KINHPHÁP BẢO ÐÀN
Tỳ KheoThích Duy Lực Dịch và Lược Giải
Từ ÂnThiền Ðường, Santa Ana Xuất Bản 1992
Phẩm Hộ Pháp Thứ Chín
Ngày rằm tháng giêng niênhiệu Thần Long nguyên niên, vua Trung Tôn và Võ Tắc Thiên ban chiếu rằng: Trẫmmời An Quốc Sư và Thần Tú Thiền Sư hai vị vào cung cúng dường, thừa lúc muônviệc nhàn rảnh để nghiên cứu đạo nhất thừa. Hai Sư khiêm nhượng rằng: Ở miềnNam có Huệ Năng Thiền Sư được Ngũ Tổ mật phó y pháp, truyền Phật tâm ấn, xinmời Sư đến để hỏi. Nay sai nội thị Tiết Giản lãnh chiếu đến rước thỉnh, nguyện Sưtừ bi thương xót, mau đến kinh thành. Sư dâng biểu cáo bệnh khước từ và xinđược trọn đời ở trong núi rừng. Tiết Giản hỏi: Các thiền đức nơi kinh thành đềunói là muốn được ngộ đạo phải ngồi thiền tập định, nếu không nhờ thiền định màmong được giải thoát thì chưa hề có vậy. Chưa biết cách dạy bảo của sư như thếnào? Sư nói: Ðạo dotâm ngộ chẳng tại tọa. Kinh nói Nếu nói Như Lai có nằm có ngồi, ấy là kẻhành tà đạo. Tại sao vậy? Vì tự tánh chẳng có chỗđến, cũng chẳng có chỗ đi, chẳng sanh chẳng diệt, gọi là Như Lai Thanh TịnhThiền. Chư pháp không-tịch là Như Lai ThanhTịnh Tọa, cứu cánh chẳng có một pháp để chứng đắc, huống chi là ngồi! Tiết Giản nói: Ðệ tử về Kinh, Hoàng Ðế ắt hỏi, xinSư từ bi chỉ thị tâm yếu, để về triều đình tâu lại hai vua và người học đạo ởkinh thành, thí như một ngọn đèn mồi cho trăm ngàn ngọn, khiến kẻ tối đều sáng,dùng sáng truyền sáng, sáng mãi chẳng hết. Sư nói:Ðạo chẳng sáng tối, sáng tối là nghiã sanh diệt.Sáng mãi chẳng hết, cũng phải có lúc hết, vì sáng tối là đối đãi lập danh,nên Kinh Duy Ma Cật nói: Pháp chẳng thể so sánh, vì chẳng đối đãi vậy. Tiết Giảnnói: Sáng dụ cho trí huệ, tối dụ cho phiền não, người tu đạo nếu không lấy tríhuệ để chiếu phá phiền não thì cái sanh tử đã từ vô thỉ, dựa vào đâu để rakhỏi? Sư nói: Phiềnnão tức Bồ đề, chẳng hai chẳng khác. Nếu nói lấy trí huệ để chiếu pháphiền não, ấy là kiến giải của kẻ nhị thừa, người đại căn thượng trí thì chẳngnhư vậy. Hỏi: Thế nào là kiến giải của ngườiđại thừa? Sư nói: Sáng với chẳng sáng, phàmphu thấy có nhị, người trí liễu đạt tánh ấy bất nhị, tánh bất nhị tức là thậttánh vậy. Thật tánh ở nơi phàm ngu mà chẳng bớt, nơi thánh hiền mà chẳng thêm;trụ nơi phiền não mà chẳng loạn, ngay nơi thiền định mà chẳng tịch, chẳng đoạnchẳng thường, chẳng đi chẳng đến, chẳng phải ở giữa, cũng chẳng bên trong bênngoài, chẳng sanh chẳng diệt, tánh tướng như như, thường trụ chẳng biến đổi, ấygọi là đạo. Hỏi: Sư nói chẳng sanh chẳngdiệt, vậy đâu khác với ngoại đạo! Ðáp: Ngoạiđạo nói chẳng sanh chẳng diệt, là dùng diệt để dẹp sanh, dùng sanh để tỏ diệt,sanh nơi chẳng sanh, diệt nơi chẳng diệt. Ta thuyếtchẳng sanh chẳng diệt là: tự vốn chẳng sanh, nay cũng chẳng diệt, cho nên khácvới ngoại đạo. Nếu ngươi muốn biết tâm yếu, nên đối với các pháp thiệnác đều chớ suy lường, tự nhiên được tâm thể thanh tịnh, trạm nhiên thường tịch,diệu dụng hằng sa. Tiết Giản được chỉ dạy, hoát nhiên đại ngộ, lễ bái từ giã vềkinh, dâng biểu tâu thuật lại lời nói của Sư. Ngày 3 tháng 9 năm ấy, vua banchiếu khen ngợi rằng: Thiền Sư cáo bệnh khước từ, đã vì Trẫm tu hành, làm phướcđiền cho chúng sanh. Sư như Ngài Duy Ma Cật, cáo bệnh ở thành Tỳ Da để xiểndương đại thừa, truyền Phật tâm ấn, thuyết pháp bất nhị. Tiết Giản truyền đạtlại tri kiến Như Lai của Sư chỉ dạy, cũng là do Trẫm tích tụ phước đức, kiếptrước đã gieo trồng thiện căn, nên được gặp Sư xuất hiện cùng đời, đốn ngộ pháptối thượng thừa, cảm đội ơn Sư chẳng thể nào quên. Nay dâng chiếc Cà sa và bìnhbát thủy tinh, sai quan thứ sử Thiều Châu tu sửa lại chùa chiền, sắc phong chonơi ở cũ của Sư (ở Tân Châu) là Quốc Ân Tự.