Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mật Tạng Việt Nam số 26

02/05/201319:58(Xem: 8350)
Mật Tạng Việt Nam số 26

MẬT TẠNG

PHẬT GIÁO VIỆT NAM

TẬP II

Ban phiên dịch:

Thích Viên Đức, Thích Thiền Tâm

Thích Quảng Trí, Thích Thông Đức

Cư sĩ Huỳnh Thanh, Như Pháp Quân

---o0o---

MẬT TẠNG VIỆT NAM SỐ 26

BỒ TÁT ĐẠI TÙY CẦU

DẪN NHẬP

Bồ Tát Đại Tùy Cầu có tên Phạn là Maha Pratisàrah, dịch âm là Ma Ha Bát La Để Tát Lạc, lược xưng là Bồ Tát Tùy Cầu Ngài là một Hóa Thân của Bồ Tát Quán Âm và là một Tôn trong Quán Âm Viện trong Thai Tạng Giới Man Đa La của Mật Giáo. Do Tôn này thường tùy theo sự nguyện cầu của chúng sanh mà diệt trừ tội Vô Gián; trừ tai nạn về nước, lửa, đao binh, thuốc độc; trừ nạn rồng cá; miễn trừ nạn vua quan; cầu mưa; làm ngưng mưa gió; ban cho con cái, giúp được vãng sinh về cõi Cực Lạc…. nên có tên là Đại Tùy Cầu.

Tôn này có thân hình màu vàng đậm, 8 cánh tay dơ cao theo dạng Vô Úy. Bên phải, theo thứ tự 4 tay cầm: Chày Kim Cang Ngũ Cổ, Kích Xoa, Kiếm báu, Búa. Bên trái, 4 tay theo thứ tự cầm: Hoa sen (hoặc bánh xe), Rương Kinh Phạn, Phướng báu, sợi dây.

Theo Chùa Thiền Lâm, thì tay bên phải cầm sợi dây, tay bên trái cầm Kích Xoa. Như vậy thì 2 vật khí này được ghi nhận trái ngược nhau. Nay căn cứ vào Bản Kinh Phổ Biến Quang Minh Thanh Tĩnh Xí Thạnh Như Ý Bảo Ấn Tâm Vô Năng Thắng Đại Minh Vương Đại Tùy Cầu Đà-La-Ni, thì 4 bài Chân Ngôn ghi trong quyển Thượng biểu thị cho Vô Năng Thắng Minh Vương Đại Tâm Chân Ngôn hàm chứa 4 tay Ấn: Ngũ Cổ Kim Cang Ấn, Phủ Việt Ấn, Sách Ấn, Kiếm Ấn. Còn 4 bài Chân Ngôn ghi trong quyển Hạ biểu thị cho Vô Năng Thắng Minh Phi Đại Tâm Chân Ngôn bao hàm 4 tay Ấn: Luân Ấn, Tam Cổ Xoa Ấn, Như Ý Bảo Ấn, Đại Minh Tổng Trì Ấn. Do vậy, thì vật khí bên trái chính là sợi dây và vật khí bên phải chính là cây Kích.

Tôn này có Mật Hiệu là Dữ Nguyện Kim Cang. Chủng Tử là Pra ( ) biểu thị cho Chân Đế (Pa: Nhất Nghĩa Đế) vàTục Đế (Ra: Bụi của cõi tục), nên được xưng là Lý Trí Bất Nhị Tôn. Tam Muội Gia Hình là rương Kinh Phạn (Phạn Khiếp) là Lý biểu thị cho Định Tuệ Nhất Thể. Ngoài ra, Tôn này còn có các Chủng Tử khác là: Sa,Vam, Ah, Hùm với Tam Muội Gia Hình là: Chày Ngũ Cổ, Tháp Suất Đỗ Ba trong đó có chứa rương Kinh Phạn.

Theo Tùy Cầu Bát Ấn tinh (và) Thập Đại Ấn (1 Quyển Duy Cẩn-Từ Vận) thì có 10 Ấn, nhưng chỉ lưu truyền cho thế gian 8 Ấn. Tám Ấn này biểu thị cho 8 vật khí cầm tay, khi kết các Ấn này sẽ hiển hiện 8 tay của Bổn Tôn. Trong đó, 4 tay bên phải với 4 Chân ngôn biểu thị cho Vô Năng Thắng Minh Vương; 4 tay bên trái với 4 Chân ngôn biểu thị cho Vô Năng Thắng Minh Phi.

Tám Ấn Chân Ngôn là :

1. Ấn Ngũ Cổ Kim Cang Xử (Ấn Căn Bản): Hai tay cài chéo nhau bên trong rồi nắm lại thành quyền (Nội tương xoa) hợp cứng 2 ngón giữa, đặt 2 ngón trỏ ở sau ngón giữa và hơi co lại như móc câu. Đều hợp cứng 2 ngón út và 2 ngón cái, rồi hơi co lại liền thành. Ấn này còn được gọi là Ấn Tùy Cầu Đại Hộ Minh Vương, Ấn Phát Bồ Đề Tâm, Ấn Sám Hối. Khi kết xong thì gia trì ở 5 nơi là: trái tim, đỉnh đầu, tam tinh, lông mày bên phải, lông mày bên trái. Chân Ngôn là Avìra Hùm Kham, trong đó A(Trì quốc: Giữ gìn đất nước) (Lấy Đại Bi làm gốc) Ra(Phương tiện làm cứu cánh) Hùm(Tất cả Như Lai Bí Mật Thần Thông) Kham(Các Pháp chân thật: Tất cả các Pháp rốt cuộc quy về Không Không) hoặc Đại Chân Ngôn.

Đại Chân Ngôn tên Phạn là Mahà pratisàra vidya dhàranïi lại ghi là: Tùy Cầu Tức Đắc Đại Tự Tại Đà La Ni, Đại Tùy Cầu Vô Năng Thắng Đà La Ni, Tùy Cầu Tức Đắc Chân Ngôn. Lược xưng là Tùy Cầu Đà La Ni. Đây là Chân Ngôn hay tiêu diệt tất cả tội chướng, phá trừ nẻo ác, tùy sự mong cầu liền được phước đức.

Câu chữ của Chân Ngôn này thì các Kinh ghi không giống nhau. Tuy vậy, nội dung của Chân Ngôn thì không khác nhau bao nhiêu. Ví dụ bản của Ngài Đại Quảng Trí Bất Không ghi là Mama Sarvasatvànàm Ca (Tôi và tất cả chúng hữu tình), còn bản của Ngài Bảo Tư Duy ghi là Mama Sya (Nhóm chúng tôi) hoặc một vài câu có ghi trong bản này, nhưng không được ghi trong bản kia. Tựu chung, nội dung của Bài Đại Chân Ngôn có thể chia làm ba đoạn.

* Đoạn đầu: Biểu thị cho lý Quy mạng chư Phật, Bồ Tát và Tam Bảo.

* Đoạn giữa: Diễn nói là Bồ Tát Tùy Cầu bạt tế hết thảy tội chướng, sự sợ hãi, bệnh tật của tất cả chúng sanh, khiến cho thân tâm an vui, viên mãn sự mong cầu.

* Đoạn cuối: Diễn nói là người thọ trì Đà La Ni sẽ được các hàng Trời, Rồng, Quỷ Thần… thủ hộ và được sự hộ niệm của tất cả Như Lai.

2. Ấn Phủ Việt: Tay trái úp, tay phải ngửa sao cho dính lưng nhau. 10 ngón tay cùng trợ nhau móc lưng như hình cái búa. Chân Ngôn là Nhất Thiết Như Lai Tâm Chân Ngôn.

3. Ấn Sách: Hai tay nội tương xoa, dựng 2 ngón giữa rồi hơi co lại sao cho phần trên trụ dính nhau giống như hình sợi dây, liền thành. Chân Ngôn là Nhất Thiết Như Lai Tâm Ấn Chân Ngôn.

4. Ấn Kiếm: Chắp 2 tay, co lóng giữa của 2 ngón giữa khiến cho đầu ngón cùng trụ nhau liền thành. Chân Ngôn là Nhất Thiết Như Lai Kim Cang Bị Giáp Chân Ngôn.

5. Ấn Luân: Hai tay Ngoại tương xoa, hợp đứng 2 ngón vô danh, giao cứng 2 ngón út, liền thành. Chân Ngôn là Nhất Thiết Như Lai Quán Đảnh Chân Ngôn.

6. Ấn Tam Cổ Xoa: Hai ngón cái vịn trên móng 2 ngón út. Các ngón còn lại hợp cứng như hình Tam Kích Xoa, liền thành. Chân Ngôn là Nhất Thiết Như Lai Kết Giới Chân Ngôn.

7. Ấn Như Ý Bảo: Hai tay Ngoại tương xoa, 2 ngón trỏ trụ như hình Báu, kèm cứng 2 ngón cái liền thành. Chân Ngôn là Nhất Thiết Như Lai Tâm Trung Tâm Chân Ngôn.

8. Ấn Đại Minh Tổng Trì: Tay trái ngửa ngay trái tim, đem tay phải úp trên tay trái, cùng cài nhau khiến cho bằng phẳng, liền thành. Chân Ngôn là Nhất Thiết Như Lai Tùy Tâm Chân Ngôn. 

Tám Ấn Chân Ngôn này biểu thị cho Lý Trí. Riêng Ấn thứ tám (Ấn Phạn Khiếp) dung hòa 5 Trí của 2 Bộ. Tất cả chư Phật Pháp Tạng dùng 5 Trí làm gốc. Năm Trí của 2 Bộ hòa hợp biểu thị cho một Đại Pháp Giới, trong Cung Pháp Giới này dung nhiếp 8 vạn Pháp Tạng. Đại Sư nói theo thứ tự là Nghịch chuyển Tiểu Thừa, Thuận chuyển Đại Thừa. Trong rương Kinh Phạn dung nạp nghĩa thú rõ ràng của tất cả Giáo Pháp về Đại Tiểu Thừa, cho nên Ấn và Chân Ngôn này có công năng thù thắng. Do vậy, Ấn và Chân Ngôn này thường được dùng để tác Bổn Tôn gia trì. Ngoài ra, tụng Tùy Tâm Chân Ngôn có thể làm ngưng các tai nạn, diệt tội chướng và tất cả nguyện cầu đều được đầy đủ. Riêng Tùy Tâm Chân Ngôn thì Bản của Ngài Bảo Tư Duy có ghi thêm câu Kuru Cale (Làm cho lay động) vào cuối Bài Chú mà các Bản khác không có.

Thông thường, người tu Mật Pháp này hay trì tụng Lược Pháp của 8 Ấn - Chân Ngôn là:

1. Om- Vajràya Svàha (Ngũ Cổ)

2. Om- Pra'sù Svàha (Việt Phủ)

3. Om- Pà'sa Svàha (Quyến sách)

4. Om- Khànga Svàha (Bảo Kiếm)

5. Om- Cakra Svàha (Luân)

6. Om- Tri'sùla Svàha (Tam Cổ Xoa)

7. Om- Cintamani Svàha (Bảo)

8. Om- mahà Vidya Dhàrani Svàha (Phạn Khiếp).

Tám Đạo Chú này đều được 99 ức trăm ngàn na do tha hằng hà sa đẳng chư Phật cùng nhau diễn nói, cùng nhau khen ngợi, cùng nhau tùy hỷ, nên 8 Chân Ngôn này có thế lực lớn, hay hàng phục Ma chúng. Nếu viết chép, đeo giữ, tâm thường ghi nhớ 8 Đạo Chú này, thì tất cả mộng ác, tướng ác, việc không kiết tường chẳng phạm vào thân.

Tóm lại điều cốt yếu để tu trì Pháp này là: Lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, viết chép, lưu truyền Đại Đà La Ni Đại Tùy Cầu thì sẽ được mọi loại Công đức như : Lửa chẳng thể đốt, nước chẳng thể cuốn chìm, không bị trúng độc, giáng phục địch quân, phá ngục Vô Gián, trừ nạn Rồng Cá, sanh sản an vui, miễn trừ nạn vua quan…

Về các Bản Thư liên quan đến Pháp Đại Tùy Cầu thì có rất nhiều (hơn 21 loại), nhưng chúng tôi chỉ có thể biên dịch một số Bản được ghi chép trong Mật Tạng Quyển 3, Đồ Tượng Quyển 3, 5, 6, 9 nên vẫn chưa được hoàn chỉnh. Riêng Bài Đại Chân Ngôn thì chúng tôi xin mạo muội phục hồi và ghi chép lại nghĩa thú của từng câu Chân Ngôn. Điều không thể tránh khỏi là còn sự sai sót. Do vậy chúng tôi chân thành xin các Bậc Tiền Bối, các Bậc Long Tượng trong Mật Giáo hãy rũ lòng Từ Bi chỉ bảo cho chúng tôi sửa chửa kịp thời những lỗi lầm của mình ngỏ hầu giúp ích cho những người cầu học Chánh Pháp Giải Thoát.

Cuối mùa Thu năm Mậu Dần

Huyền Thanh kính ghi

MẬT TẠNG VIỆT NAM SỐ 26

KINH PHỔ BIẾN QUANG MINH THANH TỊNH XÍ THẠNH NHƯ Ý BẢO ẤN TÂM VÔ NĂNG THẮNG ĐẠI MINH VƯƠNG ĐẠI TÙY CẦU ĐÀ LA NI

Mật Tạng Bộ 3 No.1153 (Tr.616 - Tr.632)

QUYỂN THƯỢNG

Chùa Đại Hưng Thiện, Tam Tạng Sa Môn Đại Quảng Trí

Bất Không dịch Phạn ra Hán văn.

Dịch Hán ra Việt văn : Huyền Thanh

TỰA

PHẨM THỨ NHẤT

Như vậy tôi nghe : Một thời Đức Bạc Già Phạm ngự tại Lầu gác trên đỉnh Đại Kim Cang Tu Di Lô, an trụ trong Đại Kim Cang Tam Ma Địa, dùng cây Kiếp Thọ Đại Kim Cang trang nghiêm, nơi hoa sen báu trong cái ao Đại Kim Cang, chiếu soi cát Kim Cang mà rải bày trên mặt đất. Ở cung điện Đế Thích trong Đạo Trường Kim Cang của Đại Kim Cang gia trì, dùng câu đê na dữu đa trăm ngàn tòa Đại Kim Cương Sư Tử trang nghiêm, nói pháp Thần Thông Xứ là nơi gia trì thần lực của tất cả Như Lai, nhập vào Nhất Thiết Pháp Bình Đẳng Xuất Sinh Tát Bà Nhã Trí cùng với 84 câu đê na dữu đa Bồ Tát Chúng đến dự. Các Vị này đều là Bậc Nhất Sinh Bổ Xứ, được Bất thoái chuyển nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, đều có thế lực lớn, thảy đều thị hiện Đại Kim Cương Giải Thoát Tam Ma Địa, thần thông của cõi Phật, trong khoảng sát na tùy tiện vào Tâm hạnh của tất cả Hữu tình, thành tựu mọi thứ đẹp đẽ màu nhiệm rộng lớn thâm sâu, khéo nói các Pháp, biện tài vô ngại, được đại thần thông đều hay cúng dường vô lượng Như Lai trong thế giới của Phật, thần thông tự tại của Đại cúng dường vân hải giải thoát Tam Ma Địa, Bất Cộng Giác Phần Đạo Chi, tất cả Địa Ba La Mật, thiện xảo tứ nhiếp, Từ Bi Hỷ Xả lực viễn ly, cùng gom chứa trong Tâm thanh tĩnh. Các Vị ấy tên là : Bồ Tát Ma Ha Tát Kim Cương Tạng, Bồ Tát Ma Ha Tát Kim Cương Nhãn, Bồ Tát Ma Ha Tát Kim Cương Thân, Bồ Tát Ma Ha Tát Kim Cương Tuệ, Bồ Tát Ma Ha Tát Kim Cương Thủ, Bồ Tát Ma Ha Tát Kim Cương Tương Kích, Bồ Tát Ma Ha Tát Kim Cương Na La Diên, Bồ Tát Ma Ha Tát Kim Cương Du Hý, Bồ Tát Ma Ha Tát Kim Cương Tích, Bồ Tát Ma Ha Tát Kim Cương Kế, Bồ Tát Ma Ha Tát Kim Cương Diệu, Bồ Tát Ma Ha Tát Kim Cương Tràng... Các Bậc Thượng Thủ như vậy cùng với chúng Bồ Tát Ma Ha Tát đền dự hội.

Lại có Chúng Đại Thanh Văn đều là Bậc Đại A La Hán đã đoạn trừ Hữu Kết, chấm dứt tất cả các Lậu, được Thiện Giải Thoát của Tâm Thiện Chính Tri, đều hay thị hiện Du Hý Thần Cảnh Thông của sức thần thông chẳng thể luận bàn, đều được thế lực lớn, không chấp trước vào sự thấy (Kiến vô trước) xa lìa tất cả cấu nhiễm, thiêu đốt hạt giống Tập Khí. Các Vị ấy tên là : Cụ Thọ Ca Diệp Ba, Cụ Thọ Đại Ca Diệp Ba, Cụ Thọ Ưu Lâu Tần Loa Ca Diệp Ba.. .Các Bậc Thượng Thủ như vậy cùng với chúng Đại Thanh Văn đến dư hội.

Lại có Đại Tự Tại Thiên Tử là Bậc Thượng Thủ cùng với vô lượng vô biên bất khả thuyết a tăng kỳ chúng Thiên Tử Tịnh Cư đến dự. Lại có Sa Ha Thế Giới Chủ Đại Phạm Thiên Vương là Bậc Thượng Thủ cùng với Thiên Tử Phạm Chúng đến dự . Lại có Thiên Tử Tô Dạ Ma, Thiên Tử Hóa Lạc, Thiên Tử Tha Hóa Tự Tại, Thiên Đế Thích cùng với các Thiên Tử quyến thuộc đến dự.

Lại có A Tô La Vương Tỳ Ma Chất Đa La, A Tô La Vương Mạt La, A Tô La Vương Linh Hoan Hỷ, A Tô La Vương Chiếu Diệu, A Tô La Vương La Hầu. Các A Tô La Vương Thượng thủ như vậy cùng với vô lượng vô biên A Tô La Vương quyến thuộc đến dự.

Lại có Long Vương Sa Già La, Long Vương Đức Xoa Ca, Long Vương Tô Phộc Chỉ, Long Vương Thương Khư Ba La, Long Vương Yết Cú Tra Ca, Long Vương Liên Hoa, Long Vương Đại Liên Hoa. Các Long Vương Thượng thủ như vậy cùng với vô lượng vô biên a câu đê Long Vương chúng đến dự.

Lại có Thọ Khẩn Na La Vương cùng với vô lượng vô biên Khẩn Na La Vương quyến thuộc đến dự.

Lại có Nhất Thiết Nghĩa Thành Tựu Trì Minh Tiên Vương cùng với vô lượng vô biên Trì Minh Tiên Vương quyến thuộc đến dự.

Lại có Ngũ Kế Càn Đạt Bà Vương cùng với vô lượng vô biên Càn Đạt Bà Vương quyến thuộc đến dự.

Lại có Kim Ngân Nghiệt Lộ Trà Vương cùng với vô lượng vô biên Nghiệt Lộ Trà Vương quyến thuộc đến dự.

