KINHPHÁP BẢO ĐÀN
Tỳ KheoThích Duy Lực Dịch và Lược Giải
Từ ÂnThiền Đường, Santa Ana Xuất Bản 1992
PhẩmBátNhã Thứ Hai
Qua ngày sau, Vi Sử Quân lại xin giảng nữa, Sư thăng toà bảo đại chúng rằng:Cần phải tĩnh tâm niệm Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa. Lại nói: Thiện tri thức, tríbồ đề Bát Nhã của chúng sanh vốn tự có, chỉ vì tâm mê chẳng thể tự ngộ, hờ đại thiện tri thức khai thị dẫn dắt để đi đến kiến tánh. Phải biết Phậttánh của kẻ ngu người trí vốn chẳng sai biệt, chỉ vì mê ngộ chẳng đồng, nên mớicó kẻ ngu người trí. Nay ta thuyết Pháp Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật, khiến cho mọingười đều được trí huệ, hãy chú tâm nghe: Thiện trithức, người đời suốt ngày miệng niệm BÁT NHÃ, chẳng nhận được TỰTÁNH BÁT NHÃ, cũng như nói ăn mà chẳng no,miệng chỉ thuyết KHÔNG, muôn kiếp chẳng được KIẾNTÁNH, rốt cuộc vô ích.
Thiện tri thức, Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật làtiếng Phạn, dịch là đại trí huệ đến bờ bên kia, đây cần phải tâm hành, chẳng ở miệngniệm, miệng niệm tâm chẳng hành thì cũng như huyễn hoá. Miệng niệm tâm hành,thì tâm và miệng tương ưng. Bản tánh là Phật, lià tánh chẳng có Phật.
Sao gọi là Ma Ha? Ma Ha là đại, tâm lượngquảng đại như hư không, chẳng có biên giới, cũng chẳng vuông tròn lớn nhỏ, cũngchẳng phải xanh vàng đỏ trắng, cũng chẳng trên dưới dài ngắn, cũng chẳng giận,chẳng vui, chẳng phải chẳng quấy, chẳng thiện chẳng ác, chẳng đầu chẳng đuôi.Các cõi Phật đều đồng như hư không, diệu tánh con người vốn không, chẳng có mộtpháp có thể đắc, tự tánh chơn không cũng như thế. Thiệntri thức, chớ nên nghe ta nói KHÔNG mà liền chấp KHÔNG. Trước nhất chớ chấp KHÔNG, nếu để tâm KHÔNG tĩnh tọa là lọt vào VÔKÝ KHÔNG. Thiện tri thức, thế giới hưkhông bao hàm sắc tướng vạn vật, mặt trời mặt trăng, núi sông đất đai, cây cối,biển lớn, kẻ dữ người lành, pháp ác pháp thiện, thiên đàng địa ngục, tất cả đềuở trong hư không, TÁNH KHÔNG của con ngườicũng vậy. Thiện tri thức, tự tánh hay bao hàm muôn pháp là ĐẠI,muôn pháp đều ởtrong tự tánh của con người. Nếu thấy điều dữ điều lành của người, tấtcả đều chẳng lấy chẳng bỏ, chẳng chấp chẳng nhiễm, tâm như hư không gọi là ĐẠI, nên nói là MA HA.Thiện tri thức, kẻ mê miệng nói, người trí tâm hành. Lại có kẻ mê để tâm khôngmà tĩnh tọa, trăm điều chẳng nghĩ, tự xưng là đại, với bọn người này không thểnói gì được, vì họ bị rơi vào tà kiến. Thiện tri thức, tâm lượng quảng đại cùngkhắp pháp giới, dùng thì liễu liễu rõ ràng, ứng dụng liền biết tất cả. Tất cả tứcmột, một tức tất cả, tới lui tự do, tâm thể vô ngại tức là BÁT NHÃ.
Thiện tri thức, tất cả TRÍ BÁT NHÃ đều từ tựtánh mà sanh, chẳng từ bên ngoài vào, chớ lầm dùng ý thức, gọi là chơntánh tự dụng. Nhất chơn nhất thiết chơn, tâm lượng là việc lớn, chẳng nên hànhđạo nhỏ, miệng chớ trọn ngày nói không mà trong tâm chẳng tu hạnh này, giốngnhư thường dân tự xưng là vua thì không được, hạng người này chẳng phải đệ tửcủa ta.
