KINHPHÁP BẢO ÐÀN
Tỳ KheoThích Duy Lực Dịch và Lược Giải
Từ ÂnThiền Ðường, Santa Ana Xuất Bản 1992
Lúc Sư hoằng pháp tạichùa Bửu Lâm, Tào Khê, ở miền Nam, thì Thần Tú Ðại Sư tại chùa Ngọc Tuyền, KinhNam, ở miền Bắc. Thời ấy hai tông thịnh hành, người đời xưng là Nam Năng, BắcTú, nên có Nam Bắc đốn tiệm hai tông, mà người học đạo chẳng biết tông chỉ củaNam Bắc như thế nào. Sư bảo chúng: Pháp vốnmột tông mà người có Nam Bắc; pháp chỉ một thứ nhưng sự thấy có nhanh chậm. Saogọi là đốn tiệm? Pháp chẳng đốn tiệm, theo căn tánh con người thì có lợi độn,nên gọi đốn tiệm. Nhưng đồ chúng của Thần Tú thường hay khinh chê Tổ Sư ở miềnNam là người chẳng biết chữ, đâu có gì hay? Thần Túnói: Lục Tổ đắc Vô Sư Trí, triệt ngộ pháp tối thượng thừa, ta chẳng bằngđược. Vả lại được Thầy ta Ngũ Tổ thân truyền y pháp, đâu phải khi không màđược! Ta tiếc chẳng thể đi xa để được thân cận, uổng chịu quốc ân. Các ngươichớ bị kẹt nơi đây, nên đi đến Tào Khê để tham học. Một hôm, Thần Tú sai môn đồChí Thành: Ngươi thông minh có trí, hãy thay ta đến Tào Khê nghe pháp, tận tâmghi nhớ các điều thấy nghe, về lập lại cho ta. Chí Thành vâng lời, bèn đến TàoKhê, theo chúng tham học mà chẳng nói từ chỗ nào đến. Lúc đó Sư bảo chúng: Nay cókẻ trộm pháp đang ẩn trong hội này. Chí Thành bèn bước ra lễ bái, bạch rõnguyên do. Sư nói: Ngươi từ Ngọc Tuyền đếntức là mật thám vậy. Ðáp: Chẳng phải. Sưnói: Sao lại chẳng phải? Ðáp: Lúc chưa nóira thì phải, nói ra rồi thì chẳng phải. Sư hỏi: Thầy ngươi lấy gì để dạy chúng?Ðáp: Thầy tôi thường khuyên dạy chúng trụtâm quán tịnh, ngồi mãi chẳng nằm. Sư nói: Trụtâm quán tịnh là bệnh chứ chẳng phải thiền, ngồi mãi là trói thân, với đạo cóích lợi gì? Hãy nghe kệ đây:
Sanh lai tọa bất ngọa,
Tử khứ ngọa bất tọa.
Nguyên thị xú cốt đầu,
Hà vi lập công khoá.
Dịchnghiã:
Lúc sốngthì ngồi chẳng nằm,
Lúcchết thì nằm chẳng ngồi.
Vốn làđống xương hôi thúi,
Ðâuthể thành lập công phu?
Chí Thành lại lễ Sư: Ðệ tử ở nơi Thần Tú Ðại Sư học đạo chínnăm mà chẳng được khế ngộ, nay nghe Hoà Thượng một lời liền khế ngộ bản tâm.Sanh tử của đệ tử là việc lớn, xin Hoà Thượng từ bi chỉ dạy thêm. Sư nói: Ta nghe nói Thầy ngươi dạy người học pháp:giới, định, huệ; chẳng biết hành tướng giới định huệ như thê nào, hãy nói thửxem. Chí Thành nói: Thần Tú Ðại Sư nói:những điều ác chớ làm gọi là giới, những điều lành phụng hành gọi là huệ, ý căntự trong sạch gọi là định. Ðại Sư dạy như thế, chưa biết Hoà Thượng lấy pháp gìđể dạy người? Sư nói: Nếu nói có pháp dạy người ấy là dối ngươi, ta chỉ tuỳ theocăn cơ để mở trói, giả danh tam muội. Như giới định huệ của Thầy ngươithật là bất khả tư nghì, giới định huệ của ta lại khác. Hỏi: Giới định huệ chỉ nên có một, sao lại có khác? Sư nói: Giới định huệ của Thầy ngươi độ người đại thừa,giới định huệ của ta tiếp người tối thượng thừa, chỗ ngộ giải chẳng đồngnên sựthấy có nhanh chậm. Hãy nghe ta nói, xem cógiống Thầy ngươi chăng! Ta thuyết pháp chẳng lià tự tánh, lià tánh thuyết pháp,khiến cho tự tánh thường mê, ấy là tướng thuyết. Nên biết tất cả pháp đều từ tựtánh khởi dụng, ấy là chơn pháp của giới định huệ vậy. Hãy nghe kệ đây:
Tâm địa vô phi tự tánh giới,
Tâm địa vô si tự tánh huệ,
Tâm địa vô loạn tự tánh định.