Lại có Dược Xoa Vương Đa Văn, Dược Xoa Vương Bảo Hiền, Dược Xoa Vương Mãn Hiền, Dược Xoa Vương Bán Chi Ca cùng với vô lượng vô biên Dược Xoa Vương quyến thuộc đến dự.

Lại có Ha Lợi Đế Mẫu cùng với 500 người con là quyến thuộc đến dự.

Lại có 7 Vị Hộ Thế Mẫu Thiên , 7 vị Đại La Sát Mẫu, 7 vị Tiên Thiên dạo chơi trên hư không, 9 vị Chấp Diệu Thiên, Địa Thiên Phương Ngung, Thiên Nữ Biện Tài cùng với quyến thuộc đến dự.

Lại có loài gây chướng, Tỳ Na Dạ Ca, Tất Lệ Đa, Bộ Đa. Tất cả đều là Bậc có Đại uy đức cùng với quyến thuộc đến dự.

Lại có tất cả Sơn Vương, tất cả Hải Vương, Hộ Thế Vương, Thủy Thiên, Thiên Vương Trì Quốc, Thiên Vương Tăng Trưởng, Thiên Vương Aùc Mục, La Sát Chủ Trì Bổng, 7 vị Phong Thiên, Y Xá Na Thiên với các bà vợ cùng với 1000 câu đê na dữu đa quyến thuộc đến dự .

Lại có Thiên Na La Diên cùng với quyến thuộc đến dự.

Lại có Nại Đa Ca, Na Ma Ca, Lô Hạ Ca, Đại Già Na Bát Đề, Di Cù La Ca. Tỳ Na Dạ Ca Vương như vậy cùng với vô lượng vô biên Tỳ Na Dạ Ca quyến thuộc đến dự .

Lại có 60 vị Du Hành chư Thành Aáp Vương với quyến thuộc đến dự. Lại có bốn chị em Thần Nữ với các người anh là quyến thuộc đến dự.

Lại có Kim Cương Thương Yết La Nữ cùng với 64 vị Kim Cương Nữ là quyến thuộc đến dự. Lại có Kim Cương Quân Đồng Tử, Tô Ma Hô Đồng Tử, Đỉnh Hạnh Đồng Tử cùng với vô lượng vô biên Kim Cương Tộc là quyến thuộc đến dự.

Lại có hàng tin tưởng trong sạch nơi Phật Pháp Tăng là Trời, Rồng, Dược Xoa, Càn Đạt Bà, A Tô La, Nghiệt Lộ Trà, Khẩn Na La, Ma Hộ La Già, Bộ Đa, Tất Xá Già, A Bát Sa Ma La, Ổn Ma Na, Sa Đình Sa, Tứ Lý Ca, Ô Tát Đa La Ca, Thiên Tử Nhật Nguyệt, Thiên Thần Triêu, Thiên Nhật Ngọ, Thiên Hoàng Hôn, Thiên Trung Dạ, Thiên Nhất Thiết Thời cùng với vô lượng vô biên a tăng kỳ quyến thuộc đến dự.

Bấy giờ Đức Thế Tôn khéo chuyển bánh xe Pháp, làm xong việc Phật, viên mãn Phước Đức Trí Tuệ cứu cánh, khéo nhiếp thọ Nhất Thiết Trí Đại Bồ Đề, đắc được Ba La Mật Xí Thịnh Địa, dùng 32 tướng trang nghiêm Pháp Thân, dùng 84 vẻ đẹp trang nghiêm tất cả chi phần, Nhất thiết hữu tình vô sở quán đỉnh Tướng vượt hơn hẳn tất cả Ma La, thông đạt Nhất Thiết Trí Trí, đầy đủ năm loại mắt, thành tựu tất cả Tướng, thành tựu Nhất Thiết Trí Trí, thành tựu tất cả Phật Pháp, đập nát dị luận của tất cả Ma, hiển cao danh xưng Đại Hùng Mãnh Sư Tử Hống, phá hoại vô minh hắc ám, dùng sự gom chứa về : Thí, Giới, Nhẫn, Cần Dũng, Tĩnh Lự, Bát Nhã, Phương Tiện, Nguyện, Lực, Trí Ba La Mật, khổ hạnh khó hành trong vô lượng vô biên a tăng kỳ trăm ngàn câu đê na dữu đa kiếp, chuyển được 32 tướng Đại Nhân, 84 vẻ đẹp trang nghiêm. Thân đó ngồi trên Tòa Đại Bảo Kim Cương Liên Hoa Tạng Sư Tử. Tòa ngồi đó được trang nghiêm bằng vô lượng viên ngọc báu, võng lưới báu khi gió nhẹ thổi qua đều phát ra âm thanh vi diệu. Dùng vô lượng Kim Cương Giới an trụ Thần Túc. Dùng vô lượng báu Kim Cương trang nghiêm cho viên ngọc đỏ do con cá Ma Kiệt phun ra và dùng miệng ngậm lại. Dùng vô lượng báu trang sức cánh hoa sen. Dùng Hổ phách, đại Hổ phách, Đế Thanh, đại Đế Thanh, Bổ Sa La Già trang nghiêm cái võng, ánh sáng rộng lớn đoan nghiêm. Dùng vô lượng báu Kim Cương trang nghiêm cái cán của cây phan cây lọng. Dùng bóng mát của vô lượng câu đê na dữu đa trăm ngàn cây Kiếp Thọ trang nghiêm Tòa ngồi rộng lớn như Tu Di ấy, giống như ngọn núi vàng tỏa ánh hào quang rực rỡ sáng chói vượt hẳn 1000 mặt trời. Mặt đất của nơi ấy tròn đầy giống như mặt trăng thanh tĩnh khiến cho các Hữu tình vui thích ngắm nhìn như Pháp của Như Lai, như hoa hé nở của cây Đại Kiếp Thọ ấy. Pháp màu nhiệm đã nói : Ban đầu, khoảng giữa, chặng cuối đều tốt lành. Lời nói về nghĩa thâm sâu mau chóng của Pháp ấy rất khéo léo, thanh tĩnh, tinh khiết, thuần nhất không pha tạp.

Khi ấy từ Đỉnh đầu và Hào Tướng của Đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng lớn. Aùnh sáng này chiếu khắp 3000 Đại Thiên Thế Giới cho đến như hằng hà sa số Thế Giới của Phật. Hết thảy Như Lai ở Thế Giới đó ngồi trên Tòa Sư Tử được trang nghiêm bằng vô lượng báu, ngự bên trong lầu gác đại trang nghiêm, nói Pháp cùng với tất cả Bồ Tát, Đại Thanh Văn, Tỳ Khưu, Tỳ Khưu ni, Tịnh Tín Nam, Tịnh Tín Nữ, Trời, Rồng, Dược Xoa, Càn Đạt Bà, A Tố La, Nghiệt Lộ Trà, Khẩn Na La, Ma Hộ La Già thảy đều được chiếu diệu mà hiển hiện rõ ràng.

Bấy giờ Đức Thế Tôn vì khắp tất cả mà nói Già Đà là :

Nay Ta nói Tùy Cầu Thương xót các Hữu tình

Đại Đà La Ni này Hay đập kẻ khó phục

Các tội nặng cực ác Nếu có duyên nghe qua

Đà La Ni Tùy Cầu Tất cả tội tiêu diệt

An vui các Hữu tình Giải thoát tất cả bệnh

Đại Bi vì chúng sinh Nên Đức Thế Tôn nói

Làm cho được giải thoát Mau lìa các nẻo ác

Nếu vào cung Tu La Cung Dược Xoa, La Sát

Bộ Đa, Rồng, Quỷ Thần Các cung điện như vậy

Tùy ý vào được cả Đều dùng Đại Minh này

Mà làm nơi gia hộ Nơi chiến đấu hiểm nguy

Chẳng bị oán trớ hại Với các hàng Quỷ Mỵ

Do xưng Đà La Ni Các Mỵ đều hoại diệt

Sa Kiến, Ổn Mạt Na Tất Xá, Noa Cát Nễ

Mãnh ác đoạt tinh khí Loại hữu tình ác độc

Hết thảy đều tiêu diệt Do uy đức Tùy Cầu

Kẻ địch đều hoại diệt Hết thảy Pháp Chú Trớ

Yểm đảo đều vô hiệu Định nghiệp chẳng thọ báo

Chẳng bị trúng trùng độc Nước, lửa với đao, gậy

Sấm sét, sương, mưa đá Gió bão, mưa bạo ác

Các nạn đều được thoát Oán địch đều giáng phục

Nếu người trì Minh này Hoặc đeo cổ, đeo tay

Mọi nguyện cầu đều thành Tất cả điều mong ước

Thảy đều được như ý Thiên Vương đều gia hộ

Với các Đại Long Vương Bồ Tát, Đại Cần Dũng

Duyên Giác và Thanh Văn Tất cả các Như Lai

Minh Phi, Đại Uy Đức Thảy đều cùng ủng hộ

Người thọ trì Tùy Cầu Kim Cương Bí Mật Chủ

Bốn Thiên Vương Hộ Thế Đối với người Trì Minh

Ngày đêm thường gia hộ Đế Thích, Chúng Đao Lợi

Phạm Vương, Tỳ Lữu Thiên Với Ma Hê Thủ La

Chúng sinh Câu Ma La Đại Hắc, Hỷ Tự Tại

Tất cả chúng Thiên Mẫu Với các Ma Chúng khác

Khổ Hạnh Uy Đức Tiên Cùng với Mật Ngữ Thiên

Thảy đều đến ủng hộ Người trì Tùy Cầu này

Minh Phi, Đại Bi Tôn Dũng mãnh đủ thần lực

Ma Ma, Tỳ Câu Đê Đa La, Ương Câu Thi

Cùng với Kim Cương Tỏa Bạch Y, Đại Bạch Y

Thánh Ma Ha Ca Ly Sứ Giả, Kim Cương Sứ

Diệu Sách, Kim Cương Sách Chấp Luân Đại Lực Giả

Kim Cương Man, Đại Minh Cam Lộ Quân Trà Lợi

Vô Năng Thắng Minh Phi Hắc Nhĩ, Cát Tường Thiên

Đại Phước Uy Đức Tôn Liên Hoa Quân Trà Lợi

Hoa Xỉ với Châu Kế Kim Man Chất Nghiệt La

Đại Uy Đức Cát Tường Với Điển Trang Nghiêm Thiên

Nhất Kế Đại La Sát Với Phật Địa Hộ Tôn

Ca Ba Lợi Minh Nữ Lăng Già Tự Tại Tôn

Với nhiều loại chúng khác Hết thảy đều ủng hộ

Do Đại Minh tại tay Ha Lợi Đế và con

Bán Chi Ca Đại Tướng Thương Diệp Ni, Tích Xỉ

Cát Tường và Biện Tài Do trì Mật Ngôn này

Ngày đêm thường tùy toại Nếu có các người nữ

Trì Đà La Ni này Kẻ ấy đều thành tựu

Trai gái ở trong thai Thai an ổn tăng trưởng

Sinh nở đều an vui Tất cả bệnh đều trừ

Các tội đều tiêu diệt Phước lực thường đầy đủ

Lúa gạo với tài bảo Thảy đều được tăng trưởng

Lời nói khiến người nghe Nơi nơi đều cung kính

Nam tử với nữ nhân Thanh tịnh hay thọ trì

Thường ôm Tâm Từ Bi Cứu giúp các Hữu tình

Nguyện họ được an vui Khiến xa lìa bệnh tật

Quốc Vương và Hậu Cung Đều sinh tâm cung kính

Cát tường thường xí thịnh Các phước đều tăng trưởng

Tất cả Pháp Chân Ngôn Thảy đều được thành tựu

Thành nhập tất cả Đàn Được thành Tam Muội Gia

Như Lai thành thật nói Chẳng hay gặp mộng ác

Đều diệt trừ các tội Phiền não và oán địch

Diệt tai họa Chấp Diệu Đại Trí Tự Tại nói

Hay mãn nguyện ước khác Vì thế nay Ta nói

Đại Chúng đều lắng nghe

- Nẳng mô tát phạ đát tha nga đa nam(NAMO SARVA TATHÀGATANÀM) Nẵng mô nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đa-phạ- Một đà, đạt ma, tăng khế tỳ dược(NAMO NAMAH SARVA BUDDHA BODHISATVA- BUDDHA, DHARMA, SAMGHE BHYAH) .

AÙn(OM) Vĩ bổ la nghiệt beä (VIPULA GARBHE)Vĩ bổ la, vĩ

ma lê, nhạ dã nghiệt bệ(VIPULA VIMALE JAYA GARBHE) Phạ nhật-la nhập-phạ la nghiệt bệ(VAJRA JVALA GARBHE) Nga để nga hạ nãnh(GATI GAHANE) Nga nga nẵng vĩ thú đà ninh(GAGANA VI’SODHANE) Tát phạ bá bả vĩ thú đà ninh(SARVA PÀPA VI’SODHANE).

Án(OM) - Ngu noa phạ để(GUNA VATI)Nga nga lị ni(GAGARINI)Nghĩ lị, nghị lị(GIRI GIRI)Nga ma lị, nga ma lị(GAMÀRI GAMÀRI)Ngược hạ, ngược haï (GAHA GAHA)Nghiệt nga lị, nghiệt nga lị(GARGÀRI GARGÀRI)Nga nga lị, nga nga lị(GAGARI GAGARI)Nghiêm bà lị, nghiêm bà lị(GAMBHARI GAMBHARI)Nga để, nga để(GATI GATI)Nga ma nãnh, nga lệ(GAMANI GARE) Ngu lỗ, ngu lỗ, ngu lỗ ni(GÙRU GÙRU GÙRUNE)Tả lệ, a tã lệ, mẫu tả lệ(CALE ACALE MUCALE)Nhạ duệ, vĩ nhạ duệ(JAYA VIJAYA)Tát phạ bà dã, vĩ nga đế(SARVA PÀPA VIGATE)Nghiệt bà tam bà la ni(GARBHA SAMBHARANI)Tất lị, tất lị(SIRI SIRI)Nhĩ lị, nhĩ lị(MIRI MIRI)Chi lị, chi lị(GHIRI GHIRI)Tam mãn đá ca la-sái ni(SAMANTA AKARSANI)Tát phạ thiết đốt-lỗ , bát-la ma tha nãnh(SARVA ‘SATRÙ PRAMATHANI) La khất-sái, la khất-sái(RAKSA RAKSA)Ma ma(Tôi, họ tên....) (MAMA .....)Tát phạ tát đa-phạ nan tả(SARVA SATVANÀMCA)Vĩ lị, vĩ lị(VIRI VIRI) Vĩ nga đá(VIGATA)Phạ la noa bà dã nẵng xả nãnh(AVARANI BHAYA NÀ’SANI) Tô lị, tô lị(SURI SURI)Tức lị(CILI)Kiếm ma lê, vĩ ma lê, nhạ duệ(KAMALE VIMALE JAYE)Nhạ dã phạ hề(JAYA VAHE)Nhạ dã phạ để, Bà nga phạ để(JAYA VATI BHAGAVATI)La đát-nẵng ma củ tra, ma la đà lị(RATNA MAKUTA DHÀRI)Ma hộ, vĩ vĩ đà , vĩ tức đát-la, phệ sái, lỗ bạt, đà lị ni(BAHU VIVIDHA VICITRA VESA RÙPA DHÀRANI)Bà nga phạ để(BHAGAVATI)Ma hạ vĩ nễ-dã nê vĩ(MAHÀ VIDYA DEVI)La khất-sái, la khất-sái(RAKSA RAKSA)Ma ma(Tôi, tên là.....) (MAMA.....)

Tát phạ tát đa-phạ nan taû (SARVA SATVANÀMCA)Tam mãn đá tát phạ đát-la(SAMANTA SARVATRÀ)Tát phạ bá bả, vĩ thú đà nãnh(SARVA PÀPA VI’SODHANE)Hộ lỗ, hộ lỗ(HULU HULU 

Nhược khất-sát đát-la, ma la, đà lị ni(NAKSATRA MÀLÀ DHÀRANI) La khất-sái hàm(RAKSA MÀM) Ma ma(Tôi, tên là....) (MAMA......) A nẵng tha tả(ANÀTHA SYA) Đát-la noa bả la gia noa tả(ATRÀNA PARÀYANA SYA) Bả lị mô tả, dã minh(PARIMOCA YA ME) Tát phạ nậu khế tỳ dược(SARVA DUHKHE BHYAH) Chiến ni, chiến ni, tán nị nãnh(CANDI CANDI CANDINI) Phệ nga phạ để(VEGA VATI) Tát phạ nột sắt-tra, nãnh phạ la ni(SARVA DUSTA NIVARANI) Thiết đốt-lỗ bạc khất-xoa(‘SATRÙ PAKSA)Bát-la mạt tha nãnh(PRAMATHANI) Vĩ nhạ dã phạ tứ nãnh(VIJAYA VÀHINI) Hộ lỗ, hộ loã (HURU HURU) Mẫu lỗ, mẫu lỗ(MURU MURU)Tổ lỗ, tổ lỗ(CURU CURU) A dục, bá la nãnh, tô la(AYUH PÀLANI SURA) Phạ la mạt tha nãnh(VARA MATHANI)Tát phạ nê phạ đá(SARVA DEVATA) Bố tỉ đế(PÙJITE) Địa lị, địa lị(DHIRI DHIRI)Tam mãn đá phạ lộ chỉ đế bát la bệ(SAMANTA AVALOKITE PRABHE) Bát-la bệ, tô bát-la bà(PRABHE SUPRABHE) Vĩ truật đệ(VI’SUDDHE)Tát phạ bá bả, vĩ thú đà ninh(SARVA PÀPA VI’SODHANE ) Đạt la, đạt la, đạt la ni(DHARA DHARA DHARANI) La la đạt lệ (RARA DHARE)

Tô mẫu, tô mẫu (SUMU SUMU)Lỗ lỗ tả lê (RURU CALE) Tả la gia, nô sắt-lãng (CALÀYA DUSTA) Bố la dã mính, a thiêm, thất-lị (PÙRAYA ME À’SAM ‘SRÌ) Phạ bổ đà nam (VAPUDHANAM) Nhạ dã, kiếm ma lê (JAYA KAMALE) Khất-sử ni, khất-sử ni (KSINI KSINI) Tát la ni, tát la năng củ thế (VARADE VARADA ANÕKU’SE).