Thiện tri thức, sao gọi là BÁT NHÃ? BÁT NHÃdịch là trí huệ. Bất cứ nơi nào lúc nào, niệm niệm chẳng ngu muội (chẳng chấp thật), thường hành đúng trí huệ, tức làhạnh BÁT NHÃ. Một niệm ngu muội (chấp thật) thì BÁT NHÃtuyệt, một niệm trí huệ thì BÁT NHÃ sanh.Con người ngu mê chẳng thấy BÁT NHÃ, miệng nói BÁT NHÃ mà trong tâm thường ngumuội, tự nói ta tu BÁT NHÃ, niệm niệm nói KHÔNG mà chẳng biết CHƠN KHÔNG. BÁT NHÃ không hình tướng, ấy là tâm trí huệ, nếu hiểuthấu như thế gọi là TRÍ BÁT NHÃ.
Sao gọi Ba La Mật? BaLa Mật là tiếng Ấn Độ, dịch là đến bờ bên kia, nghiã là lià sanh diệt. Chấpcảnh thì sanh diệt dấy lên như nước nổi làn sóng, tức gọi bờ bên này, lìa cảnhthì chẳng sanh diệt như nước chảy im lìm, tức là bờ bên kia, nên gọi Ba La Mật.Thiện tri thức, kẻ mê miệng niệm, đang trong lúc niệm có vọng có sai, niệm niệmnếu hành, gọi là chơn tánh. Kẻ ngộ pháp này là PHÁP BÁT NHÃ, kẻ tu hạnh này làH€NH BÁT NHÃ, chẳng tu tức là phàm phu, một niệm tu hành, tự thân bằng Phật.Thiện tri thức, phàm phu tức Phật, phiền não tức BồĐề; niệm trước mê tức phàm phu, niệm sau ngộ tức Phật. Niệm trước chấp cảnh tứcphiền não, niệm sau lià cảnh tức Bồ Đề.
Thiện tri thức! MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT,tối cao tối thượng tối đệ nhất, không trụ không đi cũng không đến, tam thế chưPhật từ đó ra. Cần phải dùng ĐẠI TRÍ HUỆ, phá ngũ uẩn phiền não trần lao, tuhành như thế, nhất định thành Phật, đổi TAM ĐỘC thành GIỚI, ĐỊNH, HUỆ. Thiệntri thức, pháp môn này từ một BÁT NHÃ mà sanh ra tám mươi bốn ngàn trí huệ. Tạisao vậy? Vì con người có tám mươi bốn ngàn trần lao, nếu không có trần lao thìtrí huệ luôn luôn hiển hiện, chẳng lià tự tánh. Người ngộ pháp này tức là vôniệm, vô ức (không ghi nhớ), vô nhiễm trước,chẳng khởi cuồng vọng. Đối với tất cả pháp, dùng trí huệ của chơn như tự tánhchiếu soi, chẳng lấy chẳng bỏ, tức là KIẾN TÁNH THÀNHPHẬT. Thiện tri thức, muốn đi vào pháp giới thâm sâu và BÁT NHÃ TAMMUỘI, phải tu hạnh BÁT NHÃ, thực hành theo Kinh Kim Cang thì sẽ được KIẾN TÁNH.Phải biết cái công đức của Kinh này vô lượng vô biên, trong Kinh rõ ràng tánthán, chẳng thể kể xiết. Pháp môn này là TỐI THƯỢNGTHỪA, vì người đại trí mà thuyết, vì người thượng căn mà thuyết, kẻ căn khínhỏ nghe được khó tin. Tại sao vậy? Ví như trận mưa bão lụt, thành thị nôngthôn đều bị cuốn trôi như cỏ lá, nếu mưa bão trong biển lớn thì chẳng thêmchẳng bớt; như người thượng thừa, người tối thượng thừa nghe được Kinh KimCang, tâm liền khai ngộ. Nên biết tự tánh vốn có cái TRÍ BÁT NHÃ, trí huệ tựtánh thường chiếu soi nên chẳng nhờ văn tự, ví như nước mưa, chẳng do trời cómà do khí trời làm nên, khiến cho tất cả chúng sanh, tất cả cây cối, hữu tìnhvô tình, đều được thấm nhuần, tất cả sông ngòi đều chảy về biển lớn, hợp thànhnhất thể. Cái TRÍ TỰ TÁNH BÁT NHÃ của chúng sanhcũng vậy. Thiện tri thức, kẻ tiểu căn nghe được PHÁP MÔN ĐỐN GIÁO này, cũng nhưcây cỏ mà gặp mưa bão, đều tự gãy đổ chẳng sanh trưởng được, kẻ tiểu căn thìcũng như vậy: họ vốn có cái TRÍ BÁT NHÃ đồngvới người đại trí, chẳng có khác biệt, tại sao nghe Pháp mà chẳng được tự ngộ?