự dễ dãi với mình. Không thể tha thứ cho mình. Phải lấy hạnhnguyện tu hành của Đức Phật, của chư vị thánh hiền làm gương soi sáng cho chínhmình. Phải giữ trọn nhiệt tình tâm thành của buổi ban sơ đến với đạo cho đến ngàylâm chung nhắm mắt lìa đời, trước sau như một, thì đạo quả có cơ đạt thành ngaytrước mắt, trong tầm tay trước mặt. Cổ đức nói: "Xuất gia sơ tâm, thànhđạo hữu dư". Có nghĩa là người tu hành nhiệt tình tinh tấn với đạo, với lýtưởng của mình dã tôn thờ, suốt trọn cuộc đời nhiệt tình hành trì như độ nhiệttâm lúc ban đầu mới phát tâm, thì người đó công đức thừa dư để trở thành bậcgiác ngộ thánh thiện. Người tu hành một lòng với lý tưởng của mình, chuyên tâmphụng trì giới hạnh, tiến bước không lùi, cho dù vấp phải lần thứ một ngàn, vẫnmạnh dạn đứng dậy tiến bước như lần đầu, thì không có mục đích nào mà khôngđạt, một nơi nào mà không đến. hành đạo như thế thì không tội lỗi nào mà khôngtiêu diệt, không phước đức nào mà không sanh trưởng, không tâm nguyện nào màkhông thành, không đạo quả nào mà không chứng.

KhiĐức Phật còn ở đời, đệ tử của Ngài là Tôn Giả Châu Lợi Bàn Đà, trọn đời chỉchuyên niệm hai chữ: "chổi quét", mà được nhứt tâm bất loạn, chứngthánh quả A La Hán. Lục Tổ Huệ Năng chỉ biết nhớ đến hai chữ "gạotrắng", mà được đắc Pháp, kế thừa Tổ Vị. Gần đây, Bồ Tát Quảng Đức một đờitu hành rất bình dị, chỉ nhớ đến câu "Nam Mô A Di Đà Phật, hiến thân nàycho đạo Pháp", mà dũng khí hùng tâm, khi ngồi trong lửa hồng vẫn bất động,lửa thành hoa sen. Sức định tâm của Ngài đã kết thành quả tim Kim Cang bấthoại, sách sử muôn đời còn ghi, nhân loại thế giới đã phải kinh hoàng bái phục.

Ngàynay có kẻ nhận mình là Phật tử, tự xưng trì kinh Đại thừa, học đạo lâu năm,nhưng vẫn chưa tỏ ra thấm chút nào giáo pháp của Phật. Vẫn chưa nhận ra đâu làminh sư để cầu học dạo. Vẫn chưa tạo cho mình cái chỗ đứng vững chắc trong niềmtin. Vẫn chưa tìm cho mình một phương pháp để tu, một định hướng để đến. Cứ mãirượt bắt lợi danh, lang bang khắp chốn suốt năm tháng, tiêu hao năng lực vàochỗ loạn tâm tà tín thiên kiến tin theo hình dáng bên ngoài sùng bái tà sư ácthần, đi chùa chỉ để cầu vui gặp bạn bàn luận những chuyện quàng xiên đâu đâu,không dính dấp gì đến ý nghĩa cầu đạo tiến tu giác ngộ. Những người như thế thậtoan uổng một đời luống qua, đánh mất cả chánh tâm chánh tín chánh niệm. Đó 1ànhững hạng người không chịu cẩn trọng tìm thầy chọn bạn, không biết quý tiếcthời gian và không sáng suốt lượng định sức khỏe tuổi tác của mình. Cứ langthang theo danh lợi hảo huyền, để rồi bị bạn bè quyến rũ kéo vào đường tu bấtchánh. Kết quả, ngày tháng trôi qua đầu đã bạc, mà chưa chọn lấy pháp môn tu!Chưa có bậc thầy đạo hạnh để nương tựa.

Khôngthực lòng chơn chánh làm việc phước đức, thì làm sao đạo nghiệp chánh chuyên,thân tâm được an định, để thể nhập Phật lý, làm tư lương hạt giống lành, ngõhầu được bước vào cửa ngỏ giác ngộ giải thoát. Tụng kinh thọ giới cho nhiều, màtà tâm trước tướng, đi đủ chùa này am khác, không có lập trường định hướng,nghe theo lời rỉ tai lôi kéo, chẳng khắc nào như bèo trôi trên mặt nước, như kẻhát bội trên sân khấu. Hạng người này suốt năm tháng giong ruổi bên ngoài, họcđòi hình thức mê tín, mà quên đi thanh sạch hóa nội tâm, khi gặp việc trái ýnghịch lòng thì tâm không được định tĩnh, há miệng lồng lộng kêu than, bởi tạilang bang không định hướng. Cổ nhân có câu rằng:

"Thamsân nghiệp chướng không chừa,

Bobo mà giữ tương dưa làm gì".