Án (OM) - Bát nột-ma vĩ truật đệ (PADMA VI’SUDDHE) Thú đà dã, thú đà dã (‘SODHAYA ‘SODHAYA) Thuấn đệ (‘SUDDHE) Bạt la, bạt la (BHARA BHARA) Tỷ lị, tỷ lị (BHIRI BHIRI)Bộ lỗ, bộ lỗ (BHURU BHURU) Mộng nga la, vĩ thuấn đệ (MAMGALA VI’SUDDHE) Bạt vĩ đát-la, mục khế (PAVITRA MUKHI) Khát nghĩ ni, khát nghĩ ni (KHARGANI KHARGANI) Khư la, khư la (KHARA KHARA)Nhập-phộc lý đa thủy lệ (JVALITA ‘SIRE)Tam mãn đa bát-la sa lị đá, phộc bà tất đa, truật đệ (SAMANTA PRASARITA VABHASITA ‘SUDDHE) Nhập-phộc la, nhập-phộc la (JVALA JVALA) Tát phộc nê phộc nga noa, tam ma đa ca la-sái ni (SARVA DEVAGANA SAMA AKARSANI) Tát để-dã phộc đế (SATYA VATI)La hộ, la hộ (LAHU LAHU) Hộ nộ, hộ nộ (HUNU HUNU)Khất-sử ni, khất-sử ni (KSINI KSINI) Tát phộc nghĩ-la hạ bạc khất-sái ni (SARVA GRAHA BHAKSANI

Vĩnh nga lý, vĩnh nga lý (PIMÏGALI PIMÏGALI) Tổ mẫu, tổ mẫu (CUMU CUMU) Tô mẫu, tô mẫu (SUMU SUMU) Tổ mẫu tả lệ (CUVI CARE) Đa la, đa la (TARA TARA) Nẵng nga vĩ lộ chỉ nãnh đa la dã đổ hàm (NÀGA VILOKITE TÀRÀYA TUMAM) Bà nga phộc để (BHAGAVATI) A sắt-tra ma hạ bà duệ tỳ dược (ASTA MAHÀ BHAYE BHYAH) Tam muộn nại-la (SAMUDRA) Sa nga la (SÀGARA)Bát lị-dần đảm, bá đá la, nga nga nẵng, đát lãm (PRATYANTÀM PÀTÀLA GAGANA TALAM) Tát phộc đát la (SARVATRÀ) Tam mãn đế nẵng (SAMANTENA) Nễ xả mãn đệ nẵng (DI’SA BANDHENA) Phộc nhật-la bát-la ca la (VAJRA PRÀKÀRA) Phộc nhật-la bá xả mãn đà mật nẵng (VAJRA PA’SA BANDHANE) Phộc nhật-la,nhập phộc-la, vĩ truật đệ (VAJRA JVALA VI’SUDDHE) Bộ lị, bộ lị (BHURI BHURI) Nghiệt bà phộc để (GARBHA VATI) Nghiệt bà vĩ thú đà nãnh (GARBHA VI’SODHANE) Câu khất-sử tam bố la ni (KUKSI SAPÙRANI) Nhập phộc-la, nhập phộc-la (JVALA JVALA) Tả la, tả la (CALA CALA) Nhập phộc-lý nãnh (JVALANI) Bát-la vạt sát đổ, nê phộc (PRAVASATU DEVA) Tam mãn đế nãnh (SAMANTENA) Nễ miễu ná kế nãnh (DIDHYODAKENA)A mật-lật đa phộc la-sái ni (AMRTA VARSANI)Nê phộc đá phộc đá la ni (DEVA DEVA DHÀRANI) A tỵ tru giả mính (ABHISIMCA TUME) Tô nga đa (SUGATA) Phộc tả nẵng mật-lật đa (VACANA AMRTA)Phộc la phộc bổ sái (VARA VAPUSPE)La khất-sái, la khất-sái (RAKSA RAKSA) Ma ma (Tôi tên là...) (MAMA...) Tát phộc tát đa-phộc nan tả (SARVA SATVÀNÀMCA) Tát phộc đát-la (SARVATRÀ) Tát phộc ná (SARVADÀ)Tát phộc bà duệ tỳ-dược (SARVA BHAYE BHYAH)Tát mạo bát nại-la phệ tỳ-dược (SARVOPADRAVE BHYAH)Tát mạo bả tăng nghê tỳ-dược (SARVOPASAGRE BHYH) Tát phộc nột sắt-tra bà dã tỵ đát tả (SARVA DUSTA BHAYA BHÌTA SYA) Tát phộc ca li, ca la hạ, vĩ nghiệt la hạ (SARVA KÀLI KALAHÀ VIGRAHA) Vĩ phộc ná (VIVÀDA) Nậu tát-phộc bả-nan nột nãnh nhĩ đá (DUHSVAPNÀM DURNI MINTA) Mộng nga la (AMAMGALLYA) Bá bả (PÀPA) Vĩ nẵng xả nãnh (VINA’SANI) Tát phộc dược khất-xoa (SARVA YAKSA)La khất-sái sa (RAKSASA) Nẵng nga (NÀGA) Nãnh phộc la ni (NIVARANI) Tát la ni sa lệ (SARANI SARE) Ma la , ma la, ma la phộc để (BALA BALA - BALA VATI) Nhạ dã, nhạ dã (JAYA JAYA) Nhạ dã đổ hàm (JAYA YUMAM) Tát phộc tát-la (SARVATRÀ) Tát phộc la lam (SARVA KÀRAM) Tất đệ đổ mính (SIDDHE TUME) Ế hàm, ma hạ vĩ niệm, sa đà dã (IMAM MAHÀ VIDYA SÀDHAYA) Sa đà dã tát phộc mạn noa la (SADHAYA SARVA MANDALA) Sa đà nãnh già đa dã (SÀDHANI GHÀTAYA)Tát phộc vĩ cận-nãnh (SARVA VIGHNAM)Nhạ dã, nhạ dã (JAYA JAYA)Tất đệ, tất đệ (SIDDHE SIDDHE)Tô tất đệ (SUSIDDHE)Tất địa-dã, tất địa-dã (SIDDHYA SIDDHYA)Một địa-dã, một địa-dã (BUDDHYA BUDDHYA)Bố la dã, bố la dã (PÙRAYA PÙRAYA)Bố la ni, bố lani (PÙRANI PÙRANI)Bố la dã, mính, a thiêm (PÙRAYA ME À’SAM)Tát phộc vĩ nễ dã (SARVA VIDYA)Địa nga đa (ADHIGATA)Một lật-đế (MÙRTTE)Nhạ dụ đa lị (JAYOTTARI)Nhạ dạ phộc để (JAYA VATI)Để sắt-xá, để sắt-xá (TISTA TISTA) Tam ma dã ma nỗ bá la dã (SAMAYAM ANUPÀLAYA) Đát tha nghiệt đa, ngật-lị nãi dã (TATHÀGATA HRDAYA) Thuấn đệ (‘SUDDHE) Nhĩ-dã phộc lộ ca dã hàm (VYAVALOKAYA MAM) A sắt-tra tỵ ma hạ ná lỗ noa bà (ASTA MAHÀ DÀRUNA BHAYE) Tát la, tát la (SARA SARA) Bát-la sa la, bát-la sa la (PRASARA PRASARA) Tát phộc phộc la noa tỵ thú đà nãnh (SARVA AVARANA VI’SODHANE) Tam mãn đá ca la man noa la vĩ thuấn đệ (SAMANTA KÀRA MANDALA VI’SUDDHE) Vĩ nga đế, vĩ nga đế, vĩ nga đa, ma la vĩ thú đà nãnh (VIGATE VIGATE VIGATA MALA VI’SODHANE) Khất-sử ni, khất-sử ni (KSINI KSINI) Tát phộc bá bả vĩ thuấn đệ (SARVA PÀPA VI’SUDDHE) Ma la vĩ nghiệt đế (MARA VIGATE)

Đế nhạ phộc để (TEJA VATI) Phộc nhật-la phộc để (VAJRA VATI) Tát-lạt lộ chỉ-dã địa sắt-xỉ đế, sa-phộc hạ (TRAILOKYA ADHISTITE SVÀHÀ) Tát phộc đát tha, một đà, vĩ sắt cật-đế, sa-phộc hạ (SARVA TATHÀ BUDDHA ABHISIKTE SVÀHÀ) Tát phộc mạo địa tát đa-phộc, vĩ sắt cật-đế, sa-phộc hạ (SARVA BADHISATVA ABHISIKTE SVÀHÀ) Tát phộc nê phộc đa, vĩ sắt cật-đế, sa-phộc hạ (SARVA DEVATÀ ABHISIKTE SVÀHÀ) Tát phộc đát tha nga đa cật-lị nãi dạ, địa sắt xỉ đa, hột-lị nãi duệ, sa-phộc hạ (SARVA TATHÀGATA HRDAYA ADHISTITA HRDAYE SVÀHÀ) Tát phộc đát tha nga đa tam ma dã tất đệ, sa-phộc hạ (SARVA TATHÀGATA SAMAYA SIDDHE SVÀHÀ) Ấn nại-lệ, ấn nại-la phộc để, ấn nại-la nhĩ-dã phộc lộ chỉ đế, sa-phộc hạ (INDRE INDRAVATI INDRA VYAVALOKITE SVÀHÀ) Một-la hám-mính, một-la hám-ma để-dữu sử đế, sa-phộc hạ (BRAHME BRAHMA ADHYUSTE SVÀHÀ) Vĩ sắt-nỗ nẵng mạc tắc cật-lị đế, sa-phộc hạ (VISNU NAMASKRTE SVÀHÀ) Ma hệ thấp-phộc la mãn nễ đa, bố nhĩ đá duệ, sa-phộc hạ (MAHE’SVARA VANDITA PÙJITAYE SVÀHÀ) Phộc nhật-la đà la, phộc nhật-la bá ni, ma la vĩ lị-dã địa sắt-xỉ đế, sa-phộc hạ (VAJRADHÀRA VAJRAPÀNI BALA VÌRYA ADHISTITE SVÀHÀ) Địa-lã đa la sắt-tra-la dã, tát-phộc hạ (DHRTARÀSTRÀYA SVÀHÀ) Vĩ lỗ trà ca dã, tát-phộc hạ (VIRÙDHAKÀYA SVÀHÀ) Phệ thất-la ma noa dã, tát-phộc hạ (VAI’SRAVANÀYA SVÀHÀ) Tạt đốt ma hạ la nhạ nẵng mạc tắc-cật-lị đá dã, tát-phộc hạ (CATUR MAHÀ RÀJA NAMASKRTÀYA SVÀHÀ) Diễm ma dã, tát-phộc hạ (YAMMÀYA SVÀHÀ) Diễm ma bố nhĩ đa, nẵng mạc tắc-cật-lị đá dã, tát-phộc hạ (YAMMA PÙJITA NAMASKRTÀYA SVÀHÀ) Phộc lỗ noa dã Tát-phộc hạ (VARUNÀYA SVÀHÀ) Ma lỗ đá dã Tát-phộc hạ (MARÙTÀYA SVÀHÀ) Ma ha ma lỗ đá dã Tát-phộc hạ (MAHÀ MARÙTÀYA SVÀHÀ) A ngân-nẵng duệ Tát-phộc hạ (AGNAYE SVÀHÀ)Nẵng nga vĩ lộ chỉ đá dã Tát-phộc hạ (NÀGAVILOKITÀYA SVÀHÀ) Nê phộc nga nãi tỳ-dược Tát-phộc hạ (DEVA GANE BHYAH SVÀHÀ) Nẵng nga nga nãi tỳ-dược Tát-phộc hạ (NÀGA GANE BHYAH SVÀHÀ) Dược khất-sái nga nãi tỳ-dược Tát-phộc hạ (YAKSA GANE BHYAH SVÀHÀ) La kất-sái sa nga nãi tỳ-dược Tát-phộc hạ (RÀKSASA GANE BHYAH SVÀHÀ) Ngạn đạt phộc tát nãi tỳ-dược Tát-phộc hạ (GANDHARVA GANE BHYAH SVÀHÀ) A tô la nga nãi tỳ-dược Tát-phộc hạ (ASURA GANE BHYAH SVÀHÀ) Nga lỗ noa nga nãi tỳ-dược Tát-phộc hạ (GARUDA GANE BHYAH SVÀHÀ) Khẩn na la nga nãi tỳ-dược Tát-phộc hạ (KINNARA GANE BHYAH SVÀHÀ) Ma hộ la nga nễ tỳ-dược Tát-phộc hạ (MAHORAGA GANE BHYAH SVÀHÀ) Ma nộ sái tỳ-dược Tát-phộc hạ (MANU SYE BHYAH SVÀHÀ) A ma nộ sái tỳ-dược Tát-phộc hạ (AMANU SYE BHYAH SVÀHÀ) Tát phộc nghiệt-la hệ tỳ-dược Tát-phộc hạ (SARVA GRAHE BHYAH SVÀHÀ) Tát phộc bộ đế tỳ-dược Tát-phộc hạ (SARVA BHÙTE BHYAH SVÀHÀ) Bật lị đế tỳ-dược Tát-phộc hạ (PRETE BHYAH SVÀHÀ)Tỳ xả tế tỳ-dược Tát-phộc hạ (PI’SACE BHYAH SVÀHÀ)A bả sa-ma lệ tỳ-dược Tát-phộc hạ (APASMARE BHYAH SVÀHÀ) Cấm bạn nễ tỳ-dược Tát-phộc hạ (KUMBHÀNDE BHYAH SVÀHÀ)

Án- Độ lỗ, độ lỗ Tát-phộc hạ (OM- DHURU DHURU SVÀHÀ 

Án- Đổ lỗ, đổ lỗ Tát-phộc hạ (OM- TURU TURU SVÀHÀ)

Án- Mẫu lỗ, mẫu mẫu Tát-phộc hạ (OM- MURU MURU SVÀHÀ) .

Hạ nẵng, hạ nẵng, tát phộc thiết đổ-lỗ nẫm Tát-phộc hạ (HANA HANA SARVA ‘SATRÙNÀM SVÀHÀ) Ná hạ, ná hạ tát phộc nột sắt-tra, bát-la nột sắt-tra nẫm Tát-phộc hạ (DAHA DAHA SARVA DUSTA PRADUSTANÀM SVÀHÀ) Bát tá, bát tá tát phộc bát-la để dã dịch ca, bát-la để-dã nhĩ đát-la nẫm (PACA PACA SARVA PRATYARTHIKA PRATYÀMITRANÀM) Duệ ma ma (YE MAMA) A tứ đế sử noa (AHITESINA) Đế sam, tát phệ sam, xả lị lãm, nhập-phộc la dã, nột sắt-tra tức đá nẫm Tát-phộc hạ (TESAM SARVESÀM ‘SARIRAM JVALÀYA ADUSTA CITTÀNÀM SVÀHÀ) Nhập-phộc lý đá dã Tát-phộc hạ (JVALITÀYA SVÀHÀ)

Bát-la nhập-phộc lý đá dã Tát-phộc hạ (PRAJVALITÀYA SVÀHÀ) Nễ bát-đá nhập-phộc la dã Tát-phộc hạ (DÌPTA JVALÀYA SVÀHÀ) Tam mãn đa nhập-phộc la dã Tát-phộc hạ (SAMANTA JVALÀYA SVÀHÀ) Ma ni bạt nại-la dã Tát-phộc hạ (MANI BHADRÀYA SVÀHÀ) Bố la-noa bả nại-la dã Tát-phộc hạ (PÙRNA BHADRÀYA SVÀHÀ) Ma hạ ca la dã Tát-phộc hạ (MAHÀ KÀLÀYA SVÀHÀ) Ma để-lị nga noa dã Tát-phộc hạ (MATRANÀYA SVÀHÀ) Dã khất-sử ni nẫm Tát-phộc hạ (YAKSANÌNÀM SVÀHÀ) La khất-ma tỷ nẫm Tát-phộc hạ (RAKSASÌNÀM SVÀHÀ) A ca xả ma để-lị nẫm Tát-phộc hạ (ÀKA’SA MÀTRNÀM SVÀHÀ) Tam mẫu nại-la phộc tỷ nãnh nẫm Tát-phộc hạ (SAMUDRA VÀSINÌNÀM SVÀHÀ) La để-lị, tả la nẫm Tát-phộc hạ (RÀTR CARÀNÀM SVÀHÀ) Nễ phộc sa, tạt la nẫm Tát-phộc hạ (DIVASA CARÀNÀM SVÀHÀ) Để-lị tán-đình, tạt la nẫm Tát-phộc hạ (TRISANTYA CARÀNÀM SVÀHÀ) Vĩ la, tạt la nẫm Tát-phộc hạ (VELA CARÀNÀM SVÀHÀ) A vĩ la, tạt la nẫm Tát-phộc hạ (AVELA CARÀNÀM SVÀHÀ) Nghiệt bà ha lệ tỳ-dược Tát-phộc hạ (GARBHA HÀRE BHYAH SVÀHÀ) Nghiệt bà tán đá la ni. Hộ lỗ, hộ lỗ Tát-phộc hạ (GARBHA SANDHÀRANI HURU HURU SVÀHÀ)

Án- Tát-phộc hạ (OM- SVÀHÀ) Tát phộc Tát-phộc hạ (SVÀH SVÀHÀ) Bộc Tát-phộc hạ (BHÙH SVÀHÀ) Bộ phộc Tát-phộc hạ (BHÙVÀH SVÀHÀ) Án, bộ la-bộ phộc, tát-phộc Tát-phộc hạ (OM- BHÙRBHÙVÀH SVÀH SVÀHÀ)Tức trưng, tức trưng Tát-phộc hạ (CITI CITI SVÀHÀ) Vĩ trưng, vĩ trưng Tát-phộc hạ (VITI VITI SVÀHÀ) Đà la ni Tát-phộc hạ (DHÀRANÌ SVÀHÀ) Đà la ni Tát-phộc hạ (DHARANI SVÀHÀ) A ngận-nãnh Tát-phộc hạ (AGNI SVÀHÀ) Đế tổ, phộc bổ Tát-phộc hạ (TEJO VAPU SVÀHÀ)Tức lị, tức lị Tát-phộc hạ (CILI CILI SVÀHÀ) Tất lý, tất lý Tát-phộc hạ (SILI SILI SVÀHÀ) Một đình, một đình Tát-phộc hạ (BUDDHYA BUDDHYA SVÀHÀ) Tất đình, tất đình Tát-phộc hạ (SIDDHYA SIDDHYA SVÀHÀ) Mạn noa la tất đệ Tát-phộc hạ (MANDALA SIDDHE SVÀHÀ) Man noa la mãn đệ Tát-phộc hạ (MANDALA BANDHE SVÀHÀ) Tỷ ma mãn đà nãnh Tát-phộc hạ (‘SÌMA BANDHANI SVÀHÀ) Tát phộc thiết đốt-lỗ nẫm, tiệm bà tiệm bà Tát-phộc hạ (SARVA ‘SATRÙNÀM JAMBHA JAMBHA SVÀHÀ) Sa đảm-bà dã, sa đảm-bà dã Tát-phộc hạ (STAMBHÀYA STAMBHÀYA SVÀHÀ) Thân ná, thân ná Tát-phộc hạ (CCHINDHA CCHINDHA SVÀHÀ) Tẫn ná, tẫn ná Tát-phộc hạ (BHINDHA BHINDHA SVÀHÀ) Bạn nhạ, bạn nhạ Tát-phộc hạ (BHANÕJA BHANÕJA SVÀHÀ) Mãn đà, mãn đà Tát-phộc hạ (BANDHA BANDHA SVÀHÀ) Mãng hạ dã, mãng hạ dã Tát-phộc hạ (MOHAYA MOHAYA SVÀHÀ) Ma nĩ vĩ thuấn đệ Tát-phộc hạ (MANI VI’SUDDHE SVÀHÀ)Tố lị-duệ, tố lị-duệ, tố lị-dã, vĩ thuấn đệ, vĩ thú đà nãnh Sa-phộc hạ (SÙRYE SÙRYE SÙRYA VI’SUDDHE VI’SODHANE SVÀHÀ)Chiến niết-lệ, chiến niết-lệ, bố la-noa chiến niết-lệ Tát-phộc hạ (CANDRE CANDRE PÙRNA CANDRE SVÀHÀ) Nghiệt-la nễ tỳ-dược Tát-phộc hạ (GRAHE BHYAH SVÀHÀ) Nhược khất-sát để-lệ tỳ-dược Tát-phộc hạ (NAKSTRE BHYAH SVÀHÀ) Thủy phệ Tát-phộc hạ (‘SIVE SVÀHÀ) Phiến để Tát-phạ hạ(‘SÀNTI SVÀHÀ) Tát phạ sa để-dã Dã nãnh Tát-phạhạ(SVASTYA YANE SVÀHÀ) Thủy noan yết-lị. phiến để yết lị, bổ sắt-trí yết lị, ma la mạt đạt nãnh Tát-phạ hạ(‘SIVAM KARI ‘SÀNTI KARI PUSTI KARI BALA VARDHANI SVÀHÀ) Thất-lị yết lị Tát-phạ hạ(‘SRÌ KARI SVÀHÀ) Thất-lị dã mạt đạt nãnh Tát-phạ haï (‘SRÌYA VARDHANI SVÀHÀ) Thất-lị dã nhập-phạ la nãnh Tát-phạ haï (‘SRÌYA JVALANI SVÀHÀ) Nẵng mẫu tỷ Tát-phạ haï (NAMUCI SVÀHÀ) Ma lỗ tỷ Tát-phạ haï (MARUCI SVÀHÀ) Phệ nga phạ để Tát-phạ haï (VEGA VATI SVÀHÀ).

