Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

2. Phẩm cầu pháp thứ hai mươi

03/05/201312:51(Xem: 9923)
2. Phẩm cầu pháp thứ hai mươi

Kinh Hoa Thủ

2. Phẩm cầu pháp thứ hai mươi

Hòa thượng Thích Bảo Lạc

Nguồn: Hòa thượng Thích Bảo Lạc Việt dịch

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn từ tam muội Bất Ðộng Biến an lành đứng dậy bảo Xá Lợi Phất rằng, chư Ðại Bồ Tát có bốn pháp hạnh được trí bất thối, vì khéo biết giữ tâm từ bi trí huệ tam muội, cũng là trí vô ngại nên được thập lực của Phật. Ðối với các pháp có trí phân biệt được vô ngại biện, vô đoạn biện, tiệp tật biện, nhạo thuyết biện, thâm biện, lợi biện, vô đẳng biện, được pháp tổng trì (3), thường gặp chư Phật, chánh tín xuất gia, phụng hành chánh pháp, đời đời sanh ra tài lợi dư dật, quyến thuộc sum vầy, sắc tướng không thiếu, thân không tật nguyền. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, sáu căn không thiếu; nói năng hoạt bát, trí không mê mờ, không hành tà đạo, chí không điên đảo, niệm không tán loạn. Nhớ tới việc trước tâm biết hổ thẹn, thường khéo suy xét, xa lánh việc ác. Chuyển thân đổi kiếp, không quên chánh niệm, chẳng mất bổn nguyện. Vì chư Phật mà gieo căn lành, vốn không chấp ngã và cái của ta; chỉ vì hết thảy chúng sanh đồng hành, không phân biệt tướng chúng sanh.

Tuy phân biệt pháp mà không nương pháp. Vì không nương pháp nên ma vương, dân ma và tà đạo không phá hoại được. Thẳng tiến Bồ Ðề, ngồi tòa đạo tràng, định trong các pháp niệm tịnh ấn tam muội. Dùng nhất niệm hợp với trí tuệ nên biết hết thảy vạn pháp có thể đắc, có thể đoạn, có thể chứng, có thể tu. Hoặc pháp hữu lậu (thế gian) hoặc pháp vô lậu (xuất thế gian) ; hoặc thế gian hay xuất thế, hoặc gần, xa, lớn, nhỏ, dài, ngắn... Hoặc quá khứ, hiện tại, vị lai, hoặc tâm sở hành, trí sở hành, tâm suy lường hoặc trí suy lường; tâm duyên hay trí duyên, tâm tưởng hay trí tưởng. Tâm số hay pháp số, do chúng sanh số hay giả danh mà có nên có thật pháp. Các tướng chung hay tướng riêng và mọi pháp do nhân hoặc do sự mà nói pháp. Tại sao thế? Hoặc dùng ngôn ngữ hay sự tướng, hoặc dơ hoặc sạch... tất cả đều là những danh từ qua ngôn từ thế gian. Như gọi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, đầu, chân, lông, tóc v.v... mỗi phần của cơ thể đều là danh từ cả. Cũng như các pháp bên ngoài gồm có đất, nước, lửa, gió... mỗi mỗi chỗ có danh từ khác nhau. Như nói mặt trời, mặt trăng, phạm vương, đế thích, chư thiên, dạ xoa... Tùy theo hình tướng mà nói về hình tướng; tùy chỗ phân biệt và thẩm xét, hoặc nhân hay duyên, đạo hoặc hạnh, buộc hay mở, phương tiện hoặc diễn tiến; trí hay huệ hoặc trí phương tiện, và những kỹ thuật thế gian đều là những việc đẹp xấu như thế. Trong hết thảy pháp tư lương tịnh ấn tam muội dùng nhất niệm hợp với trí huệ để đạt đến cứu cánh; trừ diệt phiền não không còn sót thừa. Những gì là bốn pháp? Này Xá Lợi Phất: Ðại Bồ Tát phát tâm đại thừa, vì lợi ích tất cả chúng sanh mà phát tâm trang nghiêm rộng lớn. Phải suy nghĩ như thế nầy: tất cả chúng sanh vì tham dục, sân hận, si mê bừng bốc mạnh mẽ mà không có được lấy một hành vi thiện, khi chết rơi vào địa ngục, khó mong cứu thoát ra khỏi. Ta nay vì những chúng sanh này mà tích chứa phương thuốc đại trí huệ cứu chửa lành bịnh, làm cho chúng ra khỏi ba cõi; vì chúng sanh chẳng cần cầu thầy trị liệu nên được pháp tướng không hoại. Không hoại sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến đạo quả Niết Bàn...

Chư Bồ Tát lúc phát tâm, vì muốn cầu pháp nên phát nguyện rộng lớn trang nghiêm như thế. Vì sao gọi là pháp? Pháp có khả năng trợ đạo vô thượng Bồ Ðề, ấy là Phật Pháp, đoạn nghi ngờ chúng sanh làm cho chúng hoan hỷ trong kinh tạng Ðại Thừa để đọc tụng, thọ trì đúng như kinh điển mà tu hành. Tùy căn cơ lợi độn (ngu muội) của chúng sanh mà nói pháp. Bồ Tát chuyên tâm cầu pháp như thế, cho đến hiểu rõ một bài kệ bốn câu, dùng các phương tiện sâu xa với ý nghĩa cần thiết mà dẫn lời Phật thuyết. Hoặc thọ hay trì (5), đọc tụng, biên chép cho đến đem giảng pháp cho một người, trước hết nên phát nguyện là

muốn cho người này thuận theo giáo pháp, và tất cả chúng sanh cũng đều được hiểu rõ. Bồ Tát dùng nhân duyên thuyết pháp ấy làm trên và trước nhất, được chư Phật tùy hỷ, bậc trí tán dương. Như vậy, những gì là bốn pháp? Bốn pháp ấy là:

1) Ðối với Phật Pháp được niệm bất đoạn và quyết định

2) Thân kham chịu làm pháp khí

3) Vì chư Phật hoằng pháp hoá dộ chúng sanh

4) Ðạt được các pháp đà la ni (thiền định)

đời đời sanh ra gặp được Phật pháp, không rơi vào chỗ tà kiến.

Ở trong Phật pháp thường ưa xuất gia, xa lìa ngũ dục. Ðó là bốn pháp.

Bồ Tát lấy bốn pháp đây làm nhân duyên gieo căn lành nên được 10 pháp. Những gì là mười? Ở trong các pháp trừ các mối hồ nghi, biết được tâm vui thích của chúng sanh nên đạt được giải thoát vô ngại của chư Phật. Do giải thoát nên thân Phật ở mỗi lỗ chân lông thường phát ra trăm nghìn vạn ức vô số hào quang rực rỡ. Mỗi tia sáng chiếu đến trăm nghìn, vạn ức a tăng kỳ cõi. Trong mỗi tia sáng đều có trăm nghìn vạn ức a tăng kỳ vô số những hoa sen báu. Trên mỗi hoa sen báu đều có đức Phật ngồi. Mỗi vị Phật đều nói một pháp độ thoát cho trăm nghìn vạn ức chúng sanh được pháp bất hoại. Như Lai do lực giải thoát này mà nơi mỗi một lỗ chân lông đều tỏa ra ánh sáng và trăm nghìn vạn ức tia chớp sáng như núi Tu Di, cũng như tỏa ra vô số chất nước luân lưu... đều nhờ lực giải thoát vô lậu làm cho cả ba nghìn đại thiên thế giới đều thu gọn trong một lỗ chân lông, bỏ chấp cõi khác.Trãi qua vô số hằng hà sa các quốc độ chúng sanh không còn bị bức hại, cũng như chẳng còn phân biệt có ý tưởng vãng lai nữa.

Này Xá Lợi Phất, nhờ lực gải thoát vô ngại này Phật hiểu rõ ngôn ngữ khác nhau của chúng sanh trong 10 phương, cũng như hiểu rõ tâm niệm của chúng sanh trong trăm nghìn vạn ức a tăng kỳ kiếp; cũng như trừ nghi cho chúng sanh trong vô lượng a tăng kỳ cõi, những nơi không có Phật pháp. Cũng do lực giải thoát vô ngại nên điều phục (7) sự bừng bốc và tâm phân biệt của chúng sanh. Biết tất cả tướng các pháp sai biệt để quyết định chắc rằng hết thảy đều là không; trong đó không có tướng ngã và ngã sở (8) mà xa lìa các tướng hữu vi. Tại sao thế? Vì Như Lai xét trong các pháp hữu vi có những điều sai quấy làm mất hết các công đức lành, nên không một vật gì có thể giữ lại được cả. Do hiểu rõ như thế nên được pháp vô ngại này.

Này Xá Lợi Phất, Như Lai do lực giải thoát nên đạt được bốn pháp. Những gì là bốn? Bốn pháp ấy là:

1) Ðoạn diệt phiền não và tập khí (thói quen khó trừ)

2) Lúc Phật đi, nếu có chúng sanh nào sờ đụng chân Ngài thì trong 7 ngày được an lạc

3) Khi Phật xoay mình qua bên phải thì trong ngục sâu tám vạn bốn nghìn do tuần đều chuyển động như bánh xe xoay vòng.

4) Thường vui trong thiền định, tâm không tán loạn.

Này Xá Lợi Phất! Nói tóm tắt Bồ Tát cầu pháp phải dốc tâm trong Phật pháp. Lúc đó đức Thế Tôn muốn làm cho rõ nghĩa này nên nói bài kệ:

Như người cầu Phật trí
muốn tâm đại từ bi
Ðạt trí huệ giải thoát
phải tôn kính giáo pháp
Muốn thần thông đạt được
đi lại cõi ba nghìn
biết rõ tâm chúng sanh
phải nên tôn kính pháp.
Như muốn từ một niệm
biết hết tâm mọi loài
là tâm vô hình sắc
hư huyễn không bền chắc.
Do vì tôn kính pháp
thường được quả báo tốt
cũng biết rõ chư Phật
và vô lượng Phật pháp.
Do vì tôn kính pháp
thất niệm (9) thường không mất
Ðời đời sanh chốn nào
được tăng thêm chánh niệm.
Do vì tôn kính pháp
sắc thân thường chẳng khuyết
Sanh ra tướng đoan chánh
các căn đủ khỏe mạnh
Và gặp được Phật Thánh
Gặp Phật tâm chánh tín.
Do vì tâm thanh tịnh
Thâm tín (10) cúng dường Phật
Ðời đời sanh nơi đâu
niệm tin tăng trưởng sâu
lìa ác ngũ dục xấu
thường ưa hạnh xuất gia.
do niềm tin sâu xa
Chuyên trì các giới hạnh
an trú trong thiền định
Chẳng lấy giới tự khoe
Vui trong các phép thiền
vẫn không cho là đủ
vì cầu chân trí huệ
nên trừ hết các lậu
Ưa thực hành trí huệ
mà chẳng chấp tướng huệ
do hành huệ vô tướng
Phật pháp tìm đúng hướng
được pháp huệ tỏ sáng
Phật ngợi khen tán thán
Bậc pháp khí xứng đáng
Hộ vệ Phật thần thông
Người được Phật gia hộ
và bốn trí vô ngại:
Biện tài vô cùng tận,
Lợi tha mà thuyết pháp
Ba: luôn hộ trì pháp
đầu giữa và sau rốt
thường hay tán dương Phật
Chúng sanh nhuần lợi lạc
được chư thiên hộ sát
long thần thảy kính cung
chư Phật hộ niệm cùng
Mười phương danh vang lừng
tiếng tăm không mất thường
ưa làm các hạnh lành
Các pháp quấy xa lánh
Phật đạo thường tu hành
Làm đèn sáng chánh pháp
Mối nghi ngờ trừ diệt
Tánh trí huệ tịnh thanh
hay trừ não chúng sanh
An trụ trong đạo Thánh
Chẳng nói điều tà ngạnh
Pháp tối thắng tu hành
Ðạo vô thượng thậm thâm.
Người ấy chẳng nương tâm
cũng chẳng phải không nương
biết tâm, pháp huyễn tướng
nên không thể dựa nương
Do tâm không nương đây
Phật đạo giữ tu thường
Ðại chúng nhóm đủ đầy
mà tâm không chấp trước
Thích giáo hóa các phương
Tránh những nơi ồn náo
không tham danh đắm lợi
xa thân bằng, các mối
không một mảy bợn nhơ
Tâm tịnh như hư không
Bồ Tát ấy ai trông
mà lòng không cung kính.
Nghe pháp như thế ấy
phải nhứt quyết học ngay
đạt được Phật pháp này
Lợi lạc chúng sanh thảy
Nương theo diệu pháp đây
không gặp chướng ngại nào.
Ta nói pháp chánh đạo
cho kẻ trí nghiệm giáo.

Lại này, Xá Lợi Phất, như Ðại Bồ Tát vì cầu pháp nên cần học rộng nghe nhiều, nghe nhiều các pháp phương tiện. Thế nào là học rộng nghe nhiều, nghe nhiều phương tiện?

Này Xá Lợi Phất, người đa văn nhờ nghe từ người khác mà được. Còn nghe nhiều phương tiện là tự mình chuyên tâm chánh niệm, nghe từ người khác, nghe chư Phật nói pháp, lời lẽ hợp đạo lý nên gọi là Tu Ða La, Kỳ Dạ, Xà Già La Na, Già Ðà, Ưu Ðà Na, Ni Ðà Na, A Ba Ðà Na, Y Ðế Vị Ða Già, Xà Ða Già, Quảng Kinh, kinh Vị Tằng Hữu, Ưu Bà Ðề Xá... đều gọi là nghe lời nói từ xa thuận hợp với đạo. Thế nào là tư lương chuyên tâm chánh niệm đối với các pháp phương tiện? Biết rõ năm ấm, mười hai nhập (11), mười tám giới (12), mười hai nhân duyên (13) ; từ duyên sanh pháp là đúng, sai, tốt, xấu, phân biệt, chọn lựa đều nhập pháp tánh, pháp tướng, pháp vị đều thông suốt như thế gọi là chánh niệm. Tại sao thế? Này Xá Lợi Phất ! Vì Như Lai phương tiện nói năm ấm chẳng phải năm ấm, nói 12 nhập, 18 giới mà chẳng phải nhập giới, nói 12 nhân duyên mà chẳng phải nhân duyên. Nói các pháp do duyên sanh nên không có định tướng; vì muốn độ chúng sanh mà nói như thế. Vì thế các Thầy nên theo nghĩa chớ y theo lời (14) . Người phàm phần nhiều không đủ trí nên theo lời; kẻ trí theo nghĩa chớ không theo lời.

Này Xá Lợi Phất, thế nào là ngôn thuyết? Sở dĩ có ngôn ngữ, văn tự khác nhau, do tướng tìm cầu, nhận biết, phân biệt, thấy, suy đoán, chứng minh, tu tập, có tướng, không tướng, theo tâm hay tâm số; có chỗ nghi lầm, có đây, có kia... Phân biệt bày tỏ các pháp như thế đều là ngôn thuyết. Này Xá Lợi Phất, thế nào là cái nghĩa phải nói ra để chỉ rõ mới gọi là nghĩa? Nếu chỉ phân biệt nghĩa gọi đó là ngôn thuyết. Vì thế, này Xá Lợi Phất ! Ông nên biết cái nghĩa không phải là ngôn thuyết. Do cái nghĩa đây, trong kinh ta nói Như Lai không giống người đời nói việc thế gian. Này Xá Lợi Phất, chỉ có Như Lai dùng phương tiện nói ấm, giới, các nhập, mười hai nhân duyên, từ duyên sanh pháp, ngoài ra không còn gì khác. Này Xá Lợi Phất, Phật thuyết pháp và chọn các pháp không tranh cãi. Sao gọi là pháp? Thế nào là chọn pháp? Này Xá Lợi Phất, mắt là pháp, tai, mũi, lưỡi, thân, ý là pháp. Tại sao thế? Vì mắt ở quá khứ, vị lai còn chưa có, huống gì là hiện tại ư !. Tại sao thế? Vì tánh của mắt tự nó đã là pháp; tai, mũi, lưỡi, thân, ý, quá khứ, vị lai đều không, huống gì là hiện tại. Tại sao thế? Vì tánh của ý tự nó đã là pháp. Còn tuyển trạch là sao? Là chọn lựa như chọn mắt, vì mắt do duyên sanh không, không tướng nhất định. Nếu có định tướng mắt phải là mắt. Nếu mắt chính là mắt thì cả hai mắt như vậy có thể thấy được cả bên trong. Vì có sự sai lầm như thế nên tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng đều như vậy cả. Thế thì chọn lựa gọi là pháp nhãn. Trong nghĩa này, bậc chánh kiến đại sĩ nên quán sát mắt là từ giả danh. Nhãn, pháp và pháp nhãn trong ba thứ, cái nào là thật? Nên biết rằng, cả ba đều không, vì đều do ngôn thuyết, không một cái nào thật cả. Tại sao thế? Có ngôn thuyết, tức còn theo chỗ hiểu biết. Cái biết ấy hoàn toàn là pháp thế gian. Pháp thế gian không phải xuất thế gian mà hễ không phải xuất thế gian là nghĩa của ngoại đạo. Nếu nghĩa của ngoại đạo không phải của Phật thuyết. Tại sao? Vì Phật nói pháp xuất thế gian. Pháp xuất thế gian không phải là ngôn thuyết. Lời nói làm ngăn cách đạo, tâm hành, cảnh diệt. Vì thế, Phật tuy ngôn thuyết mà không chấp vào ngôn thuyết. Nghiệp thiện hay bất thiện đều do nhân duyên sanh. Tại sao thế? Vì mắt phân biệt vậy. Phân biệt là thế nào? Là từ mười hai nhân duyên phân ra thành tam hữu (15) .

Này Xá Lợi Phất, sao gọi là có phân biệt? Vì tự nghĩ rằng ta phải được con mắt như thế. Mỗi mỗi cái phân biệt, ưa thích là kết quả của mắt tiếp xúc với trần cảnh. Nếu mắt là mắt thật của ta thì ta làm chủ, nên gọi là có phân biệt. Hễ có tiêu diệt lại có phát sanh mạnh mẽ. Tất cả mọi khổ não đều vì TA và Cái của ta. Vì bị mắc kẹt hai bên nên gọi là có phân biệt. Này Xá Lợi Phất, cũng như chất đồng chạm nhau phát ra thành tiếng. Ông cho tiếng ấy đến từ bên ngoài hay phát xuất từ bên trong? Ðáp: thưa Thế Tôn, tiếng do các duyên mà có, chẳng phải ở trong mà cũng chẳng phải ở ngoài.

Phật hỏi Xá Lợi Phất: ông đã thấu đạt được các duyên của pháp này chưa? Ðáp: chưa đạt được. Phật bảo rằng, âm thanh vốn vô sở hữu, chỉ mượn các duyên lừa dối nhỉ căn thôi. Kẻ phàm phu con mắt thấy không thế nên sanh ra tham chấp. Trong con mắt, cái tướng của mắt hoàn toàn không có. Xét kỹ đến cùng như vậy không còn tham chấp, mới gọi là tuyển trạch. Sở dĩ nói vô nhãn, cũng như không có tướng của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng đều như thế cả.

Lúc ấy đức Thế Tôn muốn làm cho rõ nghĩa này nên nói bài kệ:

Nói rằng mắt vô thường
tức mắt vô sở hữu
Vì mắt vô sở hữu
Ai làm mắt vô thường.
Nói rằng tai vô thường
tức tai vô sở hữu
Vì tai vô sở hữu
Ai làm tai vô thường.
Nói rằng mũi vô thường
tức mũi vô sở hữu
vì mũi vô sở hữu
Ai làm mũi vô thường.
Nói rằng lưỡi vô thường
tức lưỡi vô sở hữu
vì lưỡi vô sở hữu
Ai làm lưỡi vô thường.
Nói rằng thân vô thường
tức thân vô sở hữu
vì thân vô sở hữu
Ai làm thân vô thường.
Nói rằng ý vô thường
tức ý vô sở hữu
Vì ý vô sở hữu
Ai làm ý vô thường.
Do theo mười hai nhập
nên có mười hai tên.
mười hai ấy tạo nên
mới có mười hai nhập.
Nhân đất, nước, lửa, gió
kết hợp nên con người.
Kẻ phàm theo danh tự
như chó đuổi bình đá.
Nếu người không theo danh
Ngã phân biệt không thành
Biết ngã do giả danh
là người được vắng lặng.
Trong vắng lặng không pháp
mang danh là vắng lặng.
Như thế nói vô thuyết
vô thuyết tức tịch diệt (vắng lặng) .
Vô khứ pháp ấy thiệt.
cũng chẳng phải vô khứ.
Người rõ pháp như thế
tức biết tướng tịch diệt.
Nếu tâm cảnh vắng lặng
dứt các đường ngữ ngôn
vô ngã, vô chúng sanh
ấy tịch diệt là danh
Chẳng phân biệt có, không
thì phân biệt cũng không.
Nếu tâm tưởng Niết Bàn
thì tâm cũng chẳng có
Trong pháp chẳng thấy xa
cũng chẳng thấy gần cả.
Thông đạt được huệ nhãn
nghĩa tịch diệt thấu rõ.
Nếu người nghe pháp đó
cố quán sát đắn đo
nên trừ mọi mối nghi.
Dứt sạch hết ngu si
không lầm cũng chẳng nghi
Thanh lặng chả sợ gì
An trụ thật tướng này
Ðối pháp không ngăn ngại
Bồ Tát, Ðại Bồ Tát
lưới mê tự trừ dứt
thương xót khắp chúng sanh
Nói pháp dứt nghi tình
Do nghĩa thâm diệu nầy
Pháp thật tướng hiển bày
Trừ mọi hý luận ngay.
Các vị chớ hồ nghi
Ngôn thuyết là tranh tụng
Nhân đọa vào ác thú
người tham chấp như thế
Nói chánh pháp không thể
Theo danh nghĩa như thế
thì không còn buồn lo
gần đạo vô thượng thừa
Nên thực hành nghĩa ấy.

Lại nữa, này Xá Lợi Phất, Ðại Bồ Tát trong bốn việc này phải cần hành tinh tấn. Những gì là bốn?

1/ Vì xuất gia nên cần tinh tấn

2/ Ở nơi xa vắng nên cần hành tinh tấn

3/ Trong Phật giáo cần hành tinh tấn

4/ Thấy chúng sanh khổ cần hành tinh tấn, như thế là đạt được đạo vô thượng Bồ Ðề.

Nên suy nghĩ thế này: khi nào ta được tỏ ngộ, diệt khổ chúng sanh nên phải thuyết pháp. Này Xá Lợi Phât, ta đang vì ông mà nói Bồ Tát phải cần hành tinh tấn, mới chóng đạt thành vô thượng Bồ Ðề. Ông phải nghe cho kỹ, này Xá Lợi Phất, lui về quá khứ vô lượng vô biên số kiếp khó thể nghĩ bàn, lúc bấy giờ có đức Phật hiệu là An Vương thọ bảy vạn tuổi, vì chúng Thanh Văn mở ba hội nói pháp. Hội ban đầu có hai mươi ức người chứng quả A La Hán, hội thứ hai có 40 ức người chứng A La Hán và hội thứ ba có 60 ức người được chứng quả A La Hán. Lúc bấy giờ cõi Diêm Phù Ðề rộng đến chín vạn do tuần; trong đó có 8 vạn 4 nghìn thành lớn. Mỗi một thành dài đến 12 do tuần, rộng 7 do tuần đều do kim ngân, lưu ly, pha lê, trân châu, xa cừ, mã não, bảy báu hợp thành. Những thành ấy trang nghiêm, thanh tịnh bậc nhất. Nhân dân trong thành sung túc giàu vui an ổn. Những thành kia có bảy lớp hào bao bọc xung quanh đều toàn bằng bảy báu. Trong mỗi một hào đều có nước chảy bao quanh với những hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng, đủ loại la liệt trên mặt nước; và nhiều loại chi thú lạ như diều, nhạn, uyên ương, hồng, hạc, khổng tước, đười ươi đùa giỡn trong đó. Trên bờ hào đều có bảy lớp báu, bảy lớp hàng cây như cây vàng, cành bạc, nhánh mã não, lá lưu ly. Pha lê là hoa thì mã não là quả, rễ trân châu. Cây bạc, cành vàng, nhánh pha lê, lá lưu ly, hoa xa cừ, quả mã não, rễ bằng trân châu. Cây bằng lưu ly thì san hô là cành, xa cừ là nhánh, lá mã não, hoa bạc, quả vàng, rễ pha lê. Cây bằng xa cừ thì mã não là cành, nhánh san hô, lá bạc, hoa vàng, quả pha lê, gốc lưu ly. Cây bằng mã não thì san hô là cành, nhánh bạc, lá vàng, hoa pha lê, quả lưu ly, rễ xa cừ. Cây bằng san hô thì cành vàng, nhánh bạc, lá pha lê, hoa lưu ly, quả xa cừ, rễ mã não. Tại mỗi thành đều có tám vạn hoa viên, ngang rộng đến hai mươi do tuần, tường vách bằng thất bảo bảy lớp vây quanh. Mỗi hoa viên đều có bảy báu, bảy từng lầu các, bảy lớp mành che, bảy lớp lưới giăng che phủ bên trên. Hào báu có bảy lớp thành trang nghiêm như thế và, trong những hoa viên có nhiều cây quí như chiên đàn, trầm thủy, ca la na... cũng có những loại cây tỏa mùi thơm, cây trổi âm nhạc và nhiều loại cây có hoa, cây ăn quả, những cây làm đồ dùng, cây dùng làm thuốc. Trong số những loại cây ấy cũng có những cây vàng, cây bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, mã não, san hô. Có đủ loại hoa như a đề mục đa, hoa chiêm bặc, bà lợi sư hoa, hoa đà già lê, hoa văn đà la, hòa lợi hoa, đa lợi la hoa, hoa cù đa la lợi, hoa mạn đà la, hoa ngũ sắc, hoa nguyệt thượng... có nhiều loại hoa như thế. Trong vườn có bảy trăm ao lớn ngang rộng năm dặm, có nước tám công đức (16) đầy cả trong ao. Ðáy ao trãi toàn bằng cát vàng và trang hoàng bằng bảy báu trang nghiêm, có bốn thang báu, lưới báu che phủ. Có những hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng đủ loại trãi trên mặt nước. Lúc bấy giờ vua cõi Diêm Phù Ðề là Kiền Ðức có xây cung điện trong tám vạn bốn nghìn thành lớn ấy. Mỗi cung điện có tám vạn bốn nghìn dâm nữ được chọn làm quyến thuộc. Trong những thành ấy có một thành lớn rộng đến 40 do tuần, dài 80 do tuần. Vua Kiền Ðức ở trong thành lớn ấy. Thành đều dùng toàn đồ bảy báu trang hoàng cực kỳ lộng lẫy như trên. Nhân dân ở đó được giàu vui an ổn, sung túc. Trong đại thành ấy cung vua chu vi rộng 10 do tuần đều toàn bằng thất bảo đẹp đẽ. Trong cung vua có những điện đường, lầu quán. Trong đó có một điện lớn gọi là pháp điện trang nghiêm rực rỡ hơn điện Ðế Thích. Tại cung nội có một hoa viên đẹp gọi là Thiện Pháp. Trong hoa viên có nhiều loại cây, nhiều thứ hoa, cây tỏa mùi thơm, cây trổi âm nhạc, và những cây anh lạc; các thứ cây làm quần áo, cây làm thuốc... đều bằng thất bảo, những cây ấy trang trí hoa viên.

Cung vua trang trọng nghiêm chỉnh rộng rãi, cao sang và có một đài lớn đều bằng thất bảo; bảy báu trải rộng giăng ra phủ kín cung nội.

Này Xá Lợi Phất, vua Kiền Ðức có bà vợ thứ nhất sanh được thái tử mà trước đó đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, nên được mọi người rất yêu kính vô cùng. Thái tử có oai tướng, phước đức đầy đủ. Nhà vua giao cho thái tử thành lớn ấy và buộc phải ở trong thành. Ngày sinh thái tử trong thành có 40 ức người nữ cùng sanh một lượt. Nhà vua liền ban sắc lệnh cấp họ cho thái tử làm gia quyến. Vua và phu nhân nhóm họp các đại thần lại, đặt cho con tên là Diệu Ðức. Khi sanh thái tử, chư thiên mừng vui trổi các thứ nhạc khúc, mưa hoa mạn đà la, phát ra tiếng nói rằng, thái tử Diệu Ðức nay sanh ra đời, thái tử ra đời nên gọi là Diệu Ðức. Dần dần thái tử lớn lên cùng bọn dâm nữ quyến thuộc ấy vây quanh vào vườn thưởng ngoạn, cỡi thuyền chiên đàn vui chơi ngũ dục. Lúc đó dưới nước, đức Phật hiện ra thân tướng trang nghiêm chưa từng có, sáng sạch chói ngời như ánh hồng sáng chói qua năm tháng; như thoi vàng ròng, như núi lửa vàng, như trụ báu tốt. Phật có đủ 32 tướng tốt, 80 vẽ đẹp, nơi thân tỏa ra trăm nghìn vạn ức ánh sáng rực rỡ, chung quanh có chúng đệ tử theo nghe pháp. Thái tử được trông thấy xong, liền tự suy nghĩ: người này đoan chánh, tướng mạo đĩnh đạc, thì tại sao ta không được như thân tướng ấy? Lúc thái tử đang nghĩ ngợi như thế Phật liền biến mất. Vì không còn thấy Phật nữa, thái tử sanh lo buồn. Từ đó, thái tử không vui đùa với bọn dâm nữ nữa, không gần gũi nữ sắc nữa. Thái tử từ thuyền bước xuống, lên lầu thất bảo ngồi kiết già (17), tự nghĩ rằng: lúc nào ta mới được thân tướng như Phật? Lúc đó bọn dâm nữ muốn đến vui đùa, thái tử ngoảnh lại trông thấy liền phát nhàm chán, đóng cửa không tiếp. Thái tử nghỉ thế này: chúng sanh càng nhiều tham dục thì khổ não cũng nhiều. Ta mong muốn được thân tướng tốt đẹp và được đại trí huệ. Ta cùng bọn tham dục, bệnh phiền chúng sanh có gì khác biệt? Ta là hành nhơn, còn họ chẳng phải hành giả. Chúng sanh sân hận bừng bốc nên khổ não càng nhiều. Ta mong muốn được thân tướng trang nghiêm, trí huệ tột cùng. Ta cùng bọn chúng sanh sân hận, ưu phiền này có gì sai khác? Ta là hành nhơn, còn kia chẳng phải là hành giả, ta nên tự điều phục trong chúng sanh không còn giận phiền nữa. Chúng sanh phần nhiều ngu si quá đổi nên càng lắm khổ não. Ta mong muốn được thân tướng cực đẹp, có trí huệ sáng suốt. Nếu ta cũng giống bọn ngu si phiền muộn chúng sanh thì có gì khác biệt?. Ta là hành nhơn, còn kia đâu phải là hành giả. Chúng sanh bị keo kiệt, ganh ghét buộc chặt nên càng nhiều khổ não. Nếu chúng ta cũng đồng như những chúng sanh keo kiệt, ganh ghét có gì là khác biệt? Ta phải diệt tham dục, sân si, ở trong chúng sanh khởi tâm đại từ bi, vì muốn cầu chánh đạo. Nhờ chánh đạo mà xa lìa hết thảy tham lam, sân giận, si mê, keo kiệt, ganh ghét, và những tâm niệm bất thiện. Ðã có tâm xa lìa như thế, nên ưa các phép nhiệm mầu chẳng còn thích du hí nữa mà muốn ngồi tư duy một mình để xa lánh những nơi ồn náo.

Lúc đó vua Kiền Ðức và phu nhân nghe thái tử không còn ham du hí nữa, xa lánh ngũ dục và thấy bọn dâm nữ bị ngăn cấm không được vào. Hai người bèn suy nghỉ: ai làm phiền muộn thái tử khiến chẳng vui trong ngũ dục, không thích nô đùa, lại xa lánh nữ sắc? Chúng ta nên đến hỏi thái tử xem. Nghĩ thế rồi, vua và phu nhân liền đến chỗ thái tử dùng kệ nói rằng:

Con ở nơi thanh tịnh
cung nữ được đầy đủ
Cây báu, vườn lộng lẫy
sao con lại kém vui?
Ở trong đại thành này
pháp điện cao sang thay
bao giáp khắp bốn bên
Sao con lại kém vui?
Người nào gây nên sự
để phiền muộn tâm con?
Con ngồi rầu vóc mòn
như khách buôn mất của.
Ta là cha mẹ hỏi
con phải thật tình nói.
Ai giải tỏa thắc mắc
ta mới được an tâm.
Lúc đó thái tử dùng kệ đáp rằng:
Không ai gây ra cả
Sao phải nói dối trá
chớ vu họa cho người
mà phải trị tâm mình.
Trên nước con vui đùa
thấy Phật tướng tuyệt vời
như lõi vàng Diêm Phù
rực rỡ khắp mười phương
chói sáng tày nhật nguyệt.
Ðèn chiếu và sao rọi
Phật quang làm mất dạng.
Con thấy tướng như vậy,
nên mong muốn đạt được
thân, trí huệ như Phật.
để độ già, bịnh, chết
mê, não, khổ chúng sanh
được thân tướng trang nghiêm
trí huệ khó nghĩ bàn.
Rộng lợi lạc hữu tình
khiến lìa cõi tử sanh.
Con dứt các dục tính
dâm nữ bọn gia quyến
Nay xuất gia hành thiện.
quyết làm Phật tu tiến
Mặc pháp phục đoan chánh
chuyên tu tập pháp lành.
Cha mẹ nên chí thành
xuất gia tu đạo hạnh.
phải tu tập pháp chánh
Bất an ngũ dục lánh
ái dục hại pháp lành
buộc lao ngục thọ sanh
không có phương cởi mở.
Con quyết tâm xa hẳn
thực hành hạnh thanh vắng
được huệ Phật tối thắng
Trong Phật pháp xuất gia
Nếu ai làm cản đà
Kẻ ấy chẳng lợi tha
Con thương họ làm sao !
Nhà, con, của ích nào
giàu sang ấy vô thường.
Những ai mãi ấp ôm
chẳng lâu thảy tiêu tan.
Xuất gia nhân hạnh tròn
Thiện pháp hiện phát sanh
Vào ra chốn tử sanh
Ðời đời chịu khổ não
như thế tiếp nối mãi
không định rõ con ai.
Ðối pháp không chánh quán
chấp gỉa danh như thế.
Chớ giữ con sanh tệ
Cùng xuất gia một thể.
Ta xa lìa nạn dữ
được thân người đầy đủ
thiện pháp đã tin sâu
nên gặp Phật An Vương
Nay mới xuất gia được.
Thái tử Diệu Ðức nói bài kệ xong, liền đích thân đến chỗ Phật An Vương đầu mặt lạy sát chân Phật, chấp tay hướng về Phật mà nói bài kệ rằng:
Con sanh trong lưới ma
đầy dẫy các hạnh tà.
Nay muốn chừa bỏ cả
Nguyện theo Phật xuất gia.
Tình con, cha buộc chặc
trong bao mối ràng rịt.
Ðây không thật bền vui
chỉ gốc của khổ thôi.
Con muốn mở trói ra
Bẻ dẹp các lưới ma
Nương Phật phát xuất gia.
Thành Túc Tôn Phật Ðà.
Con kinh sợ dục lạc
Vì dục lạc bất an
Mong vì pháp dứt si
Hành đạo nên xã ly.
Này Xá Lợi Phất, lúc Phật An Vương nghe thái tử Diệu Ðức xuất gia thọ giới, liền có 8 vạn 4 nghìn quyến thuộc cùng bọn dâm nữ cũng theo xuất gia. Lại còn hàng trăm ức chúng thiện tri thức khác cũng xuất gia theo. Nhà vua nghe thái tử xuất gia học đạo liền phái tứ binh cùng các đại thần đích thân đến đảnh lễ Phật An Vương, rồi chấp tay đứng một bên hướng về đức Phật mà nói kệ rằng:
Xuất gia không phiền não
Vắng lặng vui an hão
Dục lạc gốc đọa sa
Nguyện theo Phật xuất gia.
Xa vợ con, sơn hà
cùng thân bằng quyến thuộc.
Thọ dục lạc không nhàm
dơ uế thói thường phàm
kẻ thiển trí đắm tham
vui say trong ngũ dục.
Xưng tán tu pháp Phật
mọi khổ đau diệt sạch
bỏ tài sản, quốc thành
cúng Phật và chúng tăng
Mong Phật cho xuất gia
thành Phật khắp được tôn.
Vì lợi ích chúng sanh
độ hết thảy khổ ách.
Muốn xa lìa chướng hoạnh
hoạn nạn được vắng lặng.
Phật hoan hỷ tán dương
lành thay phát đại tâm !
Tôn kính Phật trí thâm
hay thay chí xuất gia !
Nghe xong vua ưng thuận
sanh tâm đại vui mừng
Lưỡng Túc Tôn (18) chắc thành
Ngưỡng Phật an ủi lành.
Vua quyết xuất gia liền
cùng với bốn chúng binh
Tâm Bồ Ðề phát sanh
Ðạo vô thượng chứng thành
Chúng đã xuất gia xong
chứng được pháp vô sanh.
trọn đời tu tập hạnh
thiên thượng được tái sanh
Gặp bậc đại danh văn
hai mươi ức đức Phật
đều nương nơi Phật pháp
Xuất gia hành chánh đạo
thường tu hạnh tinh tấn
được trí không sợ sệt
làm lợi lạc chúng sanh
thoát qua vô lượng khổ.
May gặp Phật như thế
thọ trì chánh pháp dễ
đem truyền bá rộng sâu
không hề tiếc tự thân
Ðược quả tốt thập phần
nhờ trí huệ tối thượng
Chứng pháp bất tư nghì
Ai chẳng cầu Phật đạo.

Phật bảo Xá Lợi Phất rằng, vua Kiền Ðức lúc đó không ai khác hơn là chính thân ta đây vậy. Còn thái tử Diệu Ðức chính là Kiên Ý đại Bồ Tát. Như thế, này Xá Lợi Phất, Ðại Bồ Tát do pháp an lạc mà thấy chúng sanh bị phiền não khổ đau bức bách, khởi tâm đại từ bi giáo hóa làm cho chúng nương theo thiện pháp, do nhân duyên đó dần dần được giải thoát. Lại nữa, Xá Lợi Phất, chư Ðại Bồ Tát ưa pháp nhiệm mầu nên cầu pháp vi diệu; rồi vì chúng sanh mà nói pháp nhiệm mầu ấy. Pháp nhiệm mầu là gì? Là những pháp mà người tinh tấn thường thực hành. Những người tinh tấn ấy chính là chúng Ðại Bồ Tát -những người cầu đạo bất thối chuyển - là những vị thông đạt các pháp. Thông đạt các pháp là thế nào? Như người chấp tướng của mắt, tức là theo cái giả danh, chẳng phải kẻ thông đạt tướng các tướng. Cái danh chẳng phải ở trong, chẳng ở ngoài; chẳng phải ta hay cái của ta, chẳng dơ, chẳng sạch, chẳng sanh, chẳng diệt. Tại sao thế? Vì tánh của nó thường hằng như vậy. Tánh pháp ấy không tạo tác, cũng chẳng phải có tạo tác. Ấy là mắt thông đạt các pháp mầu nhiệm. Người tìm cầu tướng của tai, mũi, lưỡi, thân, ý, tức theo cái giả danh chẳng phải kẻ thông đạt các pháp. Cái danh thì chẳng phải ở trong, chẳng phải ở ngoài, chẳng phải ta hay cái của ta; chẳng dơ, chẳng sạch, chẳng sanh, chẳng diệt. Tại sao thế? Vì tánh nó là như vậy. Tánh pháp không tạo tác, cũng chẳng phải có tạo tác. Ấy là ý thông đạt các pháp mầu nhiệm.

Này Xá Lợi Phất, người đạt pháp mầu nhiệm, tức thấu hiểu thật tướng các pháp. Như chấp giữ pháp 'Không' là người vọng chấp; còn như chấp không tướng tức là có tướng; không mong cũng là mong rồi vậy. Này Xá Lợi Phất, tánh của pháp bản lai vốn không tăng không giảm. Như thế mới gọi là thông đạt các pháp; cho nên chư Ðại Bồ Tát là kẻ tinh tấn vậy. Này Xá Lợi Phất! Lấy nghĩa gì mà cho rằng Bồ Tát thật thấu suốt biết rõ không có chúng sanh pháp, nên gọi là Bồ Tát? Ấy là những người thực hành trí huệ làm đầu nên gọi là Bồ Tát. Các vị còn làm cho chúng sanh biết pháp thực hành đều là vô sở hữu nên gọi là Bồ Tát. Lại này Xá Lợi Phất, cái nghĩa của vô sở hữu là nghĩa Bồ Tát, vô sở nguyện cũng chính là nghĩa Bồ Tát, cho nên cái nghĩa 'Bồ Tát' không hai, không chướng ngại. Này Xá Lợi Phất, không lỗi, không mất là Bồ Tát. Xá Lợi Phất này, pháp Không chính là Bồ Ðề. Không là gì? Tất cả các pháp đều KHÔNG nên gọi là không. Xá Lợi Phất, nếu trong các pháp mà còn thấy cho đến có một vật nhỏ nhiệm nào, là còn chấp tướng, chấp ngã, nhơn, tướng chúng sanh, tướng các pháp... Trong các pháp KHÔNG thì không có các tướng ấy, nên gọi là không. KHÔNG tức là Bồ Ðề. Do nghĩa này nên tất cả các pháp đều gọi là Bồ Ðề. Này Xá Lợi Phất! Ông nên theo lời Như Lai dạy, chớ nên đi ngược lại. Tại sao thế? Vì giáo pháp chư Phật là mầu nhiệm bậc nhất mà hết thảy người phàm phu không thể sánh kịp. Này Xá Lợi Phất! Vã lại, còn ở địa vị phàm phu các bậc Thanh Văn, Bích Chi Phật, người ta không thể thấy, cũng không quán sát, cũng như không thể đạt được. Các pháp chư Phật tuy tận dụng tri kiến cũng không thể quán xét hết được. Lấy gì cho rằng pháp hết trí hiểu biết hết? Không có một pháp nào hết cả. Như lìa các pháp đi vào chỗ rốt ráo tận cùng nên nói là trí hết, thật ra không biết được mỗi niệm có sự diệt tận như vậy. Vì chưa diệt tận như thế nên nói Thanh Văn, Bích Chi Phật, người thường không thể thông đạt được Phật pháp.

Này Xá Lợi Phất, trí vô sanh ấy trong các pháp còn không sanh một mảy may. Biết được như thế gọi là trí vô sanh. Bậc Thanh Văn, Bích Chi Phật, người thường không thể biết được, thế nên Phật trí khó nghĩ bàn, không ai sánh kịp. Lại nữa, trí ấy không có tà chánh nên bình đẳng. Này Xá Lợi Phất, trí tuệ Như Lai là trí chánh giác thấu suốt không sai lầm, nên gọi là Phật huệ, là trí tuệ của Phật. Trong vô biên a tăng kỳ kiếp phải tìm cầu mới được trí huệ ấy, nên gọi là Giác. Này Xá Lợi Phất, vì sao Như Lai gọi là bậc Giác? Vì tất cả chúng sanh ngủ say trong sanh tử nên bị lỗi lầm hay có mất đi cũng không hay biết. Chỉ có Bồ Tát duy nhất giác ngộ nên gọi là người tỉnh thức. Lại này Xá Lợi Phất ! Biết thấu rõ vạn pháp nên gọi là bậc giác. Chánh giác là gì? Là biết tất cả pháp, phi pháp, chẳng phải phi pháp, không dơ, không sạch, chẳng quá khứ, hiện tại, vị lai; tùy theo tướng pháp mà biết nên gọi là giác. Cũng như biết được không pháp nào sanh hay diệt, đến hoặc đi nên gọi là bậc giác. Này Xá Lợi Phất ! Cái nghĩa "Giác" ấy dò tìm trong vô lượng vô biên bất khả tư nghì cũng khó cùng tận. Ví như nước biển chỉ có một vị không tăng không giảm, nhận các dòng nước mà vẫn không tràn, dần dần chuyển vào chỗ sâu thật sâu cho đến cùng. Này Xá Lợi Phất ! Biển trí Như Lai cũng thế, không, vô sanh diệt, chỉ một vị giải thoát, tùy theo thứ lớp thuyết pháp dần dần thành sâu mầu. Ðược tất cả trí gọi là thâm sâu bậc nhất, rốt ráo thông đạt vô thượng Bồ Ðề. Ðối với các pháp không sai lầm nên không tăng giảm. Mọi điều nghi vấn không cùng tận nên gọi là không giảm. Có thể chứa các công đức lành như tiếp nhận mọi dòng hải lưu. Này Xá Lợi Phất ! Như ta nói hết nghĩa "Như Lai", ai có thể kham nhận nổi ! Như vua rồng Ta Già La muốn làm mưa to chỉ dồn nước vào biển may ra chứa hết. Như Lai cũng thế, hoặc khai mở hết trí tuệ Phật; tất cả chúng sanh, đến Thanh Văn và Bích Chi Phật đều không thể kham nhận nổi. Chỉ có chư Ðại Bồ Tát phát tâm Ðại Thừa, nhờ thần lực của Phật gia hộ mới thọ trì được. Này Xá Lợi Phất, ở đời có bốn việc rất khó đạt được. Những gì là bốn?

1/ Ðược thân người là khó

2/ Sanh nhằm giữa quốc độ (chỗ có ánh sáng văn minh) là khó

3/ Tin Phật pháp là điều khó

4/ Ðã tin giáo pháp, hiểu và đem ứng dụng thật là điều khó.

Bốn việc khó này các Thầy đều đã được, nên hỏi Phật điểm nghi trong giáo pháp. Ta đang lắng nghe các vị. Tất cả thế gian, trời, người... hãy suy nghĩ kỹ chỗ nghi đi. Như Lai chẳng bao lâu nữa phải nhập Niết Bàn, không để về sau ăn năn. Khi đó Xá Lợi Phất liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai bên hữu quỳ gối sát đất, chấp tay hướng về Phật mà bạch rằng, bạch Thế Tôn: con muốn thưa hỏi, mong Phật thuận nghe. Phật bảo: Ta đã nghe, ông cứ tùy tiện hỏi, Ta vì các Thầy giải đáp chỗ nghi vấn. Xá Lợi Phất thưa: ngưỡng mong Thế Tôn nói. Con vì bậc thượng hạnh Bồ Tát dám hỏi Như Lai, liền nói bài kệ:

An trú công đức lành
Tu tịnh hạnh cao vời
Ưa hạnh nhẫn, nhu hòa
Nay hỏi các hạnh ấy:
Bồ Tát thì thế nào?
thí, tâm tư hoan hỷ?
Thế nào phát thiện tâm
làm lợi lạc chúng sanh?
Thế nào giữ tịnh giới?
Nhẫn nhục, tâm nhu hòa?
Còn thực hành tinh tấn;
bất thối chẳng nghỉ ngơi?
Thấy chúng sanh khổ não
làm sao thương cứu hộ?
Thâm tâm muốn giác ngộ
mong Thế Tôn giải rõ.
Làm sao vô lượng kiếp
trang nghiêm Bồ Ðề đạo
tâm trọn chẳng lãng xao
mà sanh lòng hoan hỷ?
Thế nào tu thiền định,
và liễu ngộ trí huệ?
Phải cầu pháp thế nào
để thành người đa văn?
Những pháp gì nên nghe?
Và pháp gì cần dạy?
Phát tâm hạnh Bồ Ðề.
Con xin hỏi việc này:
cầu chánh pháp thế nào
đang vui say dục lạc?
Phải làm sao ly dục
để vượt thoát xuất gia?
Lúc đã được lìa nhà
tâm làm sao hoan hỷ?
Ðược xuất gia hoàn mỹ
công đức thế nào cao?
Muốn khởi tâm hồi hướng
phải phương tiện thế nào?
Ðời đời kiếp làm sao
không cho mất chánh niệm?
Lúc thọ trong thai bào
tâm Bồ Ðề tập sao
cho được thấy chư Phật
không gặp chướng nạn nào?
Bớt tham dục làm sao
từ tâm, ít giận hão
Bớt ngu si làm sao
cho tâm đừng sai quấy?
Sanh nhằm dòng vua chúa
khéo trị quốc thế nào;
để xa lìa chướng nạn
được sanh chỗ vui an?
Làm sao lo việc nước
mà tâm vẫn hỷ hoan?
Niệm tưởng đến Như Lai
hằng mong được thấy Phật?
Làm sao đủ sắc thân
đoan nghiêm tột bậc nhất?
Cùng bà con quyến thuộc
đều phát tâm Bồ Ðề.
Phải sanh nơi chốn nào
để xa lìa thân tộc;
ưa tập hạnh xuất gia
không nhiễm tâm tham trước?
Làm sao xuất gia được
chuyên thọ trì giới luật.
Sau khi Phật diệt độ
chánh pháp cần bảo hộ?
Làm sao trong đời loạn
vẫn giữ tâm thanh tịnh?
Thấy chúng sanh đa bịnh
mà đem lòng ủi an?
Làm sao nghe hành trì
chứng nhập đà la ni.
Dùng biện tài vô ngại
mà thuyết pháp vô thượng?
Làm sao biết chúng sanh
mỗi mỗi tâm sai khác?
Và ở trong thiện pháp
điều phục tâm thế nào?
Vì chư vị Bồ Tát
con hỏi đấng Nhị Túc (Tôn)
về các hạnh Bồ Tát
mong Phật phân biệt thuyết.
Như người vì Phật pháp
mà phát tâm Bồ Ðề
khi nghe Phật giảng thuyết
hoan hỷ đại từ tâm.
Phật đối với các pháp
trí tuệ không chướng ngại.
Con đem trí hữu hạn
thưa hỏi đấng Thế Tôn.
Vì con có vấn nạn
chưa hiểu rõ tường tận
mong Phật diễn nói cho
những người không thể hỏi...

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567