Đó là do tà kiến chướng nặng, phiền não căn sâu, cũng như mây lớn che khuất mặttrời, chẳng được gió thổi nên chẳng hiện ánh sáng. CÁI TRÍ của BÁT NHÃ vốnchẳng lớn nhỏ, chỉ vì tất cả chúng sanh tự tâm mê ngộ chẳng đồng, tâm mê tu hành hướng ngoại tìm Phật mà chưa ngộ tự tánh, tứclà tiểu căn. Nếu khai ngộ đốn giáo, chẳng chấplấy hình tướng bên ngoài, chỉ ở trong tự tâm thường khởi chánh kiến, phiền nãotrần lao thường chẳng ô nhiễm, tức là KIẾN TÁNH. Thiện tri thức, trongngoài chẳng trụ, đi lại tự do, nếu trừ được chấp tâm thì thông đạt vô ngại. Nếutu được hạnh này, với Kinh BÁT NHÃ vốn chẳng sai biệt. Thiện tri thức, tất cảKinh điển và văn tự, đại tiểu nhị thừa, mười hai bộ Kinh đều do người đặt ra,vì có tánh trí huệ mới được kiến lập; nếu chẳng có con người thì vạn pháp vốnchẳng tự có. Nên biết vạn pháp vốn do tâm người kiến tạo, tất cả Kinh sách làvì con người mà nói. Vì trong con người có kẻ ngu người trí, ngu là tiểu nhơn,trí là đại nhơn,kẻ ngu hỏi pháp với người trí, người trí thuyết pháp cho kẻ ngu,kẻ ngu đốn ngộ tự tâm thì chẳng khác với người trí vậy.
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúngsanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đềuở nơi tự tâm, vậy sao chẳng ở trong tự tâm đốn thấy chơn như bản tánh? KinhPhạm Võng nói: Tự tánh vốn thanh tịnh, nếu nhậnđược tự tâm, thấy được bản tánh, tức thành Phật đạo. Kinh Duy Ma Cậtnói: Ngay lúc đó hoát nhiên đốn ngộ, liền được bổn tâm. Thiện tri thức, ta ởnơi Hoà Thượng Hoằng Nhẫn vừa nghe câu nói liền ngộ, đốn thấy chơn như bảntánh, cho nên hoằng dương giáo pháp này, khiến hành giả đốn ngộ Bồ Đề, mọingười tự thấy bổn tâm, tự kiến bản tánh, nếu chẳng tự ngộ, phải tìm người đãkhai ngộ pháp tối thượng thừa, chỉ ngay đường lối CHÁNH PHÁP, vì thiện tri thứccó nhân duyên lớn giáo hoá dẫn dắt, khiến hành giả được KIẾN TÁNH, tất cả thiệnpháp đều do thiện tri thức mà được kiến lập. Tam thế chư Phật, mười hai bộ Kinhở trong tự tánh vốn đã đầy đủ, vì tự ngộ chẳng được, nên phải nhờ thiện trithức chỉ ra mới thấy, kẻ tự ngộ thì chẳng phải nhờ đến người khác. Nếu cố chấp rằng phải luôn luôn ỷ lại thiện tri thức mớimong được giải thoát thì không bao giờ được. Tại sao vậy? Vì ở trong tự tâmsẵn có tri thức tự ngộ, nếu khởi tà kiến mê chấp vọng tưởng điên đảo, dẫu chogặp thiện tri thức dạy bảo cũng chẳng cứu được. Nếu khởi chơn chánh BÁT NHÃ thamcứu, trong một sát na vọng tưởng đều tiêu, nhận được tự tánh, đốn siêu Phậtđịa. Thiện tri thức, dùng trí huệ chiếu soi, trong ngoài sáng tỏ rõ ràng thìnhận được bổn tâm. Nếu nhận được bổn tâm tức vốn là giải thoát, được giải thoáttức là BÁT NHÃ TAM MUỘI, BÁT NHÃ TAM MUỘI tức là VÔNIỆM.
Sao gọi là vô niệm? Nếu thấy tất cả pháp tâm không nhiễm trước gọi làVÔ NIỆM, dùng thì khắp nơi, cũng chẳng dính mắc ởkhắp nơi, hễ sạch được bổn tâm, khiến lục thức ra cửa lục căn, đối với lục trầnmà chẳng nhiễm chẳng trước, đi lại tự do, ứng dụng vô ngại tức là BÁT NHÃ TAM MUỘI, tự tại giải thoát, gọi là hạnh VÔ NIỆM.Chứ chẳng phải như người lầm tưởng cho là trăm điều chẳng nghĩ, chỉ choniệmtuyệtế, ấy là pháp trói buộc, tức là biên kiến. Thiện tri thức, kẻ ngộ pháp VÔ NIỆM thông đạt vạn pháp, ngộ pháp VÔ NIỆM thấy được cảnh giới chư Phật, ngộ pháp VÔ NIỆM được đến địa vị Phật. Thiện tri thức, nếu ngườiđời sau ngộ được pháp này, đem pháp môn đốn giáo này với những người đồng mộtchánh kiến chánh hạnh phát nguyện cùng tu, như cúng dường Phật mà suốt đờichẳng thối lui, người ấy nhất định được vào Thánh vị.
Nhưng phải truyền thọ, từ trước đến nay các Tổ đều mặc truyền tâm ấn, chẳngđược ẩn giấu Chánh Pháp. Nếu chẳng phải đồng một chánh kiến, chánh hạnh, làngười đã ở trong pháp khác thì chẳng được truyền thọ, vì sợ kẻ ngu chẳng hiểu,lại sanh phỉ báng pháp môn này, phá hoại truyền thống CHÁNH PHÁP của Cổ Đức, làmcho muôn ngàn kiếp sau đoạn dứt Phật chủng, cuối cùng vô ích.
Thiện tri thức, nay ta có một bài VÔ TƯỚNG TỤNG,mọi người hãy tự giữ lấy, không kể xuất gia, tại gia, nên y theo bài tụng mà tuhành, nếu chẳng tự tu mà chỉ ghi nhớ lời ta cũng chẳng ích lợi gì. Bài tụngrằng:
Thuyếtthông cập tâm thông,
Như nhựtxử hư không,
Duy truyềnkiến tánh pháp,
Xuất thếphá tà tông.
Pháp tứcvô đốn tiệm,
Mê ngộ hữutrì tật,
Chỉ thửkiến tánh môn,
Ngu nhơnbất khả tất.
Thuyết tứctuy vạn ban,
Hợp lýhườn quy nhất.
Phiền nãoám trạch trung,
Thường tusanh huệ nhựt,
Tà laiphiền não chí.
Chánh laiphiền não trừ,
Tà chánhcâu bất dụng,
Thanh tịnhchí vô dư.
Bồ đề bổntự tánh,
Khởi tâmtức thị vọng,
Tịnh tâmtại vọng trung,
Đản chánhvô tam chướng,
Thế nhơnnhược tu đạo,
Nhất thiếttận bất phương.
Thườngkiến tự kỷ quá,
Dữ đạo tấttương đương.
Sắc loạitự hữu đạo,
Các bấttương phương não,
Ly đạobiệt mích đạo,
Chung thânbất kiến đạo.
Ba ba độnhất sanh,
Đáo đầuhườn tự áo.
Dục đắckiến chơn đạo,
Hạnh chánhtức thị đạo.
Tự nhượcvô đạo tâm,
Ám hànhbất kiến đạo.
Nhược chơntu đạo nhơn,
Bất kiếnthế gian quá,
Nhược kiếntha nhơn phi,
Tự phikhước thị tả,
Tha phingã bất phi,
Ngã phi tựhữu quá,
Đản tựkhước phi tâm,
Đả trừphiền não phá.
Tắng áibất quan tâm,
Trườngthân lưỡng cước ngọa.
Dục nghĩhoá tha nhơn,
Tự tu hữuphương tiện.
Vật linhbỉ hữu nghi,
Tức thị tựtánh hiện.
Phật pháptại thế gian,
Bất ly thếgian giác,
Ly thếmích bồ đề,
Cáp nhưcầu thố giác.
Chánh kiếndanh xuất thế,
Tà kiếndanh thế gian,
Tà chánhtận đả khước,
Bồ đề tánhuyển nhiên.
Thử tụngthị đốn giáo,
Diệc danhđại pháp thuyền,
Mê vănkinh lũy kiếp.
Ngộ tắcsát na gian.
Dịchnghiã:
Thuyếtthông lại tâm thông (1),
Như mặttrời giữa không,
Chỉ truyềnpháp kiến tánh,
Hoằng phápphá tà tông.
Pháp vốnchẳng đốn tiệm,
Mê ngộ cónhanh chậm,
Pháp mônkiến tánh này,
Kẻ nguchẳng thể tri.
Thuyết tuymuôn ngàn lối,
Đúng lýchỉ là một,
Nhà phiềnnão đen tối,
Thường nênsanh huệ nhựt,
Tà khởiphiền não tới,
Chánh đếnphiền não trừ,
Tà chánhđều chẳng chấp,
Thanh tịnhđến cùng tột.
Tự tánhvốn bồ đề,
Khởi tâmtức là vọng,
Tịnh tâm ởtrong vọng,
Niệm chánhchẳng tam chướng,
Người đờimuốn tu đạo,
Tất cả đềuchẳng ngại,
Thường tựthấy lỗi mình,
Với đạotức tương ưng.
Muôn loàitự có đạo,
Mỗi mỗichẳng ngại nhau,
Ngoài tâmđi tìm đạo,
Suốt đờichẳng thấy đạo.
Bôn ba quamột đời,
Sau cùngtự áo não.
Muốn đượcthấy chơn đạo,
Hạnh chánhtức là đạo,
Nếu tựchẳng đạo tâm,
Đen tốichẳng thấy đạo.
Nếu làngười chơn tu,
Chẳng thấylỗi thế gian,
Nếu thấylỗi của người,
Trái lạithành tự quấy.
Người quấyta chẳng quấy,
Thấy quấythành tự lỗi.
Hễ bỏ tâmchấp quấy,
Phiền nãotự tan rã.
Thươngghét chẳng quan tâm,
Duỗi thẳnghai chân nằm.
Muốn hoáđộ chúng sanh, (2)
Tự phải cóphương tiện,
Khiến họhết nghi ngờ,
Tức là tựtánh hiện.
Phật pháptại thế gian,
Chẳng rờithế gian giác,
Lià thếtìm bồ đề,
Cũng nhưtìm sừng thỏ.
Chánh kiếngọi xuất thế,
Tà kiếngọi thế gian,
Tà chánh đềuquét sạch,
Tánh bồ đềrõ ràng.
Tụng nàylà đốn giáo,
Cũng gọi đạipháp thuyền.
Lúc mê tunhiều kiếp,
Ngộ chỉmột sát na.
Sư lại nói: Nay ta ở chùỪại Phạn thuyết pháp đốn giáo này, nguyện cho pháp giới chúng sanh nghe đượcpháp này liền kiến tánh thành Phật. Lúc ấy Vi Sử Quân và tất cả quan chức, đạotục, nghe sư thuyết pháp đều được tỉnh ngộ, đảnh lễ tán thán rằng: Lành thay,đâu ngờ xứ Lãnh Nam lại có Phật ra đời.
GHI CHÚ:
(1) Thuyết thônglại tâm thông, Như mặt trời giữa không. Thuyếtthông chưa chắc là tâm thông, tâm thông tự nhiên thuyết cũng thông. Vậy thế nàolà tâm thông? Trên phù hợp ý Phật, dưới khế hợp đương cơ mới được gọi là tâmthông, khi tâm đã thông rồi mới có thể giống như mặt trời giữa hư không. Mặttrời giữa không chẳng có nhờ cậy dính mắc gì cả, nên chiếu soi khắp nơi chẳngthiếu sót. Nếu mặt trời có nhờ cậy bằng một sợi chỉ buộc treo lên, thì sợi chỉấy sẽ che khuất mặt trời, làm cho sự chiếu soi của mặt trời có chỗ thiếu sótvậy. Như Giáp Sơn Hoà Thượng ra hoằng pháp, Tăng hỏi: Thế nào là Pháp thân?Giáp Sơn đáp: Pháp thân chẳng tướng. Hỏi: Thế nào là Pháp Nhãn? Đáp: Pháp Nhãnchẳng bệnh. Khi đó có Đạo Ngô Thiền Sư nghe xong liền cười, Giáp Sơn xuống toàhỏi Đạo Ngô rằng: Giáp Sơn vừa trả lời Tăng này, chắc có chỗ không đúng khiến ThượngTọa bật cười, xin Thượng Tọa từ bi chỉ dạy cho. Đạo Ngô nói: Hoà Thượng rahoằng pháp chưa có Thầy. Giáp Sơn nói: Nay xin lễ Thượng Tọa làm Thầy. Đạo Ngô nói:Thầy của Hoà Thượng là Huê Đình Thuyền Tử. Giáp Sơn đến Huê Đình gặp Thuyền Tửđược khai ngộ, trở về nơi cũ hoằng pháp. Đạo Ngô lại sai một vị Tăng đến hỏi:Thế nào là Pháp Thân? Giáp Sơn vẫn đáp rằng: Pháp Thân chẳng tướng. Hỏi: Thếnào là Pháp Nhãn? Đáp: Pháp Nhãn chẳng bệnh. Tăng lập lại với Đạo Ngô. Đạo Ngô nói:Ông ấy nay đã triệt ngộ. Lời Giáp Sơn đáp Tăng trước, Đạo Ngô chê cười cho là thuyếtthông tâm chẳng thông; lời đáp Tăng sau cũng giống như lời đáp trước mà Đạo Ngôlại tán thán, cho là tâm thông thuyết thông. Chỗ này chớ nên dùng ý thức đểphân biệt; nếu dùng ý thức tìm hiểu thì chỉ có thể thuyết thông, chẳng thể tâmthông. Muốn tâm thông cần phải tham ngộ mới được.
(2) Muốn hoá độchúng sanh, Tự phải có phương tiện, Khiến họ hết nghi ngờ, Tức là tự tánh hiện. Hai chữ phương tiện này chẳng phải giống như những ngườilạm dụng để cầu thêm danh lợi, hoặc che giấu tội lỗi; cũng chẳng phải dùng đểđộ người sơ cơ. Phương tiện ở đây là xuất phát từ Bát Nhã, phải người kiến tánhmới có Phương tiện này, mà dùng để khiến cho đương cơ từ NGHI đến NGỘ. Từ NGHI đến NGỘ: tùy theongười, từ một sát na cho đến năm, mười năm không chừng, cũng như: Ngài Huệ Minhvừa nghe, ngộ liền, Ngài Giáp Sơn, trong vài phút được ngộ, Ngài Pháp Nhãn, mộttháng được ngộ, Tổ Hoài Nhượng, tám năm mới ngộ. Không phải mau ngộ là cao,chậm ngộ là thấp. Người chứng ngộ mới đoạn dứt được NGHI CĂN (Nguồn gốc nghingờ đối với vạn pháp.) Đoạn dứt NGHI CĂN tức làKIẾN TÁNH. Nên nói: Tức là tự tánh hiện(kiến tánh).