* Án- tát phạ đát tha nga đa một lị-đeá (OM- SARVA TATHÀGATA MÙRTTE) Bát-la phộc la vĩ nga đa(PRAVARA VIGATI) Bà duệ xả ma dã(BHAYE ‘SAMAYA) Tát-phộc mính (SVAME) Bà nga phộc để (BHAGAVATI) Tát phộc bá bế tỳ-dụ sa-phộc sa-để bà phộc đổ (SARVA PÀPE BHYAH SVÀSTIRBHAVATU)Mẫu nãnh, mẫu nãnh, vĩ mẫu nãnh (MUNI MUNI VIMUNI) Tả lệ tả la ninh (CARE CALANE) Bà dã vĩ nga đế (BHAYA VIGATE) Bà dã ha la ni (BHAYA HÀRANI) Mạo địa, mạo địa (BODHI BODHI) Mạo đà dã, mạo đà dã (BODHIYA BODHIYA) Một địa lý, một địa lý (BUDHILI BUDHILI) Tát phộc đát tha nga đa hột-lã nãi dã, túc sắt tai Tát-phộc hạ (SARVA TATHÀGATA HRDAYA JUSTAI SVÀHÀ).

* Án- phộc nhật-la phộc để (OM- VAJRA VATI) Phộc nhật-la bát-la đề sắt-xỉ đế (VAJRA PRATISTITE) Thuấn đệ (‘SUDDHE)

Đát tha nga đa mẫu nại-la, địa sắt xá-nẵng, địa sắt xỉ-đế (TATHÀGATA MUDRA ADHISTANA ADHISTITE) Tát-phộc hạ (SVÀHÀ).

* Án- mẫu nãnh, mẫu nãnh, mẫu nãnh phộc lệ (OM- MUNI MUNI MUNI VARE) A tị tru tá đổ hàm (ABHISIMCA TUMAM) Tát phộc đát tha nghiệt đa (SARVA TATHÀGATA) Tát phộc vĩ nễ-dã tị sái kế (SARVA VIDYA ABHISEKAI) Ma hạ phộc nhật-la ca phộc tá mẫu nại-la (MAHÀ VAJRA KAVACA MUDRA) Mẫu nại-lị đới (MUDRITEH) Tát phộc đát tha nga đa khất-lã nãi dạ, địa sắt-xỉ đa (SARVA TATHÀGATA HRDAYA ADHISTITA) Phộc nhật-lê Sa-phộc hạ (VAJRE SVÀHÀ) .

Bấy giờ Đức Bạc Già Phạm nói Phổ Biến Quang Minh Thanh Tịnh Xí Thạnh Như Ý Bảo Tấm Ấn Vô Năng Thắng Đại Minh Vương Tùy Cầu Đại Đà La Ni này xong, lại bảo Đại Phạm Thiên rằng : "Này Đại Phạm ! Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện nào vừa mới nghe qua Đà La Ni này thì hết thảy tội chướng đã tạo, đều được tiêu diệt. Nếu hay đọc tụng, thọ trì tại tâm thì nên biết người đó là thân kiên cố của Kim Cương, lửa chẳng thể đốt, đao chẳng thể hại, độc chẳng bị trúng.

Này Đại Phạm ! Vì sao biết là lửa chẳng thể thiêu đốt được? Ở thành Ca Tỳ La, lúc Đồng tử La Hầu La còn nằm trong thai mẹ. Mẹ Ngài tên là Gia Du Đà La, vốn là người nữ thuộc dòng Thích Ca, bà bị ném vào hầm lửa. Lúc đó La Hầu La nằm trong thai mẹ, nhớ niệm Đà La Ni này nên hầm lửa ấy liền tự trong mát biến thành ao sen. Tại sao thế ? Vì Đà La Ni này là lực gia trì của tất cả Như Lai vậy. Đại Phạm, Ông nên biết, do nhân duyên ấy mà lửa chẳng thể thiêu đốt được.

Lại nữa Đại Phạm ! Độc chẳng thể hại. Như thành Thiện Du có người con của Trưởng giả Phong Tài, trì tụng Mật Ngôn do Thế Thiên nói. Người đó dùng lực Trì Minh câu triệu Long Vương Đức Xoa Ca mà quên Kết Giới Hộ Thân. Vị Long Vương ấy giận dữ nghiến răng, làm cho người kia chịu nỗi đau khổ nặng nề và sắp sửa mất mạng. Rất nhiều người Trì Minh trợ giúp nhưng chẳng thể cứu hộ được. Lúc ấy trong Thành có một vị Ưu Bà Di (Cận Sự Nữ) tên là Vô Cấu Thanh Tĩnh thường trì Đà La Ni Tùy Cầu Đại Minh này. Vị Ưu Bà Di đó đã thành tựu Đại Bi, khởi lòng thương xót, đi đến nơi ấy dùng Đà La Ni này gia bị cho. Vừa mới tụng một biến, thì chất độc kia liền bị tiêu diệt và người con của vị Trưởng Giả được hồi phục. Khi đó, người ấy ở bên vị Vô Cấu Thanh Tĩnh thọ nhận Đà La Ni này và ghi nhớ trong tâm. Đại Phạm nên biết, đó là chất độc chẳng thể hại được.

Lại nữa Đại Phạm ! Ở thành Phiệt La Nại Ky,ø có vị vua tên là Phạm Thí . Vua nước lân cận là kẻ có thế lực lớn nên đã khởi 4 loại binh đến chinh phạt Phạm Thí. Thời, vị cân thần liền tâu với vua Phạm Thí rằng: "Đại Vương! Nay quân địch đi đến chiếm đoạt thành ấp của chúng ta. Mong Đại Vương ban lệnh cho chúng tôi phải dùng kế sách nào để đẩy lui quân địch ấy?" Bấy giờ Phạm Thí bảo quần thần rằng : "Nay các ngươi đừng vội chống cự. Ta có Đà La Ni Tùy Cầu Đại Minh Vương. Do uy lực của Đà La Ni này, hay đập tan quân địch khiến cho chúng giống như đám tro tàn vậy ”.

Các quần thần liền cúi đầu tâu rằng : "Đại Vương ! Bọn hạ thần chúng tôi chưa từng nghe qua điều này". Đức vua bảo rằng: "Nay các ngươi sẽ thấy sự hiệu nghiệm ngay lập tức.” Lúc đó Phạm Thí liền dùng nước thơm tắm gội, mặc áo mới sạch, y theo Pháp viết chép Đà La Ni này, bỏ vào trong cái hộp rồi đặt ở trong búi tóc. Nhà vua dùng Đà La Ni này hộ thân, mặc áo giáp rồi đi ngay vào quân trận. Một mình nhà vua đánh nhau với 4 loại binh, giáng phục và khiến chúng quy hàng. Đại Phạm nên biết, Đà La Ni Đại Tùy Cầu Vô Năng Thắng này là nơi gia trì của tất cả Như Lai Tâm Ấn nên có sự thần nghiệm to lớn. Ông nên thọ trì và phải biết Đà La Ni này ngang bằng với chư Phật. Sau này, vào thời Mạt Pháp sẽ vì những hữu tình : đoản mệnh, kém phước, không có phước, chẳng chịu tu phước mà làm lợi ích cho họ vậy.

Này Đại Phạm ! Đà La Ni Đại Tùy Cầu này, y theo Pháp viết chép rồi cột trên cánh tay hoặc đeo dưới cổ. Nên biết người đó là nơi gia trì của tất cả Như Lai, là thân kiên cố của Kim Cương. Nên biết người đó là Tạng Thân của tất cả Như Lai, nên biết người đó là con mắt của tất cả Như Lai, nên biết người đó là Thân Quang Minh Xí Thịnh của tất cả Như Lai, nên biết người đó là giáp trụ bất hoại, nên biết người đó hay đập nát tất cả oán địch, nên biết người đó hay thiêu đốt tất cả tội chướng, nên biết người đó hay làm cho nẻo Địa Ngục được thanh tịnh. Này Đại Phạm ! Vì sao lại biết được như thế ? Khi xưa có một vị Bật Sô (Tỳ khưu) mang tâm hoại niềm tin trong sạch (Tĩnh Tín), làm nhiều điều vi phạm Chế Giới của Như Lai, ăn trộm tài vật của Tăng hiện tiền với vật của Tăng Kỳ Chúng, vật của Tứ Phương Tăng đem dùng làm của riêng, sau đó bị tội nặng phải chịu sự khổ não lớn lao. Thời vị Bật Sô ấy không có người cứu tế nên kêu gào to tiếng. Bấy giờ ở xứ đó, có một vị Ưu Bà Tắc (Cận Sự Nam) thuộc dòng Bà La Môn nghe tiếng kêu gào liền đi đến chỗ vị Bật Sô bị bệnh kia, khởi tâm xót thương rộng lớn, liền vì vị Tăng ấy viết chép Đà La Ni Tùy Cầu Đại Minh Vương Đà La Ni này rồi đeo dưới cổ vị Tăng. Vị Bật Sô ấy liền dứt hết mọi sự khổ não, chết ngay và bị đọa vào Địa Ngục Vô Gián. Thi hài của vị Bật Sô được đưa vào trong cái Tháp, nhưng trên thân vẫn đeo Đà La Ni đó. Do nhân ấy, khi vị Bật Sô vừa mới đọa vào Địa Ngục thì bao nhiêu sự đau khổ của kẻ thọ tội đều được chận đứng, hoặc đều được an vui. Bao nhiêu ngọn lửa mạnh mẽ của Địa Ngục A Tỳ do lực công đức của Đà La Ni này, thảy đều tiêu diệt.

Bấy giờ, Ngục Tốt của vua Diêm La nhìn thấy hiện tượng đó thì rất kinh ngạc, liền đến trình báo với vua Diêm La và nói Già Đà rằng :

Nay Đại Vương nên biết Việc này rất đặc biệt

Ở nơi hiểm ách lớn Khổ não đều ngưng nghỉ

Nghiệp ác của chúng sinh Ngọn lửa mạnh đều diệt

Cưa cắt tự dừng đứng Đao kiếm chẳng thể hại

Cây đao và rừng kiếm Các nỗi khổ giết mổ

Nồi nước nóng, ngục khác Khổ não đều ngưng trừ

Diêm Ma là Pháp Vương Dùng Pháp trị Hữu Tình

Nhân duyên này chẳng nhỏ Xin giúp tôi trừ nghi ".

Thời Đức vua Diêm La Từ Vô Bi ngục tốt

Nghe việc như vậy xong Liền nói lên lời là :

“ Việc này thật kỳ lạ ! Đều do nghiệp sở cảm

Ngươi đến thành Mãn Túc Xét xem việc thế nào ? "

Ngục tốt nhận sắc lệnh Ngay vào lúc đầu đêm

Phía Nam thành Mãn Túc Nhìn Tháp của Bật Sô

Liền thấy trên thi hài Đeo Chú Đà La Ni

Đại Minh Vương Tùy Cầu Tỏa ánh hào quang lớn

Rực rỡ như đám lửa Trời, Rồng với Dược Xoa

Tám Bộ Chúng vây quanh Cung kính mà cúng dường

Thời ngục tốt Diêm La Đặt hiệu Đại Tùy Cầu

(Đây là tên cái Tháp chứa thi hài của vị Tăng)

Khi ấy Ngục Tốt Diêm La quay về nơi vua ngự, trình bày đầy đủ sự việc trên. Vị Bật Sô kia nương theo uy lực của Đà La Ni này mà tội chướng đều được tiêu diệt và tái sinh về cõi Trời Tam Thập Tam Thiên. Nhân vì thân trước, mà vị Trời này có hiệu là Thiên Tử Tùy Cầu.

Đại Phạm nên biết Đà La Ni này có uy lực to lớn . Ông nên thọ trì, viết chép, đọc tụng, y theo Pháp mà đội đeo, ắt sẽ mau được xa lìa tất cả khổ não, tất cả nẻo ác và chẳng bị sấm sét gây thương hại. Làm sao mà biết ? Này Đại Phạm ! Ở thành Hình Ngu Mật Đàn có vị Trưởng Giả tên là Vĩ Ma La Thương Khư. Ông là nhà cự phú, kho tàng cất chứa đầy dẫy vàng bạc với rất nhiều tiền gạo. Khi ấy, vị Trưởng giả đó là một vị thương chủ. Ông dùng chiếc thuyền lớn đi vào biển để tìm kiếm báu vật. Lúc ở giữa biển lớn, ông gặp con cá Đề Di muốn phá nát thuyền. Vị Long Vương trong biển ấy lạisinh tâm giận dữ, khởi sấm sét lớn, gào thét tạo ra mây sấm và mưa đá Kim Cương. Thời các thương nhân nhìn thấy cơn mưa đá sấm sét này, đều buồn rầu phiền não và rất sợ hãi liền gấp rút kêu gọi cầu cứu nhưng vẫn không có ai đến cứu giúp. Bấy giờ, chúng thương nhân đến gặp vị thương chủ, khóc lóc bi than và nói rằng : "Nhân Giả có kế sách nào cứu giúp cho chúng tôi xa lià khỏi nỗi lo âu sợ hãi này chăng ? ! “

Lúc đó, vị thương chủ không hề sợ hãi. Nhờ chí tính kiên cố, có đại Trí tuệ nên khi thấy các thương nhân bị sợ hãi bức bách, ông liền bảo rằng: "Hỡi các thương nhân ! Các ông đừng sợ mà hãy khởi tâm mạnh mẽ cứng cáp. Nay tôi sẽ giúp các ông miễn trừ sự sợ hãi". Các thương nhân sinh tâm cứng mạnh, lại nói rằng : "Đại thương chủ ! Nguyện xin mau chóng nói phương cách trừ tai nạn, khiến cho chúng tôi bảo tồn được mạng sống". Vị thương chủ ấy liền bảo các thương nhân rằng : "Tôi có Đại Minh Vương tên là Đà La Ni Tùy Cầu, có thần thông to lớn hay giáng phục các điều khó điều phục. Nay tôi giải thoát các sự ưu não này cho ".

Vị thương chủ liền viết chép Đà La Ni Tùy Cầu này đặt trên đầu cây phướng. Tức thời con cá Đê Di nhìn thấy chiếc thuyền này tỏa ánh sáng rực rỡ như đám lửa mạnh mẽ. Do đại uy lực Trí Hỏa của Đà La Ni này thiêu đốt , con cá Đê Di liền tiêu tan. Các hàng Long Vương nhìn thấy tướng này đều khởi tâm từ, liền bay từ trên hư không xuống, tác cúng dường rộng lớn và đưa chiếc thuyền này đến bãi chứa vật báu. Này Đại Phạm ! Điều này đều do Đại Trí Đại Minh Đại Tùy Cầu dùng nơi thần lực gia trì của tất cả Như Lai, cho nên có tên là Đại Minh Vương. Nếu có người viết chép Đà La Ni này, đặt ở đầu cây phướng trên thuyền thì hay chận đứng tất cả gió ác, mưa đá, nóng lạnh không đúng thời tiết, sấm chớp, sét đánh. Hay chận đứng sự kiện cáo tranh đấu của tất cả chư Thiên. Hay trừ tất cả muỗi mòng, hoàng trùng (loài sâu ăn lúa mạ) với các loài ăn lúa mạ khác. Hay làm cho tất cả loài thú mạnh ác có móng vuốt sắc bén đều lui tan. Hay khiến cho tất cả lúa mạ, hoa quả tăng trưởng hương vị và có thân thể tốt đẹp trơn láng. Nếu đất nước bị nạn khô hạn chẳng thể điều phục, do uy lực của Đà La Ni này thì Long Vương vui vẻ tuôn mưa đúng thời tiết.

Lại nữa Đại Phạm ! Nếu có nơi lưu bố Đà La Ni Đại Tùy Cầu này thì các hữu tình đã biết điều này, nên dùng hương hoa, phướng, lọng, mọi thứ cúng dường thượng diệu. Phải dùng vải lụa thù thắng bao bọc Kinh lại, đặt ở trong cái Tháp hoặc đặt trên đầu cây phướng. Dùng mọi loại âm nhạc ca vịnh tán thán, nhiễu quanh cúng dường, chân thành lễ bái; ắt mọi việc suy tư, ước vọng mong cầu trong tâm của các Hữu Tình ấy đều được mãn túc. Nếu có thể y theo Pháp viết chép rồi đeo giữ trên thân thì mọi mong cầu đều được. Cầu con trai được con trai, cầu con gái được con gái, thai nhi an ổn lớn dần tròn đủ và sinh nở an vui. Này Đại Phạm ! Làm sao mà biết được ? Xưa kia ở thành Ma Già Đà có vị vua tên là Thí Nguyện Thủ (Prasàrita - Pani). Do nhân duyên gì mà có tên là Thí Nguyện Thủ ? Lúc vị vua ấy sinh ra, liền giơ tay nắm bầu vú của mẹ. Do bàn tay chạm vào vú mẹ, thì bầu vú mẹ biến thành màu vàng, vú mẹ tăng trưởng tự nhiên và tuôn chảy sữa. Nếu có chúng nhân đi đến cầu xin thì nhà vua duỗi bàn tay phải, khởi niềm tin trong sạch nơi Phật, Bồ Tát, Chư Thiên rồi nghiêng úp xuống, thì mọi thứ trân bảo màu nhiệm đã được ghi chép đều tuôn vào bàn tay của nhà vua mà ban cho người cầu xin. Tùy theo sự tu hành của người ấy, mà đều được đầy đủ và đều thành tựu mọi sự an vui. Do nguyên nhân ấy nên có tên là Thí Nguyện Thủ. Vị vua ấy vì cầu con nên cúng dường chư Phật với các Tháp Miếu, nhưng cầu con chẳng được. Nhà vua giữ gìn Tế Giới rộng bày Vô Giá Thí Hội, rộng tu phước nghiệp, hộ trì Tam Bảo, tu sửa chùa chiền bị phá hoại, trong tương lai làm một kho cất chứa.