Hoặc:

Cótật thì vái bốn phương trời,

Vôtật đồng lương chẳng mất.

Xuấttiền góp của ra công mất thì giờ mà không y theo lời Phật dạy để thực hànhchánh đạo, không kính trọng quy Tam Bảo, không cầu thâm nhập pháp môn tu hành,suốt đời vẫn phải chạy quanh quẫn ngoài vòng rào của biển giáo pháp giải thoát,thì không bao giờ được ngồi vào tháp giác ngộ. Bà Thanh Đề cũng tin Tam Bảo,nhưng khinh thường sư tăng, mà phải đọa vào ngạ qủy. Vợ vua Lương Võ Đế chỉ vìxem thường chư tăng và lòng nhiều đố kỵ, mà phải bị đọa vào loài súc sanh làmcon mãng xà. Chú Sa di chỉ lỡ lời chê vị Tỳ kheo già tụng kinh tiếng ồ ề nhưchó sủa, mà phải đọa làm thân chó. Mẹ của vị Tỳ kheo trụ trì một ngôi giàlam tu viện nọ, vì nghĩ mình là mẹ của trụ trì, nên không cần xin phép, tự ýlấy cái y cũ của con mình dùng đắp che thân đỡ lạnh, mà phải đoạ vào loài súcsanh, làm con rùa đến 500 kiếp. Những chuyện đố kỵ, khinh tăng, coi thường củaTam Bảo phải chịu quả báo ác, còn ghi tạc rất nhiều trong tam tạng kinh điển.

Phậtdạy rằng: 'Tin ta mà không hiểu giáo lý của ta, thì sẽ hủy báng ta". Hànhđạo giác ngộ của Phật mà không biết tìm minh sư học đạo, không chọn thiện trithức để kết thiện duyên không làm theo lời Phật dạy, lại chạy đôn chạy đáo nghetheo ông này bà nọ tự xưng là thánh, phải biết những người như thế là thiếunhân duyên lành, khó tránh được những lỗi lầm trên bước đường tu tập, vô tìnhtự họ mở cửa vào hang động của ác tri thức, ma vương.

Saukhi thành đạo, Đức Phật quán sát căn tánh chúng sanh, Ngài dõng dạc tuyên bố:"Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Ta là Phật đã thành. Chúng sanh làPhật sẽ thành, nếu mọi người đều biết dốc lòng học đạo tu hành như ta".

Hễai dốc chí y theo lời dạy của Phật mà phát tâm tu học, đều có thể thành Phật.Nên trong kinh Pháp Hoa, Ngài Thường Bất Khinh Bồ Tát, tiền thân của Đức ThíchCa Mâu Ni, đã tu mật hạnh mỗi khi thấy người nào, thì liền chấp tay đảnh lễ,miệng nói lớn: "Tôi không dám khinh Ngài. Bởi Ngài sẽ là Đức Phật tươnglai". Lúc bấy giờ, người đời cho Ngài Thường Bất Khinh là anh chàng điênăn nói quàng xiên, nên đánh rượt mắng nhiếc! Nhưng vị Bồ Tát này vẫn trì chíthật hành theo hạnh thường bất khinh. Vì thấy mọi người đều có thể thành Phật,đức tánh trí tuệ giác ngộ của Phật có đủ trong tất cả mọi người, nên Phật quảquyết xác nhận "Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Tất cả chúng sanh đềusẽ thành Phật".

Dođó, nên biết, hễ có tâm khinh người tức là khinh chư Phật tương lai. Trong lúctu hạnh Bồ Tát, hay sau khi thành Phật, Ngài Thường Bất Khinh vẫn cản trọng tônkính chúng sanh. Không việc phước đức nhỏ mà Ngài bỏ qua. Không việc ác nhỏ nàomà Ngài dám làm. Cử chỉ Đức Phật cúi lưng xỏ kim dùm cho bà cụ già bên vệ đườngthì đủ thấy điều đó. Khinh chê hủy báng bản tánh Phật tâm của mình. Khinh chêsư tăng chân tu tức là khinh chê Tam Bảo, tự đào hố sâu hố thẳm tội lỗi chônmình, tự hủy diệt giống Bồ Đề của mình vậy.