Bất tăng bất giảm tự kim cang,
Thân khứ thân lai bổn tam muội.
Dịchnghiã:
Tâmđịa chẳng quấy tự tánh giới,
Tâmđịa chẳng si tự tánh huệ,
Tâmđịa chẳng loạn tự tánh định.
Chẳngthêm chẳng bớt tự như như,
Thânđến thân đi vốn tam muội.
ChíThành nghe xong cảm tạ, trình kệ rằng:
Ngũ uẩn huyễn thân,
Huyễn hà cứu cánh.
Hồi thú chơn như,
Pháp hườn bất tịnh.
Dịchnghiã:
Ngũuẩn thân huyễn hoá,
Huyễnđâu có cứu cánh.
Trở vềvới chơn như,
Chấppháp vẫn chẳng tịnh (chẳng thanh tịnh)
Sư cho là đúng, lại bảo ChíThành: Giới định huệ của Thầy ngươi dạy người căn khí nhỏ, giới định huệcủa ta dạy người căn khí lớn. Nếu ngộ được tự tánh,cũng chẳng lập Bồ Ðề Niết Bàn, cũng chẳng lập giải thoát tri kiến, chẳng có mộtpháp có thể đắc, như thế mới được kiến lập vạn pháp. Nếu thấu lý này, cũng gọilà Bồ Ðề Niết Bàn, cũng gọi là giải thoát tri kiến. Người kiến tánh lập cũngđược, chẳng lập cũng được, đi lại tự do, chẳng trệ chẳng ngại, cần dùng liềnlàm, cần nói liền đáp (làm và nói đều chẳng tác ý), khắp hiện hoá thân chẳng liàtự tánh, tức được thần thông tự tại, du hý tam muội, gọi là kiến tánh. ChíThành lại bạch: Thế nào là nghiã Chẳng lập? Sư nói:Tự tánh chẳng quấy chẳng si chẳng loạn, niệm niệm quán chiếu Bát Nhã,thường lià pháp tướng, tự do tự tại, thuận nghịch đều được, có gì để lập? Tựtánh tự ngộ, đốn ngộ đốn tu, cũng chẳng thứ tự, cho nên chẳng lập tất cả pháp,các pháp tịch diệt, đâu có thứ lớp? Chí Thành lễ bái, nguyện làm thị giả hầu hạsớm chiều.
Tăng Chí Triệt, họ Trương tên Hành Xương, người ở Giang Tây, thuở nhỏ tánhhào hiệp. Lúc ấy Nam Bắc chia ra hai tông, tuy Lục Tổ và Thần Tú Ðại Sư khôngphân chia bỉ thử, nhưng đồ chúng lại cạnh tranh với nhau sanh lòng ưa ghét, màmôn đồ bên Bắc Tông tự lập Thần Tú làm Tổ thứ 6, lại sợ người đời biết được sựtruyền y của Ngũ Tổ, nên sai Hành Xương đến ám sát Lục Tổ. Sư tâm thông đã biếtviệc này, bèn lấy mười lượng vàng để nơi ghế ngồi. Lúc tối Hành Xương lén vào thấtmuốn ám sát. Sư đưa cổ cho chém. Hành Xương cầm kiếm chém ba lần, chẳng gây vếtthương. Sư nói: Chánh kiến (kiếm) chẳng tà,tà kiến (kiếm) chẳng chánh (theo Hán tự, chữ kiến với chữ kiếm khác chữ đồng âm,ở đây là một lời hai nghiã), chỉ nợ ngươi vàng, chẳng nợ ngươi mạng. Hành Xươngkinh sợ ngã xỉu, một hồi lâu mới tỉnh dậy, ăn năn cầu xin sám hối, bèn xin xuấtgia. Sư đưa vàng cho và dặn: Ngươi hãy đi, sợ đồ chúng biết được sẽ sát hạingươi, để ngày khác ngươi thay đổi hình dạng rồi trở lại, ta sẽ cho thỏanguyện. Hành Xương nghe lời, nửa đêm trốn đi, sau ở nơi khác xuất gia. Một hômnhớ đến lời dặn của Sư, bèn từ xa đến tham lễ. Sưnói: Ta chờ ngươi đã lâu, sao đến trễ vậy? HànhXương nói: Ngày trước được Hòa Thượng xá tội, nay dù xuất gia khổ hạnh, nhưngkhó mà báo ơn, chỉ mong được Hoà Thượng truyền pháp để độ chúng sanh. Ðệ tử xemKinh Niết Bàn, chưa hiểu cái nghiã thường và vô thường, xin Hoà Thượng từ bigiải thích sơ lược. Sư nói: Vô thường tức Phật tánh, có thường tức cái tâm phân biệt tấtcả pháp thiện ác vậy. Hành Xương nói:Lời của Hoà Thượng rất nghịch lời văn trong Kinh. Sưnói: Ta được truyền tâm ấn Phật, đâu dám nghịch ý Kinh! Hành Xương nói: Kinhnói Phật tánh là thường, Hoà Thượng lại nói làvô thường. Các pháp thiện ác cho đến Bồ đề tâm đều là vô thường, HoàThượng lại nói là thường, ấy là trái nghịch nhau, khiến đệ tử lại thêm nghingờ. Sư nói: Xưa kia ta nghe Ni Vô Tận Tạngtụng qua một lần Kinh Niết Bàn, bèn vì Ni giải thuyết, chẳng có một chữ một nghiãkhông đúng với lời văn trong Kinh, cho đến nay vì ngươi mà thuyết, trước sauchẳng khác. Hành Xương nói: Ðệ tử căn tánhngu muội, xin Hoà Thượng khai thị tỉ mỉ. Sư nói:Ngươi biết chăng, Phật tánh nếu thường còn nói gìvề các pháp thiện ác; cho đến tận kiếp cũng chẳng một người phát Bồ đề tâm, nênta nói vô thường, ấy chính là cái đạo chơn thường do Phật thuyết vậy.Hơn nữa, tất cả các pháp nếu vô thường thì mỗi mỗi đều có tự tánh riêng biệt đểlãnh thọ sanh tử, vậy thì tánh chơn thường khắp nơi lại có chỗ thiếu sót, nênta nói thường, ấy chính là nghiã chơn vô thường của Phật. Phật vì kẻ phàm phu tàđạo chấp nơi tà thường, những người nhị thừa từ nơi thường, suy ra vô thường,cộng thành tám thứ điên đảo, nên trong Kinh Niết Bàn liễu nghiã phá những thiênkiến của họ để tỏ bày tứ đức của Niết Bàn: chơn thường, chơn lạc, chơn ngã,chơn tịnh. Ngươi nay theo lời trái nghiã, lấy đoạn diệt vô thường và chấpthường là cố định, mà hiểu lầm lời nói sau cùng viên tròn vi diệu của Phật, dẫucho xem Kinh ngàn lần, có ích gì đâu? Hành Xương hoát nhiên đại ngộ, nói kệrằng:
Nhân thủ vô thường tâm,
Phật thuyết hữu thường tánh.
Bất tri phương tiện giả,
Du xuân trì thập lịch.
Ngã kim bất thi công,
Phật tánh nhi hiện tiền.
Phi Sư tương thọ dữ,
Ngã diệc vô sở đắc.
Dịchnghiã:
Vì giữtâm vô thường,
Phậtnói tánh có thường.
Kẻchẳng biết phương tiện,
Như mòsỏi tưởng vàng,
Nay tachẳng tác ý,
Phậttánh tự hiện tiền,
Chẳngphải do thầy cho.
Ta cũng vô sở đắc. Sư nói: Ngươi nayđã triệt ngộ, nên đổi tên Trí Triệt. Trí Triệt lễ tạ lui ra.
LƯỢC GIẢI:Lời của chư Phật chư Tổ chỉ tạm dùng để phá chấp: nóithường là để phá chấp vô thường, nói vô thường là để phá chấp thường, chớ khôngcó nghiã thật. Nên Kinh Lăng Nghiêm nói: Hễ là lời nói thì đều chẳng có nghiã thật.Phẩm tựa đã chỉ rõ Phật tánh phi thường phi vô thường, do đó mặc dù lời Tổ vớilời Phật trái nghịch nhau, nhưng ý Tổ với ý Phật chẳng khác là nghiã này vậy.
Sư thấy môn đồ các tông tụ tập dưới Pháp toà, đều khởi ác ý vấn nạn. Sư thương xótcho họ nên bảo rằng: Người học đạo cần phải dứt trừcho sạch tất cả thiện niệm ác niệm, cho đến chẳng còn chỗ để gắn tên, rồi lạigắn tên nơi tự tánh; tự tánh vốn bất nhị, gọi là thật tánh. Từ nơi thật tánhmới kiến lập tất cả giáo môn. (Như vậy, Pháp môn của các tông dù cókhác, nhưng đều cùng xuất phát từ một nguồn, vốn chẳng cao thấp, người học đạochớ nên tranh giành hơn thua mà trái nghịch với đạo). Còn Pháp đốn giáo này thìcần phải ngay đó (chẳng tác ý) tự ngộ tự thấy mới được. Ðại chúng nghe xongthảy đều đảnh lễ, thờ Sư làm Thầy.