Có điều Đại Phạm ! Ta nhớ về thời quá khứ, ở quốc cảnh Ma Già Đà này, trong thành Câu Thi Na, phần lớn tụ lạc Đại Lực Sĩ đều theo giáo Pháp của Như Lai. Khi ấy có một vị Trưởng Giả tên là Pháp Tuệ (Dharma Mati) đối với tất cả chúng sinh khởi tâm Đại Bi, vì các hữu tình nói Pháp yếu của Đà La Ni Đại Tùy Cầu này. Ngay lúc ấy, ở trong nhà Trưởng Giả có một người nghèo nghe được Pháp màu nhiệm này, thì nói với Trưởng Giả Tử rằng : "Trưởng Giả Tử ! Tôi ở trong nhà của ông làm việc, thường vui nghe Pháp, tôi sẽ cúng dường Pháp này". Người nghèo túng này ở nhà Trưởng Giả làm đủ mọi việc, lại cúng dường Pháp. Về sau, lúc Trưởng Giả Tử ấy trao cho một đồng tiền vàng. Nhận xong, người đó phát tâm Bồ Đề, muốn cứu giúp chúng sinh, rồi dùng phước này hồi thí cho tất cả hữu tình. Người ấy liền đem đồng tiền vàng cúng dường Đà La Ni Đại Tùy Cầu này và phát nguyện rằng : "Dùng Phước xả thí này, nguyện cho tất cả hữu tình cắt đứt được nghiệp nghèo túng ". Do nhân duyên này, mà Phước xả thí ấy không hề chấm dứt. Như vậy phần lớn nhân duyên của Chủng Phước là cúng dường chư Phật, Bồ Tát.

Vì phước nghiệp này, Thiên Tử Tĩnh Cư hiện ở trong mộng báo cho nhà vua rằng : "Nay Đại Vương có thể y theo Pháp, viết chép Đà La Ni Tùy Cầu này, khiến cho Đại Phu Nhân giữ Tế Giới và đeo giữ, ắt có con ngay". Khi tỉnh giấc, nhà vua cho triệu thỉnh một người xem tướng với chúng Bà La Môn có Trí, chọn ngày trực của Tú Diệu tốt y theo Pháp giữ Tế Giới, viết chép Đà La Ni này khiến cho Phu Nhân đeo dưới cổ. Lại sai cúng dường Tháp Suốt Đổ Ba, chư Phật Bồ Tát, rộng hành xả thí nên liền có mang. Đầy đủ ngày tháng sinh ra một đứa con đầy đủ sắc tướng đoan nghiêm thù thắng, người nhìn thấy đều vui vẻ. Đại Phạm nên biết, đó là uy lực của Đà La Ni Vô Năng Thắng Vô Ngại Đại Tùy Cầu Bảo Ấn Tâm Minh Vương, là nơi cúng dường của tất cả Như Lai, ai có mong cầu đều được vừa ý.

Này Đại Phạm ! Người nghèo làm công cho nhà Trưởng Giả Tử Pháp Tuệ lúc ấy chẳng phải ai xa lạ, mà chính là Vua Thí Nguyện Thủ vậy. Do đời quá khứ xả thí một đồng tiền vàng cúng dường Đà La Ni Đại Tùy Cầu này, rồi hồi thí cho tất cả hữu tình. Do nhân duyên ấy mà được Phước vô tận, nên thân đời sau được làm quốc vương, tin tưởng trong sạch nơi Tam Bảo, tâm chẳng thoái lui, rộng hành xả thí, thành tựu Đàn Ba La Mật.

PHỔ BIẾN QUANG MINH THANH TĨNH XÍ THỊNH NHƯ Ý BẢO ẤN TÂM VÔ NĂNG THẮNG ĐẠI MINH VƯƠNG ĐẠI TÙY CẦU ĐÀ LA NI

(Quyển Thượng)

23/ 07/ 1998

KINH PHỔ BIẾN QUANG MINH THANH TĨNH XÍ THỊNH NHƯ Ý BẢO ẤN TÂM VÔ NĂNG THẮNG ĐẠI MINH VƯƠNG ĐẠI TÙY CẦU ĐÀ LA NI

QUYỂN HẠ

Chùa Đại Hưng Thiện, Tam Tạng Sa Môn Đại Quảng Trí Bất Không phụng chiếu dịch Phạn ra Hán văn

Việt dịch : Huyền Thanh

Lại nữa Đại Phạm ! Lúc Thiên Đế Thích đánh nhau với A Tô La thì Thiên Đế Thích đem Đà La Ni này đeo giữ ở trong búi tóc trên đỉnh đầu, nên chúng của Trời Đế Thích chẳng bị thương tổn, thường đắc thắng và an ổn quay về Cung. Bồ Tát Sơ phát Tâm cho đến Bồ Tát ở Cứu Cánh Địa đeo trì thì hay xa lìa mọi thứ chướng nạn, nghiệp Ma.

Nếu có người đeo Đà La Ni này tức là nơi gia trì của tất cả Như Lai, là nơi hộ niệm của tất cả Bồ Tát. Tất cả người, Trời, Quốc vương, Vương tử, Đại thần, Bà La Môn, trưởng giả luôn luôn cung kính, lễ bái thừa sự. Tất cả hàng Trời, Rồng, A Tô La, Nghiệt Lộ Trà, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhân Phi Nhân đều cung kính người đeo trì ấy. Tám Bộ Trời Rồng của nhóm ấy đều tin rằng người đó là bậc Đại Trượng Phu.

Đức Như Lai lại nói : "Kẻ trai lành, người nữ thiện ấy đều hay đập nát tất cả Ma chướng, xa lìa tất cả bệnh tật, xa lìa tất cả não hoạnh, trừ tất cả ưu não, luôn là nơi thủ hộ của tất cả Trời Rồng".

Đức Phật bảo : "Này Đại Phạm ! Lại có 4 Đà La Ni gọi là Chân Ngôn Vô Năng Thắng Phi Đại Tâm. Nếu có ai viết chép, hay đeo trên thân, thì thường nên tụng trì, thâm tâm suy tư Quán Hạnh, ắt hay trừ bỏ mộng ác, việc chẳng lành, đều được thành tựu tất cả sự an vui.

* Án - A mật-lị đa, phộc lệ, phộc la phộc la, bát-la phộc la, vĩ thú đệ, hồng hồng, phả tra phả tra. sa-phộc haï

(OM- AMRÏA VARE VARA VARA PRAVARA VI’SUDDHE HÙM HÙM PHAT PHAT SVÀHÀ)

* Án- A mật-lị đa vĩ lô chỉ nãnh, nghiệt bà tăng la khất-sái ni, a yết lị-sái ni, hồng hồng, phả tra phả tra, sa-phộc hạ

(OM- AMRTA VILOKINI GARBHA SAMRAKSANI AKARSANI 

HÙM HÙM PHAT PHAT SVÀHÀ)

* Án- Vĩ ma lê, nhạ dã, phộc lệ. A mật-lị đế.Hồng hồng hồng hồng, phả tra phả tra phả tra phả tra, sa-phộc hạ.

(OM- VIMALE JAYA VARE AMRTE HÙM HÙM HÙM HÙM PHAT PHAT PHAT PHAT SVÀHÀ)

* Án- Bả la, bả la, tam bả la tam bả la, ấn nại-lị dã, vĩ thú đà nãnh, hồng hồng, lỗ lỗ tả lệ, sa-phộc hạ.

(OM- BHARA BHARA SAMBHARA SAMBHARA INDRIYA VI’SODHANE RURU CALA SVÀHÀ).

Vừa mới nói 4 Đại Đà La Ni này xong, thì tất cả chư Phật, chư Đại Bồ Tát, Thanh Văn khác miệng cùng lời nói Đại Tùy Cầu Đại Minh Vương Vô Năng Thắng Đà La Ni Giáp Trụ Mật Ngôn Cú này. Dùng Ấn của tất cả Như Lai, ấn lên. Đà La Ni này rất khó được nghe huống chi viết chép, thọ trì, đọc tụng, vì người khác diễn nói. Chính vì thế cho nên biết đó là Đại Phật sự, Như Lai khen ngợi khôn cùng, nói lời tùy hỷ, rất khó được nghe. Tên của Đà La Ni Đại Tùy Cầu Đại Vô Năng Thắng này rất khó được nghe, rất ư khó được, hay diệt các tội. Đại lực dũng kiện, cụ đại uy đức thần lực, hay sinh vô lượng công đức, hay đập nát tât cả Ma chúng, hay cắt đứt tất cả các tập khí với Ma chướng. Hay trừ tất cả Chân ngôn khác, chất độc, yểm đảo, dược pháp, tăng pháp, giáng phục pháp hoặc khiến cho chúng sinh có tâm ác khởi tâm Đại Bi. Hay giúp đỡ, yêu thích người cúng dường chư Phật Bồ Tát Thánh chúng. Hay hộ giúp kẻ viết chép thọ trì đọc tụng, chân thành nghe Kinh Điển Đại Thừa, lại hay mãn túc việc tu Phật Bồ Đề.

Này Đại Phạm! Trì Đại Tùy Cầu Vô Năng Thắng Đại Minh này chẳng bị hoại nát, ở tất cả nơi được đại cúng dường giống như Phật Đại Sư Lưỡng Túc Tôn. Làm sao biết được Minh Vương này hay nghiền nát tất cả Ma? Đại Phạm ! Vào thời quá khứ có Đức Phật tên là Quảng Bác Vi Tiếu Diện Ma Ni Kim Bảo Quang diễm Chiếu Diệu Cao Dũng Vương (Vipùla Pratita Vadana Sùktva Mani Kanaka Ratna Jvala Ra’smi Prabha Abhyunõgata Ràja) Như Lai Ứng Chính Giác, lúc vừa mới thành Đạo đi đến Bồ Đề Trường muốn chuyển Pháp Luân, tất cả Như Lai xưng tán.

Bấy giờ tất cả Ma với vô lượng câu đê na dữu đa quyến thuộc vây quanh, thị hiện mọi loại Ma cảnh, hiển tác thần thông, tuôn mưa đủ loại khí trượng tràn khắp 4 phương để gây chướng nạn. Khi ấy Như Lai Quảng Bác Vi Tiếu Diện Ma Ni Kim Bảo Quang Diễm Chiếu Diệu Cao Dũng Vương trong phút chốc tịch nhiên an trú, ý tụng Đại Tùy Cầu Đà La Ni này, chỉ khoảng sát na thì tất cả Thiên Ma Ba Tuần nhìn thấy từ mỗi một sợi lông của Đức Như Lai ấy tuôn ra vô lượng câu đê trăm ngàn na dữu đa Kim Cương Sứ giả, thân mặc giáp trụ tỏa ánh hào quang lớn, đều cầm đao kiếm, búa, dây, gậy, côn, Tam Cổ Xoa cùng nhau nói là: "Bắt trói ác Ma, nghiền nát tâm ác, chém đứt mạng chúng, tán nát chư Ma đã gây chướng nạn cho Đức Như Lai, tức là tất cả ác Ma khó điều phục ấy". Dùng Đại uy lực của Như Lai, ở trong lỗ chân lông hiện ra vị Đại Trượng Phu. Các Chúng Ma ấy buồn thảm té lăn ra đất, đều bị mất: tự tính, thần thông, biện tài…. bỏ chạy tứ tán. Đức Như Lai dùng cây kiếm Đại Bi thắng được Ma cảnh, thành Vô Thượng Bồ Đề, liền chuyển tất cả Như Lai Pháp Luân giống như tất cả Phật. Tất cả loài gây chướng, Tỳ Na Dạ Ca, các Ma ác… thảy đều bị tồi hoại. Đức Như Lai liền chuyển Pháp Luân, vượt khỏi biển lớn sinh tử đến được bờ kia (bờ Giác Ngộ). Như vậy, Đại Phạm! Đà La Ni này có thế lực lớn hay đắc thần thông đi đến bờ kia. Nếu vừa mới khởi ý niệm thì ở nơi hiểm nguy đều được giải thoát, vui thích thanh tịnh, Hữu Tình có tâm ác liền khởi tâm Đại Bi. Vì thế Đại Phạm nên ghi nhớ, tác ý như lý, y theo Pháp viết chép mà thường đeo giữ.

Lại nữa Đại Phạm! Tại thành Ô Thiền Na (Ujayanì) có vị vua tên là Phạm Thí. Thời ấy có một người phạm vào tội nặng, nhà vua ra lệnh giết chết kẻ ấy. Người nhận lệnh đem tội nhân vào trong núi hành tội. Khi vào hang núi, người áp giải tội nhân liền vung đao tính chém chết. Tội nhân kia, lúc trước có đeo Đà La Ni Tùy Cầu Vô Năng Thắng này ở cánh tay phải, nay tâm lại ghi nhớ. Do uy lực của Đại Minh này, nên cây đao ấy lóe ra ánh sáng giống như đám lửa rồi gãy ra từng mảnh như bụi nhỏ. Khi nhìn thấy hiện tượng này, người đao phủ lấy làm kinh ngạc, liền trình báo đầy đủ cho nhà vua hay. Đức vua nghe xong, rất tức giận, lại sai sứ giả đem tội nhân ấy đẩy vào hang Dược Xoa khiến cho chúng Dược Xoa ăn thịt. Người áp lãnh liền đem tội nhân đẩy vào trong hang. Khi tội nhân mới vào hang thì chúng Dược Xoa vui vẻ thích thú chạy ra phía trước, muốn ăn thịt ngay. Do tội nhân ấy đeo Đại Tùy Cầu Uy Đức Lực cho nên chúng Dược Xoa nhìn thấy trên thân thể của tội nhân ấy có ánh hào quang rực rỡ chiếu soi, chúng rất sợ hãi đều nghĩ rằng : "Lửa này muốn thiêu cháy chúng ta". Do vậy, chúng Dược Xoa liền đẩy tội nhân ra ngoài của hang rồi vây quanh lễ bái. Sứ giả lại trình báo đầy đủ cho vua hay. Nghe xong, nhà vua càng giận dữ hơn nữa, lại sai sứ giả cột tội nhân lại ném xuống sông sâu. Sứ giả vâng lệnh thi hành. Lúc tội nhân ấy vừa rơi xuống sông thì nước sông liền khô cạn giống như bờ đất và tọâi nhân kia liền đứng trên bờ, mảnh lụa trên tay từ từ đứt đoạn. Khi nhà vua nghe qua việc này thì rất kinh ngạc, vui vẻ mỉm cười, sinh đại kỳ đặc liền kêu tội nhân đến hỏi: "Vì sao ngươi lại thoát được nạn ?". Tội nhân đáp : "Đại Vương ! Sở dĩ tôi được thoát nạn, vì trên thân của tôi có đeo Đà La Ni Đại Tùy Cầu Vô Năng Thắng Đại Minh Vương”. Vua liền khen ngợi: "Thật là lạ lùng ! Đại Minh này quả là vi diệu, hay dẹp tan tội chết ", rồi nói Già Đà rằng :

Đại Minh thật vi diệu ! Hay phá tan tội chết

Nơi chư Phật gia trì Cứu giúp các hữu tình

Hay giải thoát bệnh khổ Uy Đức của Đại Minh

Giải thoát sự chết yểu Đại Bi Tôn đã nói

Hay chận bệnh tật lớn Mau chứng Đại Bồ Đề

Bấy giờ, nhà vua vui mừng hớn hở liền lấy Đà La Ni Tùy Cầu đó cúng dường, lễ bái và đem vải lụa cột trên đầu người bị tội, ban cho phép quán đỉnh và xưng là Thành Chủ (5 Pháp của nước Thirên Trúc. Nếu nhận quan vinh, đều dùng vải lụa cột trên đầu, quán đỉnh, sau đó mới nhận chức),

Như vậy Đại Phạm ! Đà La Ni Đại Tùy Cầu Vô Năng Thắng này. Nếu có người đeo hay cột trên người, thì ở tất cả nơi đều được đại cúng dường. Nếu có chúng sinh tâm ác khó điều phục, liền khởi sanh tâm từ và cùng thuận phục. Vì thế, nên thường đeo giữ Đại Đà La Ni này. Lại nữa Đại Phạm ! Nếu muốn đeo Đà La Ni này thì nên lựa ngày tốt, sao tốt, giờ tốt y theo Pháp viết Đà La Ni " .

Khi Đại Phạm Vương nghe lời dạy xong thì rất vui vẻ, cúi 5 vóc sát đất đỉnh lễ dưới chân Đức Phật, rồi bạch rằng : "Bạch Thế Tôn ! Dùng phương pháp nào để viết chép Đà La Ni Đại Tùy Cầu Vô Năng Thắng này ? "

Bấy giờ Đức Như Lai liền nói Già Đa,ø bảo Đại Phạm rằng :

Đại Phạm ! Ông nên biết Nay Ta vì ông nói

Thương xót các hữu tình Khiến được an vui lớn

Mau lìa nghiệp bức bách Giải thoát các bệnh tật

Phụ nữ được mang thai (Cầu con được như ý)

Hữu tình lìa nghèo túng Nghiệp khốn khó đều trừ

Nên vào lúc cát Tú (Sao Tú trực tốt)

Bày sa tú tương ứng (Tinh tú làm bằng cát)