Thưaquý vị, Đức Phật vì chúng sanh nhân loại, mà Ngài đã xả bỏ tất cả để vào rừngsâu núi tuyết tu hành. Sau khi thành đạo chứng quả, Ngài đem trọn đời mình ràyđây mai đó thuyết pháp giáo hóa để cho chúng sanh sớm tỏ ngộ đạo lý chơnthường, biết đường tu hành giải thoát nổi khổ sanh tử luân hồi. Suốt 50 năm,Ngài đem hết tâm lực cho công cuộc hoằng pháp lợi sanh. Không pháp môn tu nàomà Ngài không nói. Không phương tiện hành trì nào mà Ngài không khai thịsử dụng. Không lời khuyên nhủ dịu hiền giải thoát nào mà Ngài không tha thiếtbày tỏ với chúng sanh. Không thắc mắc hoài nghi nào mà Ngài không từ hòa cặn kẻgiải đáp. Không có phương thức nào cho việc hoàn thành nhân các trên đườngthánh thiện tiến hóa mà Ngài không phân tích trình bày. Tất cả những gì đángnói, Ngài đều nói hết. Tất cả những hạnh lành, Ngài đã thực hành viên mãn. Ngàinhư mẹ hiền dạy con, như ánh trăng rằm chiếu mát trên vạn vật. Cha mẹ hiền còncó thể buồn phiền giận tức từ bỏ những đứa con bất hiếu. Ánh trăng rằm còn cókhi tỏ khi mờ. Chứ lòng từ bi hỷ xả bao dung của Đức Phật không bao giờ bỏ quênbất cứ một chúng sanh nào, dù đó là những chúng sanh căn tánh ác độc ám độn đếnđâu. Đến như Đề Bà Đạt Đa nhiều lần quyết tâm hại Phật mà Phật vẫn độ. Bởi thế,kinh Pháp Hoa nói: "Phật thương chúng sanh như mẹ hiền thương connhỏ". Nhà thơ đã ca ngợi tình thương bao la của Đức Phật đối với chúngsanh:

Phậtđộng lòng thương kiếp đọa đày,

Hóathân làm tuyết bốn trời bay,

Kếthoa sáu cánh sen mười trượng,

Giọttịnh bình xoa dịu đắng cay.

ĐứcPhật lấy nỗi khổ đau của chúng sanh làm nỗi khổ đau của chính mình. Các chântăng đã hy sinh xả bỏ tất cả ân tình dục lạc của thế gian, không còn gần gũidâng cúng những đồ ngon ngọt cho cha mẹ, sáu hàng bà con trọn đã bỏ lìa, cũngchỉ mục đích duy nhất là quyết chí đi trọn trên con đường giác ngộ lợi tha vàgiải thoát. Ấy là các thầy theo gót chân Đức Phật, nguyện hy sinh đời mình chođại nghĩa từ bi giác ngộ. Đức Phật chẳng những Ngài hy sinh cho từ bi giác ngộ,mà Ngài còn khuyến khích dặn dò hàng Bồ Tát, hàng đệ tử của Ngài phải dõng mãnhphát Bồ Đề tâm, dấn thân vào công cuộc lợi tha giải thoát, để hướng dẫn chúngsanh được hạnh phúc an lạc giác ngộ giải thoát.

Nào,các bạn đợi đến bao giờ mới chọn lựa hướng đi cho mình, để giải cứu mình? Ngàytháng trôi qua mau như nước chảy xuống dốc. Sự sanh già bệnh chết không hẹn vớingười. Đợi đến bao giờ mới hết ân ái bạn bè, hết lặn lội trên đường đời? Ânnghĩa sanh thành của cha mẹ lẽ nào chúng ta xem nhẹ không lo báo đền?! Sự cómặt của chúng ta trên cõi đời này lại để bận rộn lợi danh luống qua ư? Khả năngPhật tánh thánh thiện của chúng ta lại có thể dễ dãi để nhàn không luống trôiqua theo thời gian năm tháng ư? Đời này không tỉnh ngộ sớm chọn đường tu, chúngta phải đợi đến bao giờ? Cổ đức dạy: Đời này không độ lấy thân, lại đợi đến đờinào mới độ? Cửa thiền môn thanh tịnh vẫn mở rộng để đón người trần thế. ThuyềnBát Nhã đang chờ để cứu vớt kẻ trầm luân, tỉnh thức tiến bước lên đi hỡi bạn:

"Conthuyền Bát Nhã thênh thênh,

Nàynơi cửa Phật mông mênh liên trì,

Nướctrong trăng ánh quang huy,

Kìanơi đức hạnh uy nghi vẹn toàn".

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567