- Giới thiệu kinh Tiểu Bộ (Khuddaka Nikàya)
- Tập I 1.1 Kinh Tiểu Tụng
- 1.2 Kinh Pháp Cú Phần I: Phẩm 1-5
- Phần 2: Phẩm 6-10
- Phần 3: Phẩm 11-16
- Phần 4: Phẩm 17-20
- Phần 5: Phẩm 21-24
- Phần 6: Phẩm 25-26
- Tập II Thiên Cung Sự Giới thiệu Thiên cung sự và Ngạ quỷ sự
- Thiên Cung Sự Phẩm I : Lâu đài nữ giới - Phần A
- Phẩm I: Phần B - Lâu đài nữ giới (tiếp theo)
- Phẩm II - Cittalatà
- Phẩm III - Pàricchattaka
- Phẩm IV - Đỏ Sẫm
- Phẩm V - Đại Xa
- Phẩm VI - Pàyasi
- Phẩm VII - Sunikkhitta
- Tập III 3.1 Trưởng Lão Tăng Kệ Giới thiệu Trưởng Lão Tăng Kệ & Trưởng Lão Ni Kệ
- 3.1 Trưởng Lão Tăng Kệ Chương I - Một Kệ Phẩm Một
- Phẩm Hai
- Phẩm Ba
- Phẩm Bốn
- Phẩm Năm
- Phẩm Sáu
- Phẩm Bảy
- Phẩm Tám
- Phẩm Chín
- Phẩm Mười
- Phẩm Mười Một
- Phẩm Mười Hai
- 3.1 Trưởng Lão Tăng Kệ Chương II - Hai Kệ Phẩm Một
- Phẩm Hai
- Phẩm Ba
- Phẩm Bốn
- Phẩm Năm
- Chương III - Phẩm Ba Kệ
- Chương IV - Phẩm Bốn Kệ
- Chương V - Phẩm Năm Kệ
- Chương VI - Phẩm Sáu Kệ
- Chương VII - Phẩm Bảy Kệ
- Chương VIII - Phẩm Tám Kệ
- Chương IX - Phẩm Chín Kệ
- Chương X - Phẩm Mười Kệ
- Chương XI - Phẩm Mười Một Kệ
- Chương XII - Phẩm Mười Hai Kệ
- Chương XIII - Phẩm Mười Ba Kệ
- Chương XIV - Phẩm Mười Bốn Kệ
- Chương XV - Phẩm Mười Lăm Kệ
- Chương XVI - Phẩm Hai Mươi Kệ
- Chương XVII - Phẩm Ba Mươi Kệ
- Chương XVIII - Phẩm Bốn Mươi Kệ
- Chương XIX - Phẩm Năm Mươi Kệ
- Chương XX - Phẩm Sáu Mươi Kệ
- Chương XXI - Phẩm Bảy Mươi Mốt Kệ (Đại Tập)
Kinh Tiểu Bộ
Chương XIV - Phẩm Mười Bốn Kệ
Nguồn: Hòa Thượng Thích Minh Châu
(CCXLIV) Revata (Thera. 67)
Các bài kệ của vị Trưởng lão này đã được đề cập trong phẩm một các bài kệ trước (XLII). Khi đến già, một hôm ngài đi đến yết kiến đức Phật và trú ở Sàvatthi, trong một ngôi rừng. Cảnh sát đến, đuổi bắt kẻ trộm, kẻ trộm quăng đồ ăn trộm gần ngài rồi bỏ chạy, các cảnh sát chạy đến, thấy đồ ăn trộm, liền bắt ngài dẫn đến vua Pasenadi. Vua truyền thả ngài và hỏi có phải ngài đã lấy trộm đồ? Ngài thuyết pháp nói lên sự kiện ngài không có thể làm một sự việc như vậy và nói những bài kệ như sau:
645. Từ khi xa xuất gia,
Bỏ nhà, sống không nhà,
Ta không biết tư duy,
Phi thánh, liên hệ sân.
646. Hay làm hại, sát hại,
Hay làm khổ hữu tình,
Ta không biết tư duy,
Trong thời gian dài này.
647. Và ta biết lòng từ,
Vô lượng khéo tu tập,
Ta thứ lớp tích lũy,
Như lời đức Phật dạy.
648. Là bạn thân tất cả,
Từ mẫn mọi hữu tình,
Ta tu tập tâm từ,
Luôn vui, không sân hận.
649. Ta thích thú với tâm,
Không động, không dao động,
Ta tu tập Phạm trú,
Được bậc thiện hành trì.
650. Ta đạt được vô tầm,
Đệ tử bậc Chánh giác,
Với im lặng bậc Thánh,
Ta trực diện đạt được.
651. Như núi đá không động,
Đứng vững khéo an trú,
Cũng vậy là Tỷ-kheo,
Đạt được si mê diệt,
Vị ấy như ngọn núi,
Không gì làm dao động.
652. Con người không uế nhiễm,
Luôn tìm sự trong sạch,
Tội nhẹ như đầu tóc,
Xem nặng như mây khói.
653. Như thành trì biên địa,
Phòng hộ cả trong ngoài,
Hãy phòng hộ tự ngã,
Sát-na không bỏ qua.
654. Ta không thích thú chết,
Ta không thích thú sống,
Ta chờ thời gian đến,
Như thợ làm việc xong.
655. Ta không thích thú chết,
Ta không thích thú sống,
Ta chờ thời gian đến,
Tỉnh giác, giữ chánh niệm.
656. Đạo Sư, ta hầu hạ,
Lời Phật dạy làm xong,
Gánh nặng, đặt xuống thấp,
Gốc sanh hữu, nhổ sạch.
657. Vì đích gì xuất gia,
Bỏ nhà, sống không nhà,
Mục đích ấy, ta đạt,
Mọi kiết sử diệt tận.
658. Nỗ lực, chớ phóng dật,
Đấy lời ta giáo giới,
Ta sẽ nhập Niết-bàn,
Ta thoát mọi sanh y.
(CCXLV) Godatta (Thera. 67)
Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình lữ hành và đặt tên là Godatta. Sau khi cha chết, ngài sắp đặt nhà cửa, đem theo năm trăm cỗ xe hàng hóa, đi chỗ này chỗ khác, sống bằng nghề buôn bán. Một hôm, một con bò ngã qụy xuống đường, trong khi kéo xe, và các người làm công của ngài không thể đỡ con bò đứng dậy được, ngài tự đi đến đánh con bò rất nặng. Con bò tức giận vì sự tàn bạo của ngài nói lên giọng người: 'Này Godatta, đã lâu ta đem tất cả sức lực ta kéo gánh nặng cho ông, nhưng nay ta không đủ sức kéo nên phải ngã quyuống, ông đánh đập ta tàn nhẫn. Vậy chỗ nào ông tái sanh, ta cũng sẽ sanh làm kẻ thù của ông để làm hại ông!'. Ngài nghe vậy rất lấy làm xúc động, tự nghĩ: 'Sao lại sống làm hại các loài hữu tình như vậy?' Rồi ngài từ bỏ tất cả tài sản, xin xuất gia với một vị Trưởng lão, và sau một thời gian chứng quả A-la-hán.
Một hôm, khi ngài đang hưởng thọ sự an lạc giải thoát, ngài thuyết pháp cho chúng xuất gia và tại gia về các pháp thế gian:
659. Như con bò giống tốt,
Được huấn luyện tốt đẹp,
Bị cột vào gánh nặng,
Mang gánh nặng kéo đi,
Bị áp đè quá nặng,
Không lật đổ gánh nặng.
660. Cũng vậy, ai nhiều tuệ,
Như nước ở trong biển,
Không khinh miệt người khác,
Thánh pháp là như vậy,
Đối với các hữu tình.
661. Sống trong vòng thời gian,
Bị thời gian hàng phục,
Hữu, phi hữu chi phối,
Loài Người chịu đau khổ,
Con cháu họ sầu ưu,
Chính ngay trong đời này.
662. Hân hoan, khi được lạc,
Gặp khổ lại chán chường,
Kẻ ngu bị não hại,
Chi phối cả hai đường,
Không thấy được như thật.
663. Những ai giữa khổ lạc,
Người dệt không chi phối,
Đứng vững như cột cửa,
Không hân hoan chán chường
664. Đối với được hay mất,
Với danh với không danh,
Đối với chê hay khen,
Với khổ hay với lạc.
665. Chúng tôi dính chỗ nào,
Như giọt nước trên sen,
Bậc anh hùng mọi chỗ,
Được lạc, không bị bại.
666. Người đúng pháp không được,
Người được, không đúng pháp,
Đúng pháp nhưng không được,
Hơn được không đúng pháp.
667. Người có danh, ít trí
Người có trí, không danh,
Không danh nhưng có trí,
Hơn ít trí, có danh.
668. Được khen bởi kẻ ngu,
Bị chê bởi kẻ trí,
Được kẻ trí chê bai,
Hơn được người ngu khen.
669. Lạc do dục đem lại,
Khổ do viễn ly sanh,
Khổ do viễn ly sanh
Hơn lạc do dục sanh.
670. Làm phi pháp để sống,
Làm đúng pháp, có chết,
Làm đúng pháp, có chết,
Hơn sống, làm phi pháp.
671. Ai đoạn dục phẫn nộ,
Tâm tịnh hữu, phi hữu
Sống ở đời, không ái,
Không thương yêu ghét bỏ.
672. Sau khi tu Giác chi,
Các căn và các lực,
Đạt tịch tịnh tối thắng,
Chứng Niết-bàn vô lậu.