Cần phải giữ Tế Giới Mà cúng dường chư Phật

Phát Tâm Đại Bồ Đề Lại sinh tâm Bi Mẫn

Và khởi Tâm Đại Bi Nghĩ lợi ích cho người

Khắp các loại hữu tình Dùng nước cốt của hương 

Long Não, Chiên Đàn hương Mặc quần áo mới sạch

Liền đốt hương xông ướp Nên dùng Cù Ma Di

Tôâ Man Trà La nhỏ Nên lấy năm Hiền Bình

Đều chứa đầy nước thơm Cắm các loại hoa quả

Đặt ở bốn góc Đàn Còn một cái giữa Đàn

Trành hoa và hương đốt Với hương xoa màu nhiệm

Nên đốt Ngũ Vị hương Đàn hương, Táp Tất Ca

Tô Hợp, Trầm, Thạch Mật Hòa hợp rồi thiêu đốt

Đủ mọi thứ diệu hoa Các hoa quả, hạt giống

Tùy thời đem cúng dường Hương xoa dùng nghiêm sức

Tô, Mật và nhũ lạc Miến, lúa và sữa mè

Chứa đầy vật cúng dường Ưùng lượng đều cát tường

Dùng chén bát sành sứ Bốn góc đầy mùi thơm

Cọc gỗ Khư Đà La Đóng ở bốn góc Đàn

Dùng chỉ ngũ sắc cột Nếu cầu xin Tất Địa

Nên ăn Tam Bạch Thực Vẽ Tùy Cầu Nhân này

Nên ngồi chính giữa Đàn Trải chiếu bằng tranh cói

Y Pháp mà tô vẽ Hoặc lụa trắng, lụa màu

Hoặc dùng vỏ cây hoa Hoặc lá hoặc vật khác

Viết Đà La Ni này Người nữ cầu xin con

Nên dùng Ngưu hoàng vẽ Chính giữa đặt Đồng Tử

Anh lạc trang nghiêm thân Bát chứa đầy trân bảo

Dùng tay trái cầm giữ Ngồi ngay trên hoa sen

Lá sen đều nở rộng Lại ở góc phía Tây

Tô vẽ bốn núi báu Dùng vàng báu tô núi

Nghiêm cần nên tô vẽ Hay khiến thai an ổn

Trượng phu cầu xin con Nên dùng Uất Kim vẽ

Ắt việc mong cầu ấy Thảy đều được thành tựu

Ở bốn mặt Chân Ngôn Nên vẽ mọi loại Ấn

Lại vẽ đóa hoa sen Hoặc hai, hoặc ba, bốn

Cho đến năm hoa sen Hoa ấy đều hé nở

Tám cánh đủ râu nhụy Cuống sen dùng lụa buộc

Trên hoa vẽ Tam Kích Trên kích lại treo lụa

Lại vẽ cây búa lớn (Phủ việt) Cũng ở trên hoa sen

Lại vẽ hoa sen trắng Bên trên vẽ cây kiếm

Lại ngay trên hoa sen Tô vẽ ngay Thương Khư

Các hoa sen đã vẽ Đều ở trong ao báu

Nếu trượng phu đeo giữ Chẳng nên vẽ Đồng Tử

Nên vẽ hình Thiên nhân Mọi thứ báu trang nghiêm

Nếu Đế Vương đeo giữ Chính giữa nên tô vẽ

Bồ Tát Quán Tự Tại Lại ở nơi bốn mặt

Vẽ mọi loại Ấn Khế Nếu là Bật Sô đeo

Nên vẽ Trì Kim Cương Phải, cầm chày Kim Cương

Quyền trái dựng ngón trỏ Lại nên ở bốn góc

Tô vẽ bốn Thiên Vương Bà La Môn đeo giữ

Tô vẽ Y Xá Na Nếu Sát Lợi đeo giữ

Vẽ Ma Hê Thủ La Nếu Tỳ Xá đeo giữ

Tô vẽ Thiên Đế Thích Hoặc vẽ Tỳ Sa Môn

Nếu Thị Đà đeo giữ Nên vẽ Na La Diên

Đồng nam hoặc đồng nữ Vẽ Ba Xà Ba Đề

Nữ nhân đeo màu xanh Vẽ Thiên Lô Đà La

Nữ nhân đeo màu trắng Nên vẽ Danh Xưng Thiên

Nếu nữ nhân mập béo Nên vẽ Bảo Hiền Tướng

Người nữ gầy ốm đeo Vẽ Dược Xoa Mãn Hiền

Nếu phụ nữ mang thai Nên vẽ Đại Hắc Thiên

Hoặc vẽ Phạm Thiên Vương Như vậy các loại người

Đều vẽ Bản Sở Tôn Y Pháp mà vẽ chép

Thường đeo ở trên thân Mong cầu đều như ý

Kim Cương làm Hoa Sen Ở trên đặt Bảo Châu

Như Ý, hình Hỏa Diễm Đặt trên đầu cây phướng

Ở trong viên ngọc này Đặt bản Đại Tùy Cầu

Ở trong Tùy Cầu này Vẽ Ấp Thành Chủ kia

Nếu nhà cửa của mình Dựng Tùy Cầu Sát nầy

(tức cõi của Tùy Cầu) Thì vẽ Bản gia chủ

Ở bốn mặt Tùy Cầu Chung quanh vẽ hoa sen

Ở trên nhụy thai hoa Vẽ một sợi dây lụa

Chày Kim Cương, bánh xe Cây côn, Xước Khất Để 

(‘sakti) Các Khế Ấn như vậy Đều ngay trên hoa sen

Trên Sát treo phan lụa Y như Pháp cúng dường

Do Tùy Cầu Sát này Hay hộ quốc thành ấp

Và hộ giúp gia tộc Ôn dịch, các bệnh tật

Đói khát chẳng lưu hành Kẻ địch khó xâm hại

Quốc thổ đều an vui Nếu gặp trời quá nắng

Hoặc lúc mưa ứ trệ Nên vẽ Rồng chín đầu

Trên đầu có bảo châu Tỏa ra ánh lửa mạnh

Ngay trên tim của Rồng Vẽ một chày Kim Cương

Ở bốn mặt thân Rồng Vẽ Đại Tùy Cầu này

Đặt ở trong cái rương Cũng đặt trên phướng sát

Tùy thời giáng mưa ngọt (Cam vũ)Mưa ứ trệ liền hết

Thương Chủ dẫn mọi người Hoặc dưới nước trên bờ

Các thương nhân đeo giữ Nên vẽ hình thương chủ

Như trước đặt trên Sát Lìa giặc cướp, sợ hãi

Thảy đều đến bờ kia Vì thế nên siêng năng

Đeo giữ và đọc tụng Cát tường diệt các tội

Nếu là người niệm tụng Nên vẽ Tôn của mình

Nếu Nhật, Nguyệt, Huỳnh Hoặc (Hỏa Tinh)

Thần Tinh với Tuế Tinh Thái Bạch và Trấn Tinh

Tuệ và La Hầu Diệu Nhóm Cửu Chấp như vậy

Lấn bức Bản Mệnh Tú Gây ra các tai họa

Thảy đều được giải thoát Hoặc có người Thạch Nữ 

(Phụ nữ không thể sinh con) Phiến Xá Bán Xá Ca

Các loại người như vậy Do đeo Đại Tùy Cầu

Liền có thể có con Nếu loại này đeo giữ

Nên vẽ Cửu Chấp Diệu Hai mươi tám Tú Thiên

Giữa vẽ hình người đó Mong cầu đều như ý

Như Thế Tôn đã nói Đắc được nơi tối thắng

Đời này và đời khác Hay được vui thù thắng

Ba Mươi Ba Thiên Cung Tùy ý liền sinh vào

Vui thích Thiểm Bộ Châu Nhà Tộc Tính tối thắng

Được sinh vào Tộc ấy Hoặc sinh Sát Lợi Thiên

Hoặc nhà Bà La Môn Do đeo Đại Tùy Cầu

Sinh nơi thù thắng này Vẽ chép, giữ, đọc tụng

Y Pháp mà đeo giữ Sinh về cõi An Lạc

Hóa sinh trong hoa sen Quyết định chẳng nghi ngờ

Tất cả chư Như Lai Khen ngợi công đức này

Xưng dương không cùng tận Đóng chặt cửa Địa Ngục

Hay mở lối chư Thiên An lạc đều thành tựu

Trí Tuệ đều viên mãn Chư Phật và Bồ Tát

Thường an ủi người ấy Thân thường thọ khoái lạc

Mạnh khỏe có Đại lực Như Lai thành thật nói

Sẽ được Chuyển Luân Vị An ủi chúng Trời người

Khiến loài tâm ác sợ Tu Đà La Ni này

Chẳng lâu sẽ đắc được Chẳng bị đao gây thương

Thuốc độc và nước lửa Thảy đều chẳng thể hại

Phi mệnh và chết yểu Các tội đều mau lìa

Thấy nghe và chạm thân Ở tất cả thời xứ

Quỷ mỵ và đấu tranh Sợ hãi… đều tiêu diệt

Trùng ác với rắn độc Ngục tù đều giải thoát

Mọi loại tật bệnh nặng Thảy đều trừ diệt hết

Do tu trì Minh này Ở các chúng Ma La

(Mara: chướng, ma chúng) Không ngại được thông đạt

Hay ở tất cả thời Đều được cúng dường lớn

Trong người được tối thắng Gia hộ tu Chân Ngôn

TU HÀNH TÙY CẦU ĐẠI HỘ MINH VƯƠNG ĐÀ LA NI

PHẨM THỨ HAI

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Đại Phạm, nói Già Đà rằng:

Nay Ta vì ông nói Việc tu hành Trì Minh

Nói nghi tắc gia hộ Thương nhớ các hữu tình

Do sự ủng hộ này Đắc được thành tựu lớn

Các phương sở cư ngụ Dùng tác gia trì này

Đắc được vô chướng ngại Tâm quyết định không nghi

Không sợ không nhiệt não Trừ diệt tất cả Mỵ

Tùy thuận nơi tú diệu Hay đoạn nghiệp câu tỏa

Aùc thực, ác khiêu mạch (tự nhảy múa)

Yếm thư… đều tiêu diệt Chẳng bị các oan gia

Lấn hiếp gây thương tích Ác thị và yếm đảo

Chú dược và trùng độc Nơi nguy hiểm, địch quân

Nơi oán địch đáng sợ Tất cả đều tiêu dung

Do lực Đại Tùy Cầu Chư Phật đều ủng hộ

Nhất Thiết Trí Bồ Tát Thảy đều tác gia hộ

Duyên Giác và Thanh Văn Với nhiều chủng loại khác

Trời Rồng đại uy đức Đều cùng nhau ủng hộ

Người tụng Mật Ngôn này Do mới vừa nghe qua

Minh Vương Tối Thắng Tôn Tất cả nơi Vô úy 

Mâu Ni nói điều này Mộng ác, việc làm ác

Sự bức bách cực ác Bệnh tật vây quấn thân

Bệnh gầy tiêu xương thịt Với nhiều loại bệnh khác

Đinh sang, các độc thũng Ác chú với tai họa

Cắn nhai các hữu tình Làm hữu tình tổn hại

Việc đáng sợ, hại lớn Thảy đều được trừ diệt

Do gia hộ Đại Minh Dùng Minh này gia hộ

Sắp chết, được giải thoát Nếu dùng giấy lụa đen

Đem đến cung Diêm Ma Mệnh lại tăng tuổi thọ

Do vẽ đeo Đại Hộ Nếu có người hết mạng

Sau bảy ngày sẽ chết Vừa vẽ đeo Minh này

Vô Thượng Đại Gia Hộ Hoặc nếu vừa nghe qua

Y theo pháp gia trì Nơi nơi được an ổn

Tùy ý thọ an vui Sáu mươi tám Câu Chi

Một trăm Na Dữu Đa Ba Mươi Ba chư Thiên

Trợ giúp cho Đế Thích Đến hộ giúp người này

Tùy toại tác gia hộ Bốn Đại Hộ Thế Vương

Kim Cương Thủ, Đại Lực Một trăm Minh Tộc Chúng

Thường gia hộ người ấy Nhật Thiên và Nguyệt Thiên

Phạm Vương và Tỳ Nữu Tự Tại, Dạ Ma Thiên

Bảo Hiền với Lực Thiên Mãn Hiền, Đại Dũng mãnh

Ha Lị Đế cùng con Bán Già La, Bán Chi

Câu Ma La chúng Chủ Cát Tường Đại Minh Phi

Đa Văn và Biện Tài Thương Khí Ni, Hoa Xỉ

Nhất Kế, Đại Uy Đức Đại Dược Xoa như vậy

Thường thường sẽ ủng hộ Thạch nữ ngưng sinh con

Mang thai đều tăng trưởng Thường gia hộ người ấy

Cho đến giữ thọ mệnh Trượng phu thường được thắng

Nơi chiến đấu sợ hãi Do mãn các nguyện này

Do y Tịnh Tín Thiên Các tội đều tiêu diệt 

Do vẽ đại minh này Chư Phật thường quán sát

Đại uy đức Bồ tát Danh xưng ấy tăng trưởng

Phước thọ cũng như thế Tài cốc đều phong thịnh

Đắc được thảy không nghi Ngủ nghỉ và thức tỉnh

Thảy đều được an lạc Oan gia và quỉ thần

Đều chẳng dám hủy hoại Lúc đang ở chiến trường

Thường đều được đắc thắng Nếu lúc tu Mật Ngôn

Hộ này là tối thắng An vui tu các Minh

Đều được không chướng ngại Tất cả Mật Ngôn Giáo

Thảy đều được thành tựu Thâm nhập tất cả Đàn

Mau thành Tam muội gia Cho đến ở đời sau

Chư phật đều ủy ký Do trì Đại Hộ này

Các Cát tường đều mãn Ý nguyện đều thành tựu

Do mới viết Minh này Tất cả vui (lạc) phong thịnh

An lạc mà xả thọ Ắt sinh về nẻo lành

Muốn sinh Cực Lạc quốc Trì đeo Minh Vương này

Quyết định không nghi hoặc Đấu tranh nơi kiện cáo

Trong chiến trận đáng sợ Đều mau lìa sợ hãi

Lời Phật nói chân thật Thường được Túc Mệnh Trí

Đời đời đều không nghi Quốc vương đều vui vẻ

Quyến thuộc với Hậu Cung Hết thảy thường cung kính

Thường hoà cùng người thiện Thảy đều sinh thương xót

Chư Thiên cùng với người Khiến chở che giúp đỡ

Suốt cả ngày lẫn đêm Đại Hộ Thành Tựu Minh

Đẳng Chính Giác đã nói.

Bấy giờ Đức Bạc Già Phạm liền nói Tùy Cầu Đại Hộ Minh Vương Đại Tâm Đà La Ni :

Nẵng mô mẫu đà gia(NAMO BUDDHÀYA )

Nẵng mô Đạt Ma dã(NAMO DHARMÀYA)

Ná mạc Tăng Già daõ (NAMO SAMGHÀYA)

Nẵng mô Bà nga phộc đế, xả chỉ-dã mẫu nẵng duệ, ma ha ca lỗ ni ca dã, đát tha nghiệt đá dạ la-ha đế, tam miệu tam mẫu đà dã(NAMO BHAGAVATE ‘SAKYAMANAYE MAHÀ KARUNIKÀYA TATHÀGATÀYA ARHATE SAMYAKSAMBUDDHÀYA Ná mạc táp đáp tỳ-dược tam miệu tam một đệ tỳ-dược(NAMAH SAPTA BHYAH SAMYAKSAMBUDDHE BHYAH) Ế sam, ná mạc sa khất-lị đát-phộc(ESÀM NAMAH SKRTVA) Mẫu đà xả bà nẵng vật-lã đà duệ(BUDDHA ‘SASANA VRDHAYE) A hạ nhĩ ná nãnh-dần(AHAMIDÀNYÀM) Tam bát-la phộc khất-sái mính(SAMPRAVA KSA ME) Tá phộc tát đát-phộc nộ kiếm bả daï (SARVA SATVÀ DAKAMPAYA) I hàm vĩ niệm, ma hạ đế nghệ(IMÀM VIDYA MAHÀ TEJÌ) Ma hạ ma la bả la khất-la hàm(MAHÀ MALA PARÀKRA MÀM) Duệ thấp bà sử đam ma đát-la diễm(YE SYAM BHISITAM MÀTRÀYAM) Phộc nhật-la sa nẵng ma nãnh sử tị(VAJRÀSANA MANÌSIBHI) Cật-la hạ tát phệ vĩ nẵng dã ca(GRAHA SARVE VINÀYAKA) Thất-chế phộc đắc khất-sái noa, vĩ la dựng tát đá(‘SCA VATA KSANA VIRAYAM GATA)Ï Đát nễ dã tha(TADYATHÀ) :

Nghi lị, nghi lị, nghi lị ni(GÌRI GÌRI GIRINI) Nghi lị phộc để(GIRI VATI) Ngu noa phộc để(GUNA VATI) A ca xả phộc để(ÀKÀ’SA VATI) A ca xả truật đệ(ÀKÀ’SA ‘SUDDHE) Bá bả vĩ nga đế(PÀPA VIGATE) A ca thế nga nga nẵng đát lê(ÀKÀ’SE GAGANA TALE) A ca xả vĩ tá lị ni(ÀKÀ’SA VICÀRINI) Nhập-phộc lý đa thất lệ(JVALITA ‘SIRE) Ma ni mục khất-để khư(MANI MUKTI KHA) Tức đa mạo lý đà lệ(CITTA BOLI DHARE)

Tô kế thế(SUKE’SE) Tô phộc khất-đát-lê(SOVAKTRA) Tô mật đát-lệ(SUNÌTRÌ) Tô vạt la-noa mạo lý(SUVARNA BOLI) A để đế , a nỗ đáp-bán ninh ma nẵng nghiệt đế(ATÌTE ANATMAMNI MANA GATE) Bát-la để-luật đáp-bán ninh(PRATYUTMAMNI) Nẵng mạc tát phệ sam mẫu đà nam(NAMAH SARVASÀM BUDDHÀNÀM) Nhập-phộc lý đa đế nhạ tam mẫu đệ(JVALITA TEJA SAMBUDDHE ) Tố mẫu đế(SUBUDDHE) Bà nga phộc để(BHAGAVATE) Tố la khất-sái mính(SURA KSANI)

Tố khất-sái mính(SUKSA ME) Tố bát-la bệ(SUPRABHE) Tố ná mính(SUDAME) Tố nan đế(SUNÀMTE) Tả lệ(CARE) Bà nga phộc để(BHAGAVATE) Bả nại-la phộc để(BHADRA VATI) Bả nại-lệ, tố bả nại-lệ(BHADRE SUBHADRE) Vĩ ma lê nhạ dã bạt nại-lệ(VIMALE JAYA BHADRE) Bát-la tán noa tán nị(PRACANDA CANDI) Phộc nhật-la tán nị(VAJRA CANDI) Ma hạ tán nị(MÀHÀ CANDI) Kiểu lị(GAURI) Hiến đà lị(GANDHÀRI)

Chế tán noa lý(CERI CANDALI) Ma đặng nghĩ(MATAMGI) Phó yết tư xả phộc lị nại-la nhĩ nị(PUKASI ‘SAVARI DRAMINDI) Lao nại-lị ni(RAUDRINI) Tát phộc la-tha sa đà nãnh(SARVÀRTHA SÀDHANE) Hạ nẵng hạ nẵng, tát phộc thiết đốt-lỗ nẫm(HANA HANA SARVA ‘SATRÙNÀM) Nhược hạ nhược ha(DAHA DAHA) Tát phộc nột sắt-tra nam(SARVA DUSTANÀM) Tất lệ đa(PRETA) Tỷ xá tả(PI’SACA) Noa chỉ nãnh nam(DAKININÀM) Ma nộ sái(MANUSA) Ma nộ sái nẫm (AMANUSYANÀM) Bả tả bả tả (PACA PACA) Hột-lị nãi diêm vĩ đà-võng sa dã nhĩ vĩ đam (HRDAYA VIDHVAM ‘SAYA JÌVITAM) Tát phộc nột sắt-tra ngật-la hạ nẫm (SARVA DUSTA GRAHÀNÀM) Nẵng xả dã nẵng xả dã (NÀ’SAYA NÀ’SAYA) Tát phộc bá bả nãnh mính (SARVA PÀPAN IME) La khất-sái, la khất-sái hàm(RAKSA RAKSA MÀM Tát phộc tát đát-phộc nan tả (SARVA SATVANÀM CA) Tát phộc bà dữu bát nại-la phệ tỳ-dược (SARVA BHAYOPADRAVE BHYAH) Tát phộc nột sắt-tra nam (SARVA DUSTANÀM) Mãn đà năng củ lỗ (BANDHANAM KURU)Tát phộc chỉ lý-vĩ sái nẵng xả nãnh (SARVA KILISA NÀ’SANI) Mạt đa nan nị ma nãnh nãnh, tả lê để trí để trí nãnh (MÀTA NANDI MÀNINI CALE TITÏI TITINI) Đốt lai cụ la ni vị la ni (TUTAI GHORANI VÌRANI) Bát-la vạt la tam ma lệ (PRAVARA SAMMARE) Tán noa lý (CANDRI) MA đặng kỳ (MATAMGI) Vạt tạt tư, tố mẫu lỗ yết tư xả phộc lị hướng ca lị nại-la vĩ nị (VACASI SUMURU PUKASI ‘SAVARI ‘SAMKARI DRAVINDI) Nhược hạ nãnh bả tả nãnh mạt ná nãnh (DAHANI PACANI MADANI)Tát la tát la lê (SARA SARALE) Tát la lãm bệ tứ nẵng (SARALAMBHE HÌNA)Mạt địa-dữu đắc-khất sắt-tra (MADHYOKRSTA)Vĩ ná lị ni vĩ đà lị ni ma tứ lý (VIDÀRINI VIDHÀRINI MAHÌLI)Ma hộ ma hộ lý nãnh (MAHO MAHOLINI)Nghiệt nãi nãnh, nghiệt noa bạn tể (GANENI GANA PACE)Mãn đế mãn đế nãnh (BATI BATINI) Mãn đế chước khất-la chỉ nãnh (BATI CAKRA KINI)Nhạ lê tổ lê (JALE CULE)Xả phộc lị xả ma lị xả phộc lị (‘SAVARI ‘SAMARI ‘SAVARI)Tát phộc nhĩ-dã địa hạ la ni (SARVA VYADHI HARANI)Tổ nị tổ nị nãnh (CONDI CONDINI)Nãnh nhĩ nãnh nhĩ nãnh một (NIMI NIMINI NIMIM)Đà lị để-lị lộ ca nhạ hạ nãnh ( DHARI TRILOKA JAHANI)Để-lị lộ ca lộ ca yết lị (TRILOKA LOKA KARI)Đát-lạt đà đổ ca (TRAIDHÀTUKA )Nhĩ-dã Phộc lộ chỉ nãnh (VYAVALOKINI)Phộc nhật-la bả la thú bả xả khát nga chước khất-la để-lị thú la chấn đá ma ni (VAJRA PARA’SU PÀ’SA KHANÕGA CAKRA TRI’SÙLA CINTAMANI) Ma hạ vĩ nễ-dã đà la ni (MAHÀ VIDYA DHÀRANI) La khất-sái, la khất-sái hàm (RAKSA RAKSA MÀM) Tát phộc tát đát-phộc nan tả (SARVA SATVANÀM CA) Tát phộc đát-la , tát phộc sa-tha nẵng nghiệt đát tả (SARVATRÀ SARVA STHANA GATA SYA Tát phộc nột sắt-tra bà duệ tỳ-dược (SARVA DUSTA BHAYE BHYAH) Tát phộc ma nộ sái ma nộ sái bà duệ tỳ-dược (SARVA MANUSYA AMANUSYA BHAYE BHYAH) Tát phộc vĩ-dã địa tỳ-dược (SARVA VYADHI BHYAH) Phộc nhật-lệ phộc nhật-la phộc để (VAJRE VAJRA VATI) Phộc nhật-la bá ni đà lệ (VAJRAPÀNI DHÀRE) Tứ lý tứ lý (HILI HILI) Nhĩ lý nhĩ lý (MILI MILI) Tức lý tức lý (CILI CILI) Tất lý (SILI) Phộc la phộc la phộc la nễ(VARA VARA VARANI) Tát phộc đát-la nhạ dã lạp đệ Sa-phộc hạ(SARVATRÀ JAYA LAMDHI SVÀHÀ). Bá bả vĩ ná la ni(PÀPA VIDÀRANI) Tát phộc nhĩ-dã địa ha la ni Sa-phộc hạ(SARVA VYADHI HÀRANI SVÀHÀ). Tát phộc đát-la bà dã hạ la ni Sa-phộc hạ(SARVATRÀ BHAYA HARANI SVÀHÀ) . Bổ sắt-trí sa-phộc sa-để bà phộc đổ ma ma (….) Sa-phộc haï (PUSTI SVASASTIRBHAVATU MAMA (…) SVÀHÀ) . Phiến để Sa-phộc hạ(‘SÀNTI SVÀHÀ) . Bổ sắt-trí Sa-phộc hạ(PUSTI SVÀHÀ) . Nhạ dã đô nhạ duệ nhạ dã phộc để(JAYA TUJAYE JAYAVATI) Nhạ dã vĩ bổ la vĩ ma lê Sa-phộc hạ(JAYA VIPULA VIMALE SVÀHÀ) . Tát phộc đát tha nghiệt đa, địa sắt-xá nẵng, bố la-để Sa-phộc hạ(SARVA TATHÀGATA ADHISTANA PURTI SVÀHÀ) . Án- Bộ lị bộ lị phộc nhật-la phộc để(OM- BHURI BHURI VAJRAVATI) Đát tha nghiệt đa hột-lị nãi dã bố la ni tán đà la ni(TATHÀGATA HRDAYA PURANI SANDHÀRANI) Mạt la mạt la nhạ dã vĩ nễ-duệ(BALA BALA JAYA VIDYE ) Hồng hồng(HÙM HÙM) Phát tra phát tra(PHAT PHAT) Sa-phộc hạ(SVÀHÀ).

Nếu có người dùng câu cú cuả Như Lai Thân Minh Đà La Ni tác cứu tế nhiếp thọ gia hộ, hay làm pháp Tức Tai, pháp Cát Tường che chận sự trách phạt, thành Đại Gia Hộ.

Nếu có người sắp hết thọ mệnh, tụng Chân Ngôn này lại được diên mệnh tăng thọ, mạng sống kéo dài, thường được an vui, được Đại niệm trì.

Nếu dùng chày Kim Cương vừa tụng niệm gia trì, giả sử có bị tai họa, đại tật phi mệnh đều được giải thoát. Tất cả bệnh tật đều được trừ diệt. Người bị bệnh hoạn lâu ngày, tụng Chân Ngôn này gia trì vào góc áo Cà Sa rồi đem phủi phất lên người đó, thì bệnh liền được trừ khỏi.

Người trì tụng hàng ngày sẽ được đại thông tuệ, thành tựu được uy lực, đại cần dũng, biện tài. Tất cả tội chướng đã định theo nghiệp báo thảy đều trừ diệt. Tất cả Phật, Bồ Tát, Trời, Rồng, Dược Xoa… đối với người thọ trì Đà La Ni này sẽ khiến cho Tinh Khí nhập vào thân để gia tăng uy lực, làm cho thân tâm thường được vui thích.

Này Đại Phạm ! Đại Minh Vương Đại Hộ Đà La Ni này. Nếu có người cho đến loài bàng sinh, cầm thú được nghe qua tai thì hết thảy các loại ấy vĩnh viễn chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng Bồ Đề, huống chi kẻ trai lành, người nữ thiện có tịnh tín (niềm tin trong sạch), Bật Sô, Bật Sô Ni, Ô Bà Tố Ca, Ô Bà Tư Ca, Quốc Vương, Vương Tử, Bà La Môn, Sát Lợi với các loại khác một lần nghe qua Đà La Ni Đại Tùy Cầu Đại Hộ này. Nghe xong, thân tâm tịnh tín, cung kính viết chép, đọc tụng, sinh tâm ân trọng tu tập, vì người khác rộng diễn lưu bố. Đại Phạm ! Ông nên biết người này thảy đều mau chóng xa lìa 8 loại Phi Mệnh. Trong thân người đó chẳng sinh bệnh tật, người đó chẳng bị lửa, độc, đao, gậy, trùng độc, yểm đảo, chú trớ, các pháp thuốc ác gây tổn hoại, đồng thời chẳng bị đau nhức thân thể, đau nhức đầu, các bệnh sốt rét phát theo chu kỳ 1 ngày, 2 ngày, 3 ngày, 4 ngày cho đến 7 ngày phát ra một lần và cũng chẳng bị các bệnh điên cuồng, thần kinh. Do người này chính niệm ngủ nghỉ, chính niệm giác ngộ nên mau chóng chứng Đại Niết Bàn. Đời này được đại phú quý tự tại. Khi sinh ra, ở khắp mọi nơi thường được Túc Mệnh. Tất cả Người, Trời thảy đều yêu kính, dung nghi đoan chính, đều được thoát khỏi tất cả nẻo Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Bàng Sinh, giống như mặt trời tỏa sáng chiếu soi tất cả hữu tình, hay như mặt trăng đem nước Cam Lộ rưới vẩy lên thân của tất cả hữu tình, khiến cho yêu thích người đó. Dùng pháp Cam Lộ nhập vào trong tâm tương tục của tất cả hữu tình, khiến cho Từ Trạch hoan hỷ.

Đối với tất cả hàng Dược Xoa, La Sát, Bộ Đa, Tất Lệ Đa, Tất Xá Già, Điên Giản Quỷ (Quỷ điên cuồng) Noa Chỉ Ninh (Dakini) chư Mỵ, Tỳ Na Dạ Ca hung ác … thảy đều dùng uy lực đại hộ của Đại Tùy Cầu, khiến cho chúng chẳng dám xâm não.

Nếu đến vùng lân cận, ghi nhớ Đại Hộ Minh Vương này thì tất cả loài có tâm ác đối với người trì tụng, sẽ phát sinh lòng vui vẻ, thọ giáo rồi bỏ đi. Do uy lực của Đại Tùy Cầu Đại Hộ Minh Vương này, cuối cùng không có oán địch sợ hãi vì các oán địch đó chẳng dám lấn bức. Hoặc nếu có người lỡ bị phạm tội với Quốc Vương, Đại Thần, Bà La Môn mà bị xử tội chết. Vào lúc thọ hình sắp bị đao kiếm chặt chém, nếu vừa ghi nhớ Đại Hộ Minh Vương thì cây đao ấy sẽ gẫy nát từng đoạn giống như bụi nhỏ. Người thọ tội ấy liền được gặp tất cả Pháp bình đẳng và được lực Đại Niệm".

Bấy giờ Đức Như Lai nói Già Đà rằng:

Đại Hộ gia trì này Thanh tĩnh diệt các tội

Hay tác Tuệ cát tường Tăng trưởng các công đức

Hay mãn các Cát Khánh Hay gặp mộng tươi đẹp

Hay tĩnh các mộng ác Đại Minh Đại Hộ này

Giúp trượng phu, người nữ Trong khoảng khắc giải thoát

Nơi trống vắng hiểm nguy Được các nguyện mong ước

Như Chính Đẳng Giác nói Nếu bị mất lối đi

Niệm Đại Minh Vương này Mau chóng được Chính Đạo

Được ăn uống thù thắng Dùng Nghiệp thân khẩu ý

Thời trước gây các tội Chẳng hề làm nghiệp lành

Vừa nhớ đến Minh này Thảy đều được tiêu diệt

Viết chép và thọ trì Chuyển đọc và niệm tụng

Vì người khác diễn nói Các Pháp đều thông đạt

Như vậy được Pháp Vị Các tội đều tiêu diệt

Tâm Ý cầu niềm vui Các việc đều thành tựu

Trong cái chết, sợ hãi Thảy đều được cứu hộ

Vua, Quan với nước, lửa Sương, mưa đá, trộm cướp

Chiến đấu và kiện cáo Nạn thú răng vuốt bén

Tất cả đều tiêu dung Ở núi tụng lạc xoa

Liền thành tựu Minh này Tất cả chư Phật nói

Xưng tụng đều hoan hỷ Mãn tư lương Bồ Đề

Tất cả nơi trú ngụ Nếu dùng Đại Minh này

Tạo tác nơi gia trì Muốn làm các sự nghiệp

Nên lợi ích ta, người Nhậm vận được thành tựu

Dùng Đại Hộ không ngại Đại Phạm ! Ông nên biết

Nay Ta lại diễn nói Vì người bị bệnh nặng

Nên làm bốn Đàn vuông Cù Ma hòa bùn đất

Dùng phấn ngũ sắc vẽ Mà làm Man Noa La

Đặt bốn bình bốn góc Bậc Trí y nghi quỹ

Rải các hoa trên Đàn Nên đốt hương thù thắng

Dâng mọi thức ăn uống Khiến người thấy tịnh tín

Như vậy dùng hương hoa Y theo pháp phụng hiến

Bốn góc cắm bốn (mũi) tên Dùng chỉ ngũ sắc quấn

Khiến người bệnh tắm gội Mặc quần áo thanh tịnh

Toàn thân bôi dầu thơm Dẫn vào chính giữa Đàn

Ngồi đối mặt phương Đông Bấy giờ người Trì Minh

Tụng Đại Minh này trước Khiến đầy đủ bảy biến

Tự gia trì thân mình Tiếp tụng hăm mốt biến

Gia trì cho người bệnh Do tụng Đại Hộ này

Các bệnh đều ngưng trừ Liền lấy một bình nước

Đầy hương hoa ẩm thực Tác gia hộ bảy lần

Mau ném về phương Đông Tiếp lấy bình phương Nam

Hương hoa, thực như giáo Như trước tụng bảy biến

Mau ném về phương Nam Tiếp dùng bình phương Tây

Hương hoa, thức ăn uống Y Pháp gia trì trước

Phương Bắc cũng như vậy Bấy giờ người trì tụng

Ngửa mặt hướng phương trên Tụng Minh này một biến

Thành gia trì thù thắng Đại Phạm ! Làm xong rồi

Tất cả khổ đều trừ Pháp gia trì như vậy

Thích Sư Tử đã nói Trong tất cả các Pháp

Không có gì sánh bằng Hộ thắng trong ba cõi

Người đó không chết yểu Không già cũng không bệnh

Khổ : Oán Tằng, Ly Biệt Nếu hay lại Lý Quán

Tâm xa lìa buồn khổ Chúng Diêm Ma cúng dường

Pháp Vương cõi Diêm Ma Cung kính mà thừa sự

Bảo người Trì Minh ấy Mau qua nơi Thiên Thú

Do Đại Minh này nên Địa Ngục đều hết sạch

Ắt ngự Cung Điện diệu Đủ uy lên trời cao

Tất cả Người và Trời Chúng Dược Xoa, La Sát

Hết thảy đều cúng dường Thường sẽ được phước này

Vì thế thường thọ trì Bồ Tát Kim Cương Thủ

Bí Mật Dược Xoa Tướng Đế Thích, Xá Chi, Hậu

Chúng Ha Lị Đế Mẫu Bán Chi Ca Dược Xoa

Hộ Thế Thiên Uy Đức Nhật, Nguyệt và Tinh Tú

Chấp Diệu, loài mãnh ác Tất cả Đại Long Vương

Chư Thiên và Tiên Chúng A Tu La và Rồng

Kim Xí, Càn Đạt Bà Khẩn Na, Ma Hầu La

Do viết đeo Minh này Luôn luôn theo tùy toại

Do y Pháp tụng trì Đắc được đại vinh ích .

Khi Đức Thế Tôn nói Kinh này xong, các Đại Bồ tát, Đại Thanh Văn chúng và Đại Phạm Thiên, tất cả hàng Trời, Rồng, Dược Xoa, A Tu La, Càn Đạt Bà, Nghiệt Lệ Trà, Khẩn Na La, Ma Hô La Già, Nhân, Phi nhân … đều rất vui vẻ, tin nhận phụng hành.

(Quyển Hạ)

Chân Ngôn sau đây y theo Bản đời Minh(c.f- P.618b)

Nẵng mô tát phộc tát tha nga đa nam (NAMAH SARVA TATHÀGATÀNÀM) . Nẵng mô nẵng mạc (NAMO NAMAH) Tát phộc một đà mạo độc tát đa phộc (SARVA BUDDHA BODHISATVA) Một đà đạt ma, Tăng khế tỳ dược (BUDDHA DHARMA SAMGHE BHYAH).

Án- (OM) Vĩ bổ la nghiệt bệ (VIPULA GARBHE)Vĩ bổ la vĩ ma lê (VIPULA VIMALE)Nhạ dã nghiệt bệ (JAYA GARBHE)Phộc nhật la nhập phộc la nghiệt bệ (VAJRA JVALA GARBHE)Nga đễ nga hạ ninh (GATI GAHANE)Nga nga nẵng vĩ thú đã ninh (GAGANA VI’SODHANE)Tát phộc bá bả vĩ thú đã ninh (SARVA PÀPA VI’SODHANE). Án- (OM)Ngu noa phộc để (GUNA VATI)Nga nga lị nê ni (GAGARININI)Nghĩ lị nghĩ lị (GIRI GIRI)Nga ma lị, nga ma lị (GAMÀRI GAMÀRI)Ngược hạ ngược hạ (GAHA GAHA)Nghiệt nga lị, ngược nga lị (GARGÀRI GARGÀRI)Nga nga lị, nga nga lị (GAGARI GAGARI)Nghiêm bà lị, nghiêm bà lị (GAMBHARI GAMBHARI)Nga để nga để (GATI GATI)Nga ma nãnh nga lệ (GAMARI GARE)Ngu lỗ ngu lỗ (GÙRU GÙRU)Ngu lỗ ni (GÙRUNE)Tả lê (CALE)A tả lê (ACALE)Mẫu tả lê (MUCALE)Nhạ duệ (JAYE)Ni nhạ duệ (VIJAYE)Tát phộc bà dã vĩ nga đế (SARVA BHAYA VIGATE)Nghiệt bà tam bà la ni (GARBHA SAMBHARANI)Tất lị tất lị (SIRI SIRI)Nhĩ lị nhĩ lị (MIRI MIRI)Kỳ lị kỳ lị (GHIRI GHIRI).

- Tam mãn đá ca la sái ni (SAMANTA AKARSANI)-Tát phộc thiết đốt lỗ bát la mạt tha nãnh (SARVA ‘SATRÙ PRAMARTHANI) - La khất sái, la khất sái, ma na (mỗ giáp) tát phộc tát đa phộc nam tá (RAKSA RAKSA MAMA (….) SARVA SATVANÀM CA) - Vĩ lị vĩ lị (VIRI VIRI) -Vĩ nga đá phộc la noa (VIGATA AVARANA) -Bà dã nẵng xả nãnh (BHAYA NÀ’SANI) -Tô lị tô lị (SURI SURI) -Tức lị kiến ma lê (CILI KAMALE) -Vĩ ma lê (VIMALE) -Nhạ duệ (JAYE) -Vĩ nhạ duệ (VIJAYE) -Nhạ dạ phộc hề (JAYA VAHE) - Nhạ dạ phộc để (JAYA VATI) -Bà nga phộc để tha đát nẵng ma củ tra nha đà lị (BHAGAVATI RATNA MAKUTA MALA DHÀRI) -Ma hộ vĩ vĩ đà vĩ tức đát la (BAHU VIVIDHA VICITRA) -Phệ sái lỗ bả đà lị ni (VESA RÙPA DHÀRANI) -Bà nga phộc để ma hạ vĩ nễ dã nê vĩ (BHAGAVATI MAHÀ VIDYA DEVI) -La khất sái, la khất sái ma ma (Tôi tên là….) (RAKSA RAKSA MAMA….) -Tát phộc tát đa phộc nam tá (SARVA SATVANÀM CA) -Tam mãn đá tát phộc đát la (SAMANTA SARVATRÀ) -Tát phộc bá bả vĩ thú đà nãnh (SARVA PÀPA VI’SODHANE) -Hộ lỗ hộ lỗ (HURU HURU). Nặc khất sát đát la ma la đà lị ni (NAKSATRA MÀLÀ DHÀRINI) - La khất sái, la khất sái Hàm, ma ma (Tôi tên là…) (RAKSA RAKSA MAMA…..) - A nẵng tha tả (ANÀTHA SYA). Đát la noa bả la gia noa tả (ATRÀNA PARÀYANA SYA) - Bả lị mô tá dã ninh (PARIMOCA YA ME) - Tát phộc nậu khế tỳ dược (SARVA DUHKHE BHYAH) - Chiến ni chiến ni ( CANDI CANDI) - Chiết nị nẵng phệ nga phộc để (CANDINI VEGA VATI) - Tát phộc nột sắt-tra nãnh phộc la ni (SARVA DUSTA NIVARANI) - Thiết đốt lỗ, bác khất xoa bát la mạt tha nãnh (‘SATRÙ PAKSA PRAMATHANI) - Vĩ nhạ dã phộc tứ nãnh (VIJAYA VÀHINI) - Hộ lỗ , Hộ lỗ (HURU HURU) - Mẫu lỗ, Mẫu lỗ (MURU MURU) - Tổ lỗ, Tổ lỗ (CURU CURU) - A dục Á la nãnh (AYUH PÀLANI) - Tô la phộc la mạt đà nãnh (SURA VARA MATHANI) - Tát phộc nê phộc đá bố tỷ đế (SARVA DEVATA PÙJITE) - Địa lị, địa lị (DHIRI DHIRI) - Tam mãn đá phộc lộ chỉ đế ( SAMANTA AVALOKITE) - Bát la bê, Bát la bệ (PRABHE PRABHE) - Tô bát la bà vĩ truật đệ (SUPRABHA VI’SUDDHE) - Tát phộc bá bả vĩ thú đà nãnh (SARVA PÀPA VI’SODHANE) - Đạt la đạt la (DHARA DHARA) - Đạt la ni đà la đạt lệ (DHÀRANI DHARA DHARE) - Tô mẫu tô mẫu (SUMU SUMU) - Lỗ lỗ tá lê (RURU CALE)- Tá la gia nộ sắt-tra (CALÀYA DUSTA) - Bố la dã mính, A Thiêm (PÙRAYA ME À’SAM) - Thất lị phộc bổ đà nan nhạ dã kiếm ma lê (‘SRÌ VAPUDHANAM JAYA KAMALE) - Khất sử ni khất sử ni (KSINI KSNI) - Tát phộc nê phộc la năng củ thế (SARVA VARADE VARA ANÕKU’SE).

Án- Bát nột ma vĩ truật đệ (OM- PADMA VI’SUDDHE) - Thú đà dã thú đà dã (‘SODHAYA ‘SODHAYA) - Thuấn đệ (‘SUDDHE) - Bả la bả la (BHARA BHARA) - Tị lị tị lị (BHIRI BHIRI) - Bộ lỗ bộ lỗ (BHURU BHURU) - Mộng nga la vĩ thuấn đệ (MAMGALA VI’SUDDHE) - Bả vĩ đát la mục nghiệt (PAVITRA MUKHI) -Khất nghĩ ni Khất nghĩ ni (KHARGANI KHARGANI) - Khư la khư la (KHARA KHARA) - Nhập phộc lý đá Thủy khát lệ (JVALITA ‘SIRE) - Tam mãn đa bát-la sa lị đá phộc bà tất đa truật đệ (SAMANTA PRASARITA VABHASITA ‘SUDDHE) - 101. Nhập-phộc la, nhập-phộc la (JVALA JVALA) - Tát phộc nê phộc nga noa tam ma ca la-sái ni (SARVA DEVAGANA SAMA AKARSANI) - Tát để-dã phộc đế đá la đát la đá lị dã hàm (SATYA VATI TARA TARA TÀRÀYA MAM) - Nẵng nga vĩ lộ chỉ đế (NÀGA VILOKITE) - La hộ la hộ (LAHU LAHU) - Hộ nỗ hộ nỗ (HUNU HUNU) - Khất-sử ni, khất-sử ni (KSINI KSINI) - Tát phộc nghĩ-la hạ bạc khất-sái ni (SARVA GRAHA BHAKSANI) - Nga lị băng nga lị (GALI PIMGALI) - Tổ mẫu tổ mẫu (CUMU CUMU) - Tô mẫu tô mẫu (SUMU SUMU) - Tổ mẫu tả lệ (CUVI CARE) - Đa la đa la (TARA TARA ) - Nẵng nga vĩ lộ chỉ nãnh đá la dã đổ hàm (NÀGA VILOKINA TÀRÀYA TUMAM) - Bà nga phộc để a sắt-tra ma hạ bà duệ tỳ-dược (BHAGAVATE ASTA MAHÀ BHAYE BHYAH) - Tam muộn nại-la sa nga la bát lị-dần đảm (SAMUDRA SÀGARA PRATYANTÀM) - Bá đá la nga nga nẵng đát-lam tát phộc đát-la (PÀTÀLA GAGANA TALAM SARVATRÀ) - Tam mãn đế nẵng nễ xả mãn đệ nẵng (SAMANTENA DI’SA BANDHENA) - Phộc nhật-la bát-la ca la. Phộc nhật-la bá xả mãn đạn mật nẵng (VAJRA PRÀKÀRA VAJRA PA’SA BANDHANE) - Phộc nhật-la nhập-phộc la vĩ truật đệ (VAJRA JVALA VI’SUDDHE) - Bộ lị bộ lị (BHURI BHURI) - Nghiệt bà phộc để, nghiệt bà vĩ thú đà nãnh (GARBHA VATI GARBHA VI’SODHANE) - Quynh khất-sử tam bố la ni (KUKSI SAMPÙRANI) - Nhập-phộc la, nhập-phộc la (JVALA JVALA) Tá la tá la (CALA CALA) - Nhập-phộc lý nãnh, bát-la vạt sái đỗ nê phộc (JVALANI PRAVASATU DEVA) - Tam mãn đế nẵng nễ miễu ná kế nẵng (SAMANTENA DIDHYOKENA)- A mật-lật đa phộc la-sái nê (AMRTA VARSANI)- Nê phộc đá phộc đá la ni (DEVATÀ DHÀRANI) - A tỵ tru giả đổ minh (ABHISIMCA TUME) - Tô nga đa phộc la phộc tá nẵng mật-lật đa (SUGATA VARA VACANA AMRTA) - Phộc la phộc bổ lệ la khất-sái la khất-sái ma ma (Tôi tên là….) (VARA VAPUSPE RAKSA RAKSA MAMA…..) - Tát phộc tát đa phộc nan tá (SARVA SATVÀNÀM CA Tát phộc đát-la tát phộc ná tát bà duệ tỳ-dược (SARVATRÀ SARVADÀ SARVA BHAYE BHYAH) -Tát mạo bát nại-la phệ tỳ-dược (SARVOPADRAVE BHYAH) - Tát mạo bả tăng nghê tỳ-dược (SARVOPASARGE BHYAH)- Tát phộc nột sắt-tra bà dã tị đát tả (SARVA DUSTA BHAYA BHÌTA SYA) - Tát phộc ca lý ca la hạ vĩ nghiệt-la hạ vĩ phộc ná nậu tát-phộc bả-nan(SARVA KÀLI KALAHÀ VIGRAHA VIVÀDA DUHSVAPNÀM) - Nột nãnh nhĩ đá mộng nga la bá bả vĩ nẵng xả nãnh (DURNI MINTA AMAMGALLYA PÀPA VINA’SANI) - Tát phộc dược khất-xoa, la khất-sái sa (SARVA YAKSA RAKSASA) - Nẵng nga nãnh phộc la ni (NÀGA NIVARANI) - Ma la ma la (BALA BALA) - Ma la phộc để (BALA VATI) - Nhạ dã nhạ dã (JAYA JAYA) - Tát phộc đát-la, tát phộc ca lam (SARVATRÀ SARVA KÀRAM) - Tất điền đổ minh ế hàm, ma hạ vĩ niệm sa đà dã, sa đà dã (SIDDHYAM TUME IMAM MAHÀ VIDYA SÀDHAYA SÀDHAYA) - Tát phộc mạn noa la sa đà nãnh (SARVA MANDALA SÀDHANI) - Già đa dã, tát phộc vĩ-cận nẵng (GHÀTAYA SARVA VIGHNAM) - Nhạ dã nhạ dã (JAYA JAYA) - Tất đệ, tất đệ, tô tất đệ (SIDDHE SIDDHE SUSIDDHE) - Tất địa-dã, tất địa-dã (SIDDHYA SIDDHYA) - Một địa-dã, một địa-(BUDDHYA BUDDHYA) - Bố la dã, bố la dã (PÙRAYA PÙRAYA) - Bố la ni, bố la ni (PÙRANI PÙRANI) Bố la dạ, a thiêm (PÙRAYA À’SAM) - Tát phộc vĩ nễ-dã (SARVA VIDYA) - Nhạ dã đa lị nhạ dạ phộc để (JAYOTTARI JAYAVATI) - Để sắt-tra, để sắt-tra (TISTA TISÏTÏA) - Tam ma dã ma noa bá la dã (SAMAYAM ANUPÀLAYA) - Đát tha nghiệt đa hột-lị nãi dã thuấn đệ nhĩ-dã phộc lệ ca dã hàm (TATHÀGATA HRDAYA ‘SUDDHE VYAVALOKAYA MAM) - A sắt-tra tị ma hạ ná lỗ noa bà thường (ASTA BHI MAHÀ DÀRUNA BHAYAM) - Tát la tát la (SARA SARA) - Bát-la tát la, bát-la tát la (PRASARA PRASARA) - Tát phộc phộc la noa vĩ thú đà nãnh (SARVA AVARANA VI’SODHANE) - Tam mãn đá ca la mạn noa la vĩ thuấn đệ (SAMANTA KÀRA MANDALA VI’SUDDHE) - Vĩ nga đế, vĩ nga đế (VIGATE VIGATE) - Vĩ nga đa ma la vĩ thú đà nãnh (VIGATA MALA VI’SODHANE) - Khất-sử ni, khất-sử ni (KSINI KSINI) - Tát phộc bá bả vĩ thuấn đệ (SARVA PÀPA VI’SUDDHE) - Ma la vĩ nghiệt đế (MARA VIGATE) - Đế nhạ phộc để, phộc nhật-la phộc để, đát-lại lộ chỉ-dã địa sắt-xỉ đế, sa-phộc hạ (TEJAVATI VAJRAVATI TRAILOKYA ADHISTITE SVÀHÀ).Tát phộc đát tha nghiệt đa một đá tỳ sắc khất-đế, sa-phộc hạ (SARVA TATHÀGATA BUDDHA ABHISIKTE SVÀHÀ). Tát phộc mạo địa tát đa-phộc tỳ sắc khất-đế, sa-phộc hạ (SARVA BODHISATVA ABHISIKTE SVÀHÀ). Tát phộc nê phộc đá tỳ sắc khất-đế, sa-phộc hạ (SARVA DEVATÀ ABHISIKTE SVÀHÀ). Tát phộc đát tha nga đa hột-lị nãi dạ địa sắt-xỉ đa hột-lị nãi duệ, sa-phộc hạ (SARVA TATHÀGATA HRDAYA ADHISTITA HRDAYE SVÀHÀ).Tát phộc đát tha nga đa tam ma dã tất đệ, sa-phộc hạ (SARVA TATHÀGATA SAMAYA SIDDHE SVÀHÀ). Ấn nại-lệ, ấn nại-la phộc để, ấn nại-la nhĩ-dã phộc lộ chỉ đế, sa-phộc hạ (INDRA INDRAVATI INDRA VYAVALOKITE SVÀHÀ). Một-la hám-minh. Ba-la hám-ma để-dữu sử đế, sa-phộc hạ (BRAHME BRAHMA ADHYUSTE SVÀHÀ). Vĩ sắt-nỗ nẵng mạc tắc-khật-lị đế, sa-phộc hạ (VISNU NAMASKRTE SVÀHÀ). Ma hê thấp-phộc la mãn nễ đa bố nhĩ đá duệ, sa-phộc hạ (MAHE’SVARA VANDITA PÙJITAYE SVÀHÀ). Phộc nhật-la đà la, phộc nhật-la bá ni, ma la vĩ lị-dã địa sắt-xỉ đế, sa-phộc hạ (VAJRADHARAVAJRAPÀNI BALA VÌRYA ADHISTITE SVÀHÀ). Địa-lã đa la sắt tra-la dã, tát-phộc hạ (DHRTARÀSTRÀYA SVÀHÀ). Vĩ lỗ trà ca dã, tát-phộc hạ (VIRÙDHAKÀYA SVÀHÀ). Vĩ lỗ bá khất-sái dã, tát-phộc hạ (VIRÙPAKSAYA SVÀHÀ). Phệ thất-la ma noa dã, tát-phộc hạ. Tạt đốt ma hạ la nhạ nẵng mạc tắc-khất-lị đa dã, tát-phộc hạ (VAI’SRAVANÀYA SVÀHÀ. CATUR MAHÀ RÀJA NAMASKRTÀYA SVÀHÀ). Diễm ma dã, tát-phộc hạ (YAMMÀYA SVÀHÀ). Diễm ma bố nhĩ đa nẵng mạc tắc-khất-lị đa dã, tát-phộc hạ (YAMMA PÙJITA NAMASKRTÀYA SVÀHÀ). Phộc lỗ noa dã, tát-phộc hạ (VARUNÀYA SVÀHÀ). Ma lỗ đá dã, tát-phộc hạ (MURÙTÀYA SVÀHÀ). Ma hạ ma lỗ đá dã, tát-phộc hạ (MAHÀ MARÙTÀYA SVÀHÀ). A ngân-nẵng duệ, tát-phộc hạ (AGNAYE SVÀHÀ). Nẵng nga vĩ lộ chỉ đá dã, tát-phộc hạ (NÀGAVILOKITÀYA SVÀHÀ). Nê phộc nga nãi tỳ-dược, tát-phộc hạ (DEVAGANE BHYAH SVÀHÀ). Nẵng nga nga nãi tỳ-dược, tát-phộc hạ (NÀGAGANE BHYAH SVÀHÀ). Dược khất-sái nga nãi tỳ-dược, tát-phộc hạ (YAKSAGANE BHYAH SVÀHÀ).La khất-sái sa nga nãi tỳ-dược, tát-phộc hạ (RAKSASAGANE BHYAH SVÀHÀ). Ngạn đạt phộc nga nãi tỳ-dược, tát-phộc hạ (GANDHARVAGANÏE BHYAH SVÀHÀ). A tô la nga nãi tỳ-dược, tát-phộc hạ (ASURAGANE BHYAHÏ SVÀHÀ). Nga lỗ noa nga nãi tỳ-dược, tát-phộc hạ (GARUDAGANE BHYAH SVÀHÀ). Khẩn na la nga nãi tỳ-dược, tát-phộc hạ (KINNARAGANE BHYAH SVÀHÀ). Ma hộ la nga nga nãi tỳ-dược, tát-phộc hạ (MAHORAGAGANE BHYAH SVÀHÀ). Ma nộ sái tỳ-dược, tát-phộc hạ (MANU SYE BHYAH SVÀHÀ). A ma nộ sái tỳ-dược, tát-phộc hạ (AMUNU SYE BHYAH SVÀHÀ). Tát phộc nghiệt-la hệ tỳ-dược, tát-phộc hạ (SARVA GRAHE BHYAH SVÀHÀ). Tát phộc bộ đế tỳ-dược, tát-phộc hạ (SARVA BHÙTE BHYAH SVÀHÀ). Tát-lị đế tỳ-dược, tát-phộc hạ (PRETE BHYAH SVÀHÀ).Tỉ xả tế tỳ-dược, tát-phộc hạ (PI’SACE BHYAH SVÀHÀ). A bả sa-ma lệ tỳ-dược, tát-phộc hạ (APASMARE BHYAH SVÀHÀ). Cấm bạn nãi tỳ-dược, tát-phộc hạ (KUMBHÀNDE BHYAH SVÀHÀ). Án, độ lỗ độ lỗ, tát-phộc hạ (OM-Ï DHURU DHURU SVÀHÀ). Án, đổ lỗ đổ lỗ, tát-phộc hạ (OM- TURU TURU SVÀHÀ). Án, mẫu lỗ mẫu lỗ, tát-phộc hạ (OM- MURU MURU SVÀHÀ). Hạ nẵng hạ nẵng tát phộc nột đổ-lỗ nẫm, tát-phộc hạ (HANA HANA SARVA ‘SATRÙNÀM SVÀHÀ). Ná hạ ná hạ tát phộc nột sắt-tra bát-la nột sắt-tra nẫm, tát-phộc hạ (DAHA DAHA SARVA DUSTA PRADUSTANÀM SVÀHÀ). Bát tá bát tá tát phộc bát-la để-dã vẫn ca, bát-la để-dã nhĩ đát-la nẫm (PACA PACA SARVA PRATYARTHIKA PRATYÀMITRANÀM) - Duệ, ma ma, a tứ đế sử noa nhập , đế sam tát phệ sam xả lị lam, nhập-phộc la dã, nột sắt-tra tức đa nẫm, tát-phộc hạ (YE MAMA…. AHITESINA TESAM SARVESÀM ‘SARIRAM JVALÀYA ADUSTA CITTÀNÀM SVÀHÀ). Nhập-phộc lý đá dã, tát-phộc hạ (JVALITÀYA SVÀHÀ Bát-la nhập-phộc lý đá dã, tát-phộc hạ (PRAJVALITÀYA SVÀHÀ). Nễ bả-đa nhập-phộc la dã, tát-phộc hạ (DÌPTA JVALÀYA SVÀHÀ). Tam mãn đa nhâïp-phộc la dã, tát-phộc hạ (SAMANTA JVALÀYA SVÀHÀ). Ma ni bạt nại-la dã, tát-phộc hạ (MANI BHADRÀYA SVÀHÀ). Bố la-noa bả nại-la dã , tát-phộc hạ (PÙRNA BHADRÀYA SVÀHÀ). Ma hạ ca la dã, tát-phộc hạ (MAHÀ KÀLÀYA SVÀHÀ). Ma để-lị nga noa dã, tát-phộc hạ (MATRGANÀYA SVÀHÀ). Dã khất-sử ni nẫm, tát-phộc hạ (YAKSANÌNÀM SVÀHÀ). La khất-sái tỷ nẫm, tát-phộc hạ (RAKSASÌNÀM SVÀHÀ). A ca xả ma để-lị nẫm, tát-phộc hạ (ÀKA’SA MATRNÀM SVÀHÀ). Tam mẫu nại-la phộc tỷ nãnh nẫm, tát-phộc hạ (SAMUDRA VÀSINÌNÀM SVÀHÀ). La để-lị tạt la nẫm, tát-phộc hạ (RÀTR CARÀNÀM SVÀHÀ). Nễ phộc sa tạt la nẫm, tát-phộc hạ (DIVASA CARÀNÀM SVÀHÀ). Để-lị tán đình tạt la nẫm, tát-phộc hạ (TRISANTYA CARÀNÀM SVÀHÀ). Vĩ la tạt la nẫm, tát-phộc hạ (VELA CARÀNÀM SVÀHÀ). A vĩ la tạt la nẫm, tát-phộc hạ (AVELA CARÀNÀM SVÀHÀ). Nghiệt bà hạ lê tỳ-dược, tát-phộc hạ (GARBHA HÀRE BHYAH SVÀHÀ). Nghiệt bà tán đà la ni, tát-phộc hạ (GARBHA SANDHÀRANI SVÀHÀ). Hộ lỗ hộ lỗ, tát-phộc hạ (HULU HULU SVÀHÀ). Án-tát-phộc hạ (OM- SVÀHÀ). Tát-phộc, tát-phộc hạ (SVÀH SVÀHÀ). Bộc, tát-phộc hạ (BHÙH SVÀHÀ). Bộ-phộc, tát-phộc hạ (BHÙVÀH SVÀHÀ). Án- bộ la-bộ phộc sa-phộc, tát-phộc hạ (OM- BHÙRBHÙVÀH SVÀH SVÀHÀ). Tức vi tