Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển I

03/05/201311:48(Xem: 15767)
Quyển I

Kinh Hoa Thủ

Quyển I
1. Phẩm Tựa thứ nhất

Hòa thượng Thích Bảo Lạc

Nguồn: Hòa thượng Thích Bảo Lạc Việt dịch

Ta nghe như thế này, có một dạo đức Phật tại thành Vương Xá, nước Xá Vệ, nơi vườn trúc Ca Lan Ðà; nơi đó Phật tịnh tu hạnh viễn ly (1), thực hành các hạnh không, vô tướng, vô nguyện định, nên phải an trụ cố định một nơi.

Lúc bấy giờ các ngài Huệ Mạng, Xá Lợi Phất... thừa lúc rãnh rang từ thiền định xuất, đi đến chỗ Phật, cúi đầu lạy dưới chân đức Phật rồi ngồi qua một bên. Các ngài Mục Kiền Liên, Ca Chiên Diên, Câu Hy La, Kiếp Tân Na, Câu Ðà, Tu Bồ Ðề, La Xà, Bà Kỳ Xá, Nan Ðà, Nan Ðề Dà, Bạt Nan Ðà, A Nan, Kim Tỳ La, Na La Ðà, Bà Tư Xá, Vô Ê La, Ưu Bà Ly v.v... gồm 500 vị Tỳ Kheo như thế, đều thừa lúc rãnh rang từ thiền định xuất, đồng đi đến chỗ Phật, cúi đầu lạy dưới chân đức Phật, rồi ngồi qua một bên. Lúc đó cũng có các vị tỳ kheo danh tiếng, tỳ kheo hộ quốc, chư vị tỳ kheo đuợc chư thiên cung kính, tỳ kheo thích tiếng tăm tốt, tỳ kheo ưa nhàn lạc, tỳ kheo ham muốn... 500 vị như thế đều kiết hạ an cư (2) tại nước Xá Vệ đã xong đều hướng về thành Vương Xá, nơi Trúc Lâm tịnh xá đảnh lễ dưới chân đức Phật rồi ngồi qua một bên. Lúc đó ngài Di Lặc Bồ Tát và 3 vạn vị Bồ Tát tại nước Chiêm Bà đều đã an cư xong, cùng đến Trúc Lâm đãnh lễ dưới chân đức Phật rồi ngồi qua một bên. Các vị Bạt Ðà Bà La Bồ Tát, Bảo Tích Bồ Tát, Ðạo Sư Bồ Tát, Tinh Ðắc Bồ Tát, Na La Ðạt Bồ Tát, Nhơn Ðà Ðạt Bồ Tát, Thủy Thiên Bồ Tát, Phạm Thiên Bồ Tát, Thiện Lực Bồ Tát, Ðại Ý Bồ Tát, Bất Hư Kiến Bồ Tát, Thiện Phát Bồ Tát, Ðại Lực Bồ Tát, Thường Tinh Tấn Bồ Tát, Bất Hưu Tức Bồ Tát, Nhựt Tạng Bồ Tát, Trì Thế Bồ Tát, Trì Ðịa Bồ Tát, Trì Cam Lồ Vị Bồ Tát, Thiện Trụ Ý Bồ Tát, Vô Lượng Ý Bồ Tát, Kiên Ý Bồ Tát, Việt Tam Giới Bồ Tát, Vô Biên Lực Bồ Tát, Vô Lượng Lực Bồ Tát, Kim Cang Lực Bồ Tát, Vô Ðẳng Ðẳng Lực Bồ Tát, Vô Ðộng Lực Bồ Tát, Tật Biện Bồ Tát, Lợi Biện Bồ Tát, Thâm Biện Bồ Tát, Vô Biên Biện Bồ Tát, Vô Lượng Biện Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử (3), Hoa Ðức Tạng pháp vương tử, Ðàm Vô Kiệt Bồ Tát, Bửu Thủ Bồ Tát, Trì Bảo Bồ Tát, Chuyển Vô Lượng Kiếp Trang Nghiêm Bồ Tát, Chuyển Nữ Tướng Nguyện Bồ Tát, Chuyển Nam Tướng Nguyện Bồ Tát, Chuyển Chúng Sanh Tướng Nguyện Bồ Tát, Vô Biên Tự Tại Bồ Tát, Vô Lượng Tự Tại Bồ Tát, Hoại Tự Sanh Duyên Tự Tại Bồ Tát v.v... Những vị Bồ Tát này tùy theo hạnh nguyện mà độ thoát vô lượng chúng sanh. Các vị Bồ Tát sau khi an cư xong, đi du hóa(4) các nước, bèn gặp gỡ giữa đường, cùng nhau đến chỗ đức Phật, đảnh lễ Phật rồi ngồi qua một bên.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn biết đại chúng đều đã vân tập đầy đủ, bèn dùng thần thông làm cho chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di đã an trú lâu tại nước Ma Dà Ðà đều đi đến Trúc Lâm đảnh lễ dưới chân đức Phật, rồi ngồi qua một bên. Lúc đó trưởng lão Ma Ha Ca Diếp ở hang động Ðế Thích tại núi Vi Ðề Ha cùng 500 vị tỳ kheo dừng lại ở đó và đều thực hành hạnh đầu đà (5), đi khất thực, mặc áo nạp (6), theo đúng pháp các vị thường trải tọa cụ ngồi dưới gốc cây, thiểu dục tri túc (biết đủ), ưa hạnh viễn ly. Khi ấy ngài Ca Diếp dùng thần lực của Phật làm cho hang động của họ tự nhiên biến mất, liền đến Trúc Lâm đảnh lễ đức Phật. Ðức Thế Tôn trông thấy họ, liền bảo chư Tỳ kheo rằng: các Thầy xem kìa! Ðây Ðại Ca Diếp từ xa lại, là người thường tu hạnh vắng lặng, đi khất thực, mặc áo nạp và mặc ba y (7) thô xấu; ở xa xôi, thiểu dục tri túc, ưa hạnh viễn ly, tâm không duyên các pháp, đức hạnh Thanh Văn của Ngài đều đủ cả; trong giáo pháp, hàng đệ tử của ta không ai bằng được Ca Diếp. Các Thầy nên biết, Ðại Ca Diếp đây không muốn chư thiên đề cập tới, huống gì là người ư? Lúc ấy đức Thế Tôn xoay qua bảo rằng: lành thay Ca Diếp, lâu mới gặp lại, ông lên ngồi nửa tòa của Như Lai đây. Lúc thân Phật di động, cả đại thiên thế giới sáu loài (8) đều chấn động với ánh sáng rực rỡ chiếu khắp các cõi, âm vang lan xa như tiếng chuông vàng. Ngài Ma Ha Ca Diếp trịch áo bày vai bên hữu, gối bên mặt quỳ sát đất, chấp tay bạch đức Thế Tôn rằng: Phật là bậc đại sư, con là đệ tử; y bát, tòa ngồi là sở hữu của Phật. Là đệ tử, theo đúng pháp không được xử dụng những đồ ấy. Tại sao vậy? Vì y của Như Lai được cả trời, người, thế gian cung kính cúng dường như tôn trọng chùa tháp Phật vậy. Trước đây con đã từng theo Phật nhận y Tăng Già Lê (9) cung kính tôn trọng chưa dám mặc. Con từ đó trở đi không sanh niệm ham muốn, niệm sân và não; không sanh lửa dục, lửa sân, lửa si để tự thiêu đốt mình. Bạch Thế Tôn, nói cách vắn gọn hơn, đối trong giáo pháp, con nhận y của Thế Tôn là để khi mặc vào liền được vô học (10). Con thuận nhận y của Như Lai mà thật tâm không dám cao mạn; chỉ dùng tay gìn giữ chứ không dám để lên thân. Nếu y chưa giặt, tay cũng không dám cầm, đâu dám khinh thường để gối đầu, thường đem theo bên mình chưa từng dám xa rời y. Con giữ y này như tôn kính xá lợi; Phật cho con, con không dám mặc. Con đích thân cầm y tới đây mà tâm thường nghĩ tới Phật, trừ lúc nhập định. Lúc nhập thiền định thì các tướng: đất, nước, gió, lửa cũng đều không; các tướng đời này, đời sau, các vật sở hữu với tâm thấy nghe hiểu biết mà trong đó không tưởng cũng không vô tưởng. Bạch Thế Tôn, các hạnh vô tưởng và định vô tưởng, vượt qua các tưởng hạnh, tưởng định và vô tưởng định. Trong các pháp ấy, con thấy không vô học hoặc hạnh vô học; không thấy Như Lai hoặc pháp Như Lai hay hạnh Như Lai. Như hư không có tên gọi khác nhau cũng vẫn là hư không. Hư giả không trụ cũng không sở hữu, không lấy không bỏ, không tranh, không nhận nên mang tên như thật, ấy là thanh tịnh, vô sắc vô hình nên không trông thấy được. Tuy nhiều tên gọi khác nhau như thế, song chỉ nghe được cái tên hư không, còn cái tướng của hư không thì không thể thấy được lớn, nhỏ, cao, thấp, có giới hạn hay không giới hạn v.v... Thưa Thế Tôn, bậc Thánh trí biết được tất cả mà cũng không biết rõ hư không hoặc hình sắc của hư không như thế nào. Bạch Thế Tôn, Như Lai cũng thế, hoặc gọi là Phật hay đại sư; cũng gọi Thế Tôn là đèn, là đuốc, là chỗ nương tựa, là bậc cứu cánh, là nhà của thế gian, kẻ soi sáng, viên tướng dẫn đường, là lương y trị bịnh, bậc giảng đạo, kẻ đạt đến cứu cánh, người đầy đủ trí huệ... Tuy mượn giả danh thế gian để xưng tán Như Lai như thế, song trong đó con thấy không có pháp nào có thọ hay được cả. Tại sao? Vì tất cả các pháp vốn không. Cũng như nhà thôi miên làm phép quán đảnh vua Chuyển Luân thánh vương có bốn loại binh (11), có đầy đủ thất bảo bao vây trong thiên hạ. Dân chúng trong nước thấy các hình tướng khác lạ như vậy bèn đồn đại thôi. Bạch Thế Tôn, vua Chuyển Luân không nghĩ như vậy. Chúng ta vì tôn quí vua nên thống hợp bốn loại binh bao vây thiên hạ, song bốn binh ấy nhà vua cũng không nghĩ tới. Vua là chủ, còn chúng ta là kẻ tùy tùng, tuy có đó song tâm không nghĩ vậy.

Bạch đức Thế Tôn, các tướng pháp cũng như thế, không Như Lai, không Thanh Văn, bậc hữu học (12) và vô học, không Bích Chi Phật, cũng không có phàm phu. Bạch Thế Tôn, tướng các pháp, hoặc pháp Như Lai hay tướng Như Lai đều là không, không thể biết, không thể thủ đắc. Pháp Bích Chi Phật, tướng Bích Chi Phật; hoặc pháp Thanh Văn và tướng Thanh Văn, tâm phàm phu và thân tướng phàm phu đều không, cũng không thể biết, không thủ đắc. Trong các pháp sắc tướng, sắc pháp đều không, không thể biết, không thể thủ đắc, cho đến thọ, tưởng, hành, thức (13) thức pháp, thức tướng cũng không, không thể biết, không thể thủ đắc. Bạch Thế Tôn, trong các tướng, sở dĩ gọi sắc không cho nên là không, vì vốn sắc không đều không, thọ, tưởng, hành, thức cũng đều không nên gọi là không; thậm chí thức không cũng đều không. Bạch Thế Tôn, trong các tướng không Như Lai, Như Lai pháp không cũng đều là không. Và cái không nói đây cũng không nốt, cho đến phàm phu và pháp phàm phu cũng đều là không, và ngay cả cái không này cũng đều không. Do huyễn hóa nên có chuyển luân thánh vương, có tứ binh mà trong đó thật không có chuyển luân thánh vương, không có tứ binh. Không tướng huyễn thì trong đó không có việc huyễn; không cả tứ đại: địa, thủy, hỏa, phong, các loại nước, lửa, gió, không có hư không và chủng loại hư không. Bạch Thế Tôn, con quán xét các pháp đều như thế; từ bản lai (gốc) con không theo các pháp ấy, nên đối trong các pháp huyễn không tâm phân biệt. Con nương theo pháp này, nghĩ tới công đức của Phật, ấy là chánh đạo. Bạch Thế Tôn, nếu có người thiện nam, tín nữ nào vào đạo như thế mà thực hành giáo pháp, thuận theo thầy, tôn kính theo lời dạy dỗ là có chánh kiến, không chấp như thế. Bạch đức Thế Tôn, đối với các pháp con không còn nghi vấn nữa. Con vào cửa này mà biết tất cả pháp đều là một tướng. Sở dĩ lìa tướng, không còn thấy có tướng, con đương trong động đá Ðế Thích vâng mệnh Thế Tôn nên đến đây, là vì đối trong Phật pháp con muốn thưa thỉnh Thế Tôn một vài nghi vấn mà Như Lai lại còn đoái thương chia chỗ ngồi, làm cho cả đại thiên thế giới sáu loài chấn động, nên con có thể nói chỉ có Như Lai thật là hy hữu, thành tựu được pháp thanh tịnh tuyệt vời; tự nhiên không thầy mà thành tựu đạo vô thượng, đấng đại từ bi bẻ tràng kiêu mạn, nay Ngài xót thương bèn chia tòa ngồi cho đệ tử. Thật như kẻ nghèo hèn do lòng tôn kính mà được gặp vua Chuyển Luân. Nhà vua bảo ngồi kẻ nghèo kia tự cho là việc hy hữu. Ta gặp được Thánh vương đã là khó, huống gì còn chia cho chỗ ngồi ư? Phật cũng như thế, bậc đại trí đều có oai đức lớn, là đấng pháp vương, tự giác ngộ. Các bậc Thanh Văn, Bích Chi Phật không sánh kịp, huống gì thế gian, người, trời , a tu la... Con nay được gặp Phật, thân cận thưa hỏi đã là điều lợi lớn, huống nữa còn được phân cho chỗ ngồi thật là hy hữu! Con nghĩ thế này: Như Lai đầy đủ tâm đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả (14), không tự cho mình cao tột, là bậc đứng đầu tối tôn của con ở thế gian. Công đức của Phật tự hiển hiện không như bậc Thanh Văn và Bích Chi Phật.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn tán thán ngài Ca Diếp: Lành thay, lành thay! Như ông vừa nói, Như Lai có vô lượng công đức nên thành tựu vô lượng đại pháp không thể tính kể. Như do bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ ba la mật (15), thực hành tam muội (16) tam muội ba la mật, công đức, hạnh nguyện, phương tiện, giải thoát, giải thoát tri kiến (17) ba la mật. Ca Diếp! Như Lai thành tựu bốn vô đẳng trí (18) nên giữa đại chúng oai dũng như sư tử gầm. Bốn vô đẳng trí là gì? Ðó là giới phẩm, định phẩm, huệ phẩm, Phật pháp, nên chỉ Như Lai mới có đủ bốn trí vô đẳng mà thôi. Lúc đó đức Thế Tôn muốn làm cho rõ nghĩa trên nên nói bài kệ:

Phật trí diệu cao vời
Thế gian khó nghĩ lường
Tâm, nghiệp lắng thanh tịnh
như tiếng sư tử gầm
rền vang giọng oai dũng
khiếp hãi ngoại đạo chúng
Nghe Phật Pháp nhiệm mầu
rơi vào trong đại loạn
Như người chấp ngã tướng
và trụ tướng chúng sanh
Ðối ở trong Phật pháp
ấy là kẻ ngoại đạo;
còn người nương pháp tướng
chấp ngã, tướng ngã sở
thì đối trong Phật pháp
ấy là kẻ ngoại đạo
Như người chấp giữ giới
ôm chặt mớ công đức
hoặc nghe nhiều tự cao
ấy là kẻ ngoại đạo.
Người nào ưa thiểu dục
hạnh viễn ly tri túc
và mặc y bá nạp
ấy là kẻ ngoại đạo.
Như không trung trống rỗng
bụi khói khó nhiễm dơ
gọi ấy bậc sa môn (19)
Người không nhiễm cũng vậy
như người lấy hoa thơm
hương bột và hương đốt
cúng dường khắp hư không
hư không chẳng vui mừng
Lấy bụi dơ rãi khắp
cũng không nhiễm hư không.
Với bản tánh thanh tịnh
pháp sa môn cũng vậy.
Như dùng lời ác mắng
hư không chẳng tức giận
pháp sa môn không nhiễm
dụ kia cũng như vậy.
Người nào trong pháp đây
đã học hoặc đang học
mà tâm không nhiễm trước
mới chính danh sa môn
Như hư không vô ngại
bụi khói khó phả vào
pháp sa môn cũng vậy
vốn tịnh không biến động
như trăng trong không trung
ánh sáng tỏa mênh mông
cũng chẳng hề dao động
Phật quang sáng chói lọi...
Tỳ kheo vào nhà pháp
chớ nhiễm các thói đời
như ánh trăng tỏa rạng.
Ta nay không đắm nhiễm.
Tỳ kheo vào nhà pháp
không ôm lòng kiêu mạn
tâm tự đại tự cao.
Nếu sanh đều phải diệt
tăng trưởng lòng từ bi
vô dục và vô cầu
rộng thuyết pháp báu mầu
hạnh sáng soi cõi đời...

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567