VI DIỆU PHÁP TOÁT YẾU
Nārada Mahā Thera- Phạm Kim Khánh dịch
Chương IX: ĐỀ MỤC HÀNH THIỀN
Visuddhibhedo
Những Pháp Thanh Tịnh Khác Nhau
6. Vipassanākammaṭṭhāne pana 1. Sīlavisuddhi, 2. Cittavisuddhi, 3. Diṭṭhivisuddhi, 4. Kaṅkhāvitaraṇa- visuddhi, 5. Maggāmaggañāṇadasanavisuddhi, 6. Paṭipadāñāṇa dassanavisuddhi, 7. Ñāṇadassanavisuddhi-cāti sattavidhena Visuddhisaṅgaho. Aniccalakkhaṇam, Dukkhalakkhaṇaṁ, Anattā- lakkhaṇañ c'āti tīṇi Lakkhaṇāni. 1. Sammasanañāṇaṁ, 2. Udayavyayañāṇam, 3. Bhaṅgañāṇam, 4. Bhayañāṇaṁ, 5. Ādīnavañāṇaṁ, 6. Nibbidāñāṇaṁ, 7. Muñcitukamyatāñāṇaṁ, 8. Paṭisaṅkhā- ñāṇaṁ, 9. Saṅkhārupekkhāñāṇaṁ, 10. Anulomañāṇaṁ c'āti dasa Vipassanāñāṇāni. Suññato Vimokkho, Animitto Vimokkho, Appa-ṇihito Vimokkho c'āti tayo Vimokkhā. Suññatānupassanā,Animittānupassanā,Appaṇihitā- nupassanā c'āti tīṇi Vimokkhamukhāni ca veditabbāni. Katham? Pātimokkhasaṁvara Sīlaṁ, Indriya- saṁvara Sīlaṁ, Ājīvapārisuddhi Sīlaṁ, Paccayasannissita Sīlaṁ c'āti Catupārisuddhi Sīlaṁ Sīlavissuddhi nāma. Upacārasamādhi, Appanāsamādhi c'āti duvidho'pi Samādhi Cittavisuddhi nāma. Lakkhaṇa-rasa-paccupaṭṭhāna-padaṭṭhāna-vasena nāma-rūpaparigaho Diṭṭhivisuddhi nāma. Tesameva ca nāma-rūpānaṁ paccayapariggaho Kankhāvitaraṇa-visuddhi nāma. Tato paraṁ panatathāpariggahitesu sappaccayesu tebhūmakasaṅkhāresu atītādibhedabhinnesu khandhādina- yam' ārabbha kalāpavasena saṅkhipitvā aniccam khayaṭ- ṭhena, dukkhaṁ bhayaṭṭhena, anattā asārakaṭṭhenā'ti addhānavasena santativasena khaṇavasena vā sammasana- ñāṇena lakkhaṇattayaṁ sammasantassa tes'veva paccaya- vasena khaṇavasena ca udayabbayañāṇena udayabbayaṁ samanupassantassa ca. Obhāso pīti passaddhi adhimokkho ca paggaho Obhāsādi vipassanupakkilese paripanthapariggaha vasena maggāmaggalakkhaṇavavatthānaṁ Maggāmagga-Ñāṇadassanavisuddhi nāma. Tathā paripanthavimuttassa pana tassa udayab-bayañāṇato paṭṭhāya yāvānulomā tilakkhaṇaṁ vipassanāparamparāya paṭipajjantassa nava vipassanā-ñāṇāni Paṭipadāñāṇadassanavisuddhi nāma. Tass'evaṁ paṭipajjantassa pana vipassanāparipā- kamāgamma idāni appanā uppajjissatittī bhavaṅgaṁ vocchinditvā uppannamanodvārāvajjanānantaraṁ dve tīṇī vipassanācittāni yaṁ kiñci aniccādilakkhaṇamārabbha parikammopacārānulomanāmena pavattanti. Yā sikhā-ppattā sā sānulomasaṅkhārupekkhāvuṭṭhānagāminī- vipassanā'ti ca pavuccati. Tato paraṁ gotrabhūcittaṁ nibbānam'ālambitvā puthujjanagottamabhibhavantaṁ ariyagottamabhisambhontañ ca pavattati. Tass'ānantaram' eva maggo dukkhasaccaṁ parijānanto samudayasaccaṁ pajahanto nirodhasaccaṁ sacchikaronto maggasaccaṁ bhāvanāvasena appanāvīthim' otarati. Tato paraṁ dve tīni phalacittāni pavattitvā bhavaṅgapāto'va hoti. Puna bhavaṅgaṁ vocchinditvā paccavekkhaṇañā-ṇāni pavattanti. Maggaṁ phalañ ca nibbānaṁ paccavekkhati paṇḍito |
§6 Trong công trình hành thiền Minh sát (24) có bảy giai đoạn "Thanh Tịnh": 1. Giới Tịnh, 2. Tâm Tịnh, 3. Kiến Tịnh, 4. Đoạn Nghi Tịnh, 5. Đạo Phi Đạo Tri Kiến Tịnh, 6. Đạo Tri Kiến Tịnh, và 7. Tri Kiến Tịnh. Có ba Đặc Tướng: 1. Đặc tướng Vô Thường (25), 2. đặc tướng Đau Khổ (26), và 3. đặc tướng Vô Ngã (27). Có ba pháp Quán Niệm: 1. Quán niệm đặc tướng Vô Thường, 2. quán niệm đặc tướng Đau Khổ, và 3. quán niệm đặc tướng Vô Ngã. Có mười loại Tuệ Giác: 1. Tuệ quán trạch (28), 2. Tuệ sanh diệt, liên quan đến sự phát sanh và hoại diệt (của những sự vật được cấu tạo), 3. Tuệ diệt, liên quan đến sự phân tán (của sự vật), 4. Tuệ kinh hãi, nhận thức rằng (tình trạng phân tán của sự vật) là đáng kinh sợ, 5. Tuệ hiểm nguy, nhận thức rằng sự vật (đáng kinh sợ) là tai hại, hiểm nguy, 6. Tuệ chán nản, nhận thức rằng (các sự vật hiểm nguy) là đáng nhờm chán, 7. Tuệ muốn giải thoát, liên quan đến ý muốn thoát ra khỏi các sự vật ấy, 8. Tuệ suy tư, suy gẫm và quán xét (29), 9. Tuệ Xả đối với các vật cấu tạo (30), và 10.Tuệ thuận thứ (31). Có ba đường lối Giải Thoát (32): 1. Giải Thoát xuyên qua đường lối quán niệm về Hư Không (33), 2. Giải Thoát qua đường lối quán niệm về Vô Hình Tướng (34), và 3. Giải Thoát qua đường lối suy niệm về Vô Nguyện (35) . Có ba cửa Giải Thoát: 1. Quán tưởng về Hư Không, 2. Quán tưởng về Vô Hình Tướng, và 3. Quán tưởng về Vô ước Nguyện. Bằng cách nào? Giới Tịnh (36) bao gồm bốn loại giới tuyệt hảo [1] là: 1. Giới luật liên quan đến những Giới Căn Bản, 2. Giới luật liên quan đến sự tự chế, 3. Giới luật liên quan đến sự sinh sống trong sạch, 4. Giới luật liên quan đến bốn vật dụng cần thiết. Tâm Tịnh (37) bao gồm hai loại trụ tâm, đó là "cận định" và "toàn định" hay pháp hành nhằm "hoàn toàn kiên cố an định tâm". Kiến Tịnh (38) là sự hiểu biết danh và sắc liên quan đến những đặc tướng, đến cơ năng, đến phương cách hiện khởi, và đến nguyên nhân kế cận. Đoạn Nghi Tịnh (39) là sự thấu triệt nguyên nhân của chính danh và sắc ấy. Sau khi đã thấu triệt những nguyên nhân, vị hành giả quán xét các phương thức hợp thành từng uẩn v.v.., trình bày từng nhóm các sự vật cấu tạo trong tam giới. Các pháp hữu vi nầy phát sanh do nguyên nhân, khác biệt nhau tùy quá khứ v.v.. và đã được thấu hiểu như trên. Giờ đây hành giả quán tưởng đến ba đặc tướng --vô thường trong ý nghĩa hoại diệt, đau khổ trong ý nghĩa đáng kinh sợ, và vô ngã trong ý nghĩa không có thể chất -- bằng cách nhận xét thời gian tồn tại, sự liên tục không gián đoạn, và tánh cách tạm bợ nhất thời (của các pháp ấy). Người hành thiền dựa vào sự nhận xét các nguyên nhân và tánh cách tạm bợ (của các pháp hữu vi), để quán tưởng về hiện trạng sanh, diệt của sự vật bằng trí tuệ như trên. Lúc bấy giờ phát sanh đến hành giả: -- một vầng hào quang, lòng hoan hỷ thỏa thích, tâm yên tĩnh, đức tin mãnh liệt, tinh tấn chuyên cần, trạng thái an lạc hạnh phúc, trí tuệ sáng suốt, tâm niệm vững chắc, và tâm xả quân bình, và tâm ưa thích (trạng thái ấy). Kiến Tịnh, quan kiến trong sạch, trong công trình phân biện chân chánh cái nào là Con Đường (Đạo) và cái nào không-phải-Con-Đường (40), là xác định cái nào là những đặc tính của Con Đường và cái nào không phải là đặc tính của Con-Đường, bằng cách hiểu biết rằng (những ấn chứng như) hào quang v.v.. là chướng ngại của tuệ minh sát. Loại bỏ những chướng ngại trên, hành giả suy niệm về ba Đặc Tướng. Giờ đây, phát sanh đến vị hành giả, bắt đầu bằng tuệ sanh diệt, tiến dài đến tuệ thuận thứ, trong một luồng quán niệm không gián đoạn, chín loại Tuệ Minh Sát. Kiến Tịnh, phân biện chân chánh phương thức (41), có nghĩa là chín loại tuệ giác ấy. Sự Chứng Ngộ Khi thực hành quán niệm như vậy, do tình trạng thuần thục chín mùi của tuệ minh sát (hành giả cảm nhận), "Giờ đây sự phát triển (con đường) (42) sẽ khởi sanh". Vào lúc ấy luồng hộ kiếp ngưng lại, ý môn hướng tâm khởi phát, tiếp theo sau là hai hoặc ba (sát-na) minh sát tâm, lấy bất luận Đặc Tướng nào như vô thường v.v.. làm đối tượng. Những chặp tư tưởng nầy được gọi là "sơ khởi", "cận hành", và "thuận thứ" (43). Tuệ xả đối với các pháp hữu vi nầy (tức tâm xả trước các hành), cùng với tuệ thuận thứ, khi đã thuần thục tuyệt hảo, cũng được gọi là "Tuệ giác hiện khởi dẫn đến Con Đường (44)". Sau đó khởi sanh chặp tâm Chuyển Tánh (Gotrabhū-consciousness) (45), lấy Niết Bàn làm đối tượng, vượt thoát ra khỏi dòng phàm tục, và chuyển bước vào dòng dõi các bậc Thánh. [2] Tức khắc sau chặp tư tưởng ấy, Đạo (Con Đường của tầng thánh Nhập Lưu), chứng ngộ Chân Lý về sự Đau Khổ, đoạn diệt Chân Lý về Nguyên Nhân sanh Khổ, chứng ngộ Chân Lý về sự Chấm Dứt Đau Khổ, và phát triển Con Đường Diệt Khổ, nhập vào tiến trình định tâm siêu thế. Sau chặp tâm Đạo, hai hoặc ba chặp tâm Quả phát sanh và tan biến trở lại trong chặp hộ kiếp (bhavaṅga)(46). Đến đây, chặp tâm hộ kiếp dừng lại và tuệ suy tư khởi phát. Vị hành giả có đủ trí tuệ bấy giờ suy tư (47) về Đạo, Quả, Niết Bàn, về những ô nhiễm mà mình đã diệt trừ, và hoặc suy tư hoặc không, về những ô nhiễm còn lại. Như vậy Con Đường gồm bốn giai đoạn cần phải được tuần tự phát triển bằng sáu pháp thanh tịnh được gọi là "Đạo Tri Kiến Tịnh". Đây là phần đề cập đến "Thanh Tịnh", tức trạng thái trong sạch. |
Ghi chú:
[1] Bốn loại giới tuyệt hảo ấy là Pātimokkhasaṁvara, thường được gọi là Tứ Thanh Tịnh giới.
[2] Lộ trình tư tưởng của vị Nhập Lưu diễn tiến như sau:
*** |
*** |
*** |
*** |
*** |
*** |
*** |
*** |
Manodvārāvajjana |
parikamma |
upacāra |
anuloma |
gotrabhū |
magga |
phala |
bhavaṅga |
Chú Giải
24. Vipassanā, Minh Sát
là giai đoạn thứ ba và là giai đoạn cuối cùng của Thánh Đạo (Giới, Định, Tuệ). Mục tiêu cứu cánh của Minh Sát là thấu triệt sự vật đúng như sự vật thật sự là vậy.
25. Anicca, Vô Thường
là bản chất phù du tạm bợ của cả hai, danh và sắc. Biến đổi là đặc tính của những sự vật được cấu tạo. Tất cả các pháp hữu vi [*], tức những vật được cấu tạo, đều không ngừng biến chuyển, không thể ở yên bất động trong hai khoảnh khắc kế tiếp. Trong thực tế, tâm biến đổi càng nhanh hơn vật chất. Thông thường sắc tồn tại trong thời gian mười bảy chặp tư tưởng. Các Chú Giải ghi rằng trong thời gian một chớp nhoáng trên trời, hằng tỷ, tỷ chặp tư tưởng có thể phát sanh.
(Lời người dịch). Các pháp hữu vi -- cũng được gọi là các "hành", hay những sự vật được cấu tạo (conditioned things), là những gì cần phải có nhân duyên nào khác tạo điều kiện mới hiện hữu. Trên thực tế trong thế gian hiện tượng nầy, tất cả các pháp, tinh thần hay vật chất, đều là pháp hữu vi, phải được cấu tạo mới hiện hữu. Vạn pháp do duyên sanh.
26. Dukkha, Khổ
Tất cả các pháp hữu vi đều phải chịu đau khổ. Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ. Sống chung với những gì (người hay vật) mình không thích là khổ. Xa lìa những gì thân yêu là khổ. Không thành đạt những gì mình mong muốn là khổ. Tóm tắt, ngũ uẩn thủ (tức bám níu vào ngũ uẩn) là khổ.
27. Anattā, Vô Ngã
Là điểm nòng cốt của Phật Giáo. Cũng như không có một thực thể thường còn trong sắc, cùng thế ấy, không có một thực thể không biến đổi trong danh, được nghĩ đến như một "tự ngã" hay "linh hồn". Trong tất cả những gì tại thế và siêu thế, hữu vi và vô vi, không có một linh hồn trường cửu. Vì lẽ ấy trong kinh Dhammapada (Pháp Cú) Đức Phật tuyên ngôn "sabbe dhammā anattā" -- tất cả các pháp đều vô ngã. Đối với hai đặc tướng Anicca và dukkha (vô thường và khổ) Đức Phật dạy rằng tất cả các pháp "hữu vi" (saṅkhāra) đều vô thường, .. đều khổ. Nhưng với đặc tướng vô ngã, Anattā, Đức Phật dùng danh từ "dhammā" chỉ rằng tất cả các pháp -- dầu hữu vi hay vô vi -- đều vô ngã.
Ta có thể ghi nhận rằng chính sau khi nghe bài kinh "Anattalakkhana Sutta", Vô Ngã Tướng, đề cập đến lý vô ngã, mà năm vị đệ tử đầu tiên của Đức Phật đắc Quả A La Hán. Thông thường, hành giả không hành cả ba đặc tướng cùng một lúc. Trong ba, hành giả chỉ chọn đặc tướng nào thích hợp với mình nhất. Lối giải thoát thành đạt được nhờ áp dụng đặc tướng nào có tên tùy trường hợp.
28. Sammasanañāṇa, Tuệ Quán Trạch
Theo nghĩa đen là "vận dụng tuệ giác", trạch quán, sự quán xét, tìm hiểu các uẩn hổn hợp (kalāpavasena).
29. Paṭisaṅkhāñāṇa, Tuệ Suy Tư
Suy gẫm và quán xét trở lại các pháp hữu vi nhằm tìm hiểu ý nghĩa và thoát ra khỏi đó.
30. Saṅkhārupekkhāñāṇa, Tuệ Xả Hành
Là tâm xả, hoàn toàn bình thản đối với các "hành" (saṅkhārā), tức đối với pháp hữu vi. Không luyến ái bám níu cũng không phiền muộn giận hờn. Đây là kết quả của công trình phát triển các Tuệ Giác trên.
31. Anulomañāṇa, Tuệ Thuận Thứ
Tuệ giác nầy được thành tựu nhờ đã viên mãn hoàn tất chín loại tuệ trước đó. Đuợc gọi là thuận thứ bởi vì một đàng, chính nó phù hợp với 37 Yếu Tố của sự Giác Ngộ (37 bồ đề phần) và đàng khác nó giúp cho hành giả hội đủ khả năng để tiến lên con đường cao hơn.
32. Vimokkha, Đường Lối Giải Thoát
Được gọi như vậy bởi vì pháp nầy giúp giải thoát chúng sanh ra khỏi mười Thằng Thúc (tức mười dây trói buộc cột chúng sanh vào vòng luân hồi) v.v..
33. Suññata, Hư Không
Không có một linh hồn. Sự giải thoát thành tựu được do nhờ hành thiền, quán niệm về lý "vô ngã" (anattā) được gọi là Suññatavimokkha.
34. Animitta, Vô Hình Tướng
Không có những dấu hiệu của sự thường còn, v.v.. Sự giải thoát thành tựu được do nhờ hành thiền, quán niệm về lý "vô thường" (anicca) được gọi là Animittavimokkha.
35. Appaṇihita, Vô Nguyện
Không có sự khát khao ham muốn, không ước nguyện điều gì. Sự giải thoát thành tựu được do nhờ hành thiền, quán niệm về lý "đau khổ" (dukkha) được gọi là Appaṇihitavimokkha.
36. Sīlavisuddhi, Giới Tịnh.
Giới đức trong sạch là "Thanh Tịnh" đầu tiên trong bảy "Thanh Tịnh". Giới thanh tịnh gồm bốn loại, Tứ Thanh Tịnh Giới, tất cả đều liên quan đến đời sống của một vị tỳ khưu.
Loại giới thanh tịnh đầu tiên là Pātimokkha- saṁvarasīla, Giới Bổn Thanh Tịnh. Những gì nâng đỡ cứu giúp, không để cho người nghiêm chỉnh hành trì rơi vào bốn khổ cảnh" là ý nghĩa của danh từ "Pātimokkha". "Pā" cũng đuợc các nhà chú giải giải thích là giáo huấn của Đức Phật. Atipamokkha là cực kỳ quan trọng. Như vậy Pātimokkha có nghĩa là giới luật căn bản, nền tảng cốt yếu của giáo huấn, thường được gọi là "Giới Bổn", bao gồm 220 giới luật [*] mà tất cả các vị tỳ khưu, và mỗi vị, đều phải nghiêm túc giữ gìn trong sạch. Vì những giới nầy giúp tiết chế, tránh có những hành động bất thiện v.v.. nên được gọi là "saṁvara". "Sīla" được dùng trong nghĩa "bình tĩnh" (samādhāna) và "nâng đỡ" (upadhāraṇa). Được gọi như vậy vì Giới Bổn có chiều hướng ghép những hành động bằng thân, khẩu, ý vào khuôn khổ kỷ cương, và cũng vì Giới Bổn tác hành như yếu tố nâng đỡ những phẩm hạnh khác.
[*] Nếu tính luôn bảy phương cách giàn xếp những cuộc tranh cãi (adhikaraṇa samatha dhamma) thì có 227 giới.
Giới thứ nhì là Indriyasaṁvarasīla, Thu Thúc Căn Tịnh, giúp thu thúc lục căn. Giới thứ ba là Ājīvapārisuddhi- sīla, Chánh Mạng Giới Tịnh, giúp vị tỳ khưu giữ gìn chánh mạng cho được trong sạch. Trong khi thọ lãnh bốn món vật dụng cần thiết cho đời sống, vị tỳ khưu không nên có những phong độ không thích nghi. Paccayasannissitasīla, giới thanh tịnh thứ tư, liên quan đến việc xử dụng bốn vật dụng cần thiết là y, thức ăn, chỗ ở và thuốc men, một cách không ích kỷ mà với tâm rộng lượng, nghĩ đến việc chia xẻ với người khác.
37. Cittavisuddhi, Tâm Tịnh,
là "Thanh Tịnh" thứ nhì. Đây là tâm trong sạch mà hành giả thành đạt nhờ công phu trau giồi và phát triển các tầng Thiền, tạm thời đè nén các Triền Cái, những chướng ngại tinh thần. Tâm trong sạch cũng giống như mặt gương được lau chùi bóng loáng, có thể phản chiếu sự vật một cách trung thực, đúng trong bối cảnh của nó. Với tâm thanh tịnh hành giả có thể nhìn thấy sự vật đúng thật như sự vật là vậy.
38. Diṭṭhivisuddhi, Kiến Tịnh,
là "Thanh Tịnh" thứ ba. Được gọi như vậy vì sự trong sạch nầy thanh lọc, không để cho tâm có những ý tưởng sai lầm dung nạp lý thuyết về một linh hồn trường cửu. Sự hiểu biết chân chánh nầy là kết quả của công trình quán trạch phần tâm linh và phần cơ thể vật chất nầy theo những đặc tướng (lakkhaṇa), theo cơ năng và những đặc tính chánh yếu (rasa), theo phương cách biểu lộ (paccupaṭṭhāna), và theo nguyên nhân kế cận (padaṭṭhāna) của danh và sắc.
39. Kaṅkhāvitaraṇavisuddhi, Đoạn Nghi Tịnh,
là "Thanh Tịnh" thứ tư. Trạng thái trong sạch nầy có chiều hướng vượt qua khỏi những mối hoài nghi về nhân và quả, về quá khứ, hiện tại, và vị lai. Được gọi là thanh tịnh, hay trong sạch, bởi vì nó gội rửa bợn nhơ của những ý niệm lầm lạc về sự "rủi may", "không nhân, không quả" v.v..
Nhằm thành tựu trạng thái thanh tịnh nầy hành giả hành thiền quán tưởng về những nguyên nhân khác nhau có chiều hướng tạo nên danh và sắc hiện tại, và những nguyên nhân nuôi dưỡng bảo trì nó trong hiện tại. Hành giả hiểu biết rằng vào lúc được thọ thai vào bụng mẹ, danh và sắc hiện tại được vô minh, ái, thủ và Nghiệp tạo duyên, và trong đời sống sắc nầy được nghiệp, tâm, hiện tượng thời tiết và vật thực tạo điều kiện để sống. Còn danh, phần tâm linh, đuợc bảo trì nhờ lục căn, những giác quan, và lục trần, những đối tượng của giác quan. Như vậy hành giả chứng ngộ được chân lý thâm diệu thứ nhì về nhân sanh khổ của Tứ Diệu Đế và tự mình vượt thoát ra khỏi mọi hoài nghi.
40. Maggāmaggañāṇadassanavisuddhi, Đạo Phi Đạo Tri Kiến Tịnh, là "Thanh Tịnh" thứ năm.
Vị hành giả đã thanh lọc mọi bợn nhơ hoài nghi, tiếp tục hành thiền với sự hiểu biết sâu sắc hơn về ba đặc tướng vô thường, khổ và vô ngã. Hành giả nhận thức rằng đời sống chỉ là một luồng trôi chảy, một sự di động liên tục không gián đoạn. Không thể có hạnh phúc thật sự, bởi vì mỗi hình thức vui thú chỉ là dấu hiệu báo tin cho biết đau khổ sắp đến. Cái gì không thường còn mà luôn luôn biến chuyển là nguyên nhân đưa đến đau khổ, và nơi nào biến đổi và đau khổ chiếm ưu thế thì không thể có một tự ngã trường tồn, hay một linh hồn. Trạng thái phát sanh và hoại diệt của các pháp hữu vi (những sự vật được cấu tạo) trở thành rõ rệt hiển nhiên đối với hành giả. Trong khi để hết tâm trầm tư thấm sâu vào công phu hành thiền hành giả thấy một vầng hào quang (obhāso) phát tủa ra từ thân mình như kết quả của tuệ giác sâu sắc. Hành giả cũng chứng nghiệm một loại phỉ (pīti), lạc (sukha), và khinh an, cảm nghe thoải mái nhẹ nhàng (passaddhi), chưa từng bao giờ được hưởng. Hành giả cũng trở nên rất chuyên cần (paggaho) và tâm hoàn toàn bình thản (upekkhā, tâm xả). Tâm đạo của hành giả trở nên càng mãnh liệt nhiệt thành hơn (adhimokkha), tâm niệm (sati) tăng trưởng vững mạnh, và trí tuệ (ñāṇa) càng sáng suốt. Hành giả càng tận lực chuyên cần với ý niệm sai lầm là mình đã chứng đắc Đạo Quả Thánh, nhất là khi chứng nghiệm được hào quang, trạng thái tâm mà mình nóng lòng khao khát ước mong (nikanti) thành tựu. Nhưng không bao lâu sau, hành giả nhận thức rằng công phu cố gắng trên chỉ là những trở ngại (upakilesa, tùy phiền não) trên đường đến tuệ minh sát, và chính mình không thật sự chứng Thánh Quả. Hiểu biết vậy, hành giả cố gắng phân biệt đường chánh và nẽo tà (maggāmaggañāṇadassana, đạo phi đạo tri kiến). Đuợc gọi là sự hiểu biết "thanh tịnh" (visuddhi) bởi vì tuệ giác nầy thanh lọc mọi ý niệm lầm lạc về cái gì thật sự là "con đường". Hành giả hiểu biết "Cái nầy đúng là con đường chân chánh, cái kia là con đường sai lầm".
41. Paṭipadāñāṇadassanavisuddhi, Đạo Tri Kiến Tịnh
là "thanh tịnh" thứ sáu. Danh từ nầy áp dụng chung cho chín loại tuệ bắt đầu bằng tuệ giác liên quan đến sự phát sanh và hoại diệt của các pháp hữu vi và chấm dứt với tuệ thuận thứ, vốn khởi sanh tức khắc trước chặp Chuyển Tánh (Gotrabhū). (Xem trang 503, ghi chú #1).
42. Appanā, là Con Đường siêu thế (lokuttaramagga).
43. Anuloma, Thuận Thứ.
Xem chương IV, và ghi chú #1, cùng chương nầy.
44. Vuṭṭhānagāminīvipassanā
là cái tên đặt chung cho Saṅkhārupekkhāñāṇa, tuệ xả hành, và Anulomañāṇa, tuệ thuận thứ, là hai trong mười loại tuệ. Được gọi như vậy bởi vì nó dẫn đến Con Đường thoát ra khỏi những khổ cảnh và những đặc tính của các pháp hữu vi.
45. Gotrabhū, Chuyển Tánh
theo nghĩa đen là "khắc chế dòng dõi phàm tục". Đối tượng của chặp tư tưởng nầy là Niết Bàn, nhưng sự chứng ngộ Niết Bàn bằng cách tận diệt những khát vọng thật sự khởi phát trong sát-na Đạo, tức khắc theo liền đó. Cũng chặp tư tưởng cá biệt nầy mà nằm trong ba tầng Thánh cao hơn -- tức Tư Đà Hàm Đạo, A Na Hàm Đạo và A La Hán Đạo -- được gọi là "vodāna" (tinh khiết) bởi vì vào lúc bấy giờ hành giả đã là một bậc Thánh Nhân.
46.
Tức khắc theo sau chặp tư tuởng Gotrabhū (Chuyển Tánh) liền khởi sanh sát-na Đạo của tầng Tu Đà Huờn. Chính vào giai đoạn nầy mà hành giả thấu hiểu Chân Lý Thâm Diệu về sự Đau Khổ (Khổ Đế), tận diệt ái dục, nguyên nhân sanh khổ, và thật sự chứng ngộ Niết Bàn lần thứ nhất trong đời. Tám chi của Bát Thánh Đạo cũng được phát triển đầy đủ vào giai đoạn nầy. Chặp tư tưởng đặc biệt nầy có tên là "Sotāpatti magga", Nhập Lưu Đạo, hay Tu Đà Huờn Đạo. "Sota" ở đây có nghĩa là dòng suối chảy đến Niết Bàn. Đó là Bát Thánh Đạo. "Āpatti" có nghĩa là nhập vào lần đầu tiên. Được gọi là "Magga", Đạo, bởi vì khi khởi sanh nó diệt trừ các khát vọng. Chặp tư tưởng Đạo nầy chỉ phát sanh một lần duy nhất trong một đời, và tức khắc tiếp liền theo sau là hai hoặc ba sát-na "Quả" (Phala), trước khi luồng tâm trôi chảy vào bhavaṅga. Vì lẽ ấy Giáo Pháp (Dhamma) được gọi là "akālika", được chứng ngộ tức khắc, không đợi thời giờ.
47. Paccavekkhaṇañāṇāni, Tuệ Ôn Duyệt.
Thông thường sau mỗi tầng trong bốn tầng Thánh hành giả suy tư về Đạo và Quả mà mình vừa thành đạt, về Niết Bàn mà mình vừa chứng ngộ, về những ô nhiễm mà mình đã diệt trừ, và trong trường hợp của những vị Thánh của ba tầng đầu, về những ô nhiễm mà mình còn phải tận diệt. Một vị A La Hán đã không còn ô nhiễm để tận diệt thì hiểu rõ rằng mình đã giải thoát.
Có tất cả 19 loại tuệ suy tư ôn duyệt như vậy, 15 thuộc về ba tầng Thánh đầu tiên, và 4 thuộc tầng Thánh cuối cùng. Câu chữ Pāli "n'āparaṁ itthatthāya", không còn trở lại trạng thái nầy nữa, hàm xúc tiến trình suy tư nầy.
48. Ñāṇadassanavisuddhi, Tri Kiến Tịnh
Là tên của tuệ giác, tức một trạng thái tâm của trí tuệ, nằm trong chặp tâm Đạo. Sự hiểu biết nầy được gọi là "thanh tịnh" bởi vì nó được thanh lọc hoàn toàn, không còn mảy may dính chút bợn nhơ hay ô nhiễm nào, do kết quả của sự chứng ngộ Tứ Diệu Đế, bốn Chân Lý Thâm Diệu. Đây là "thanh tịnh" thứ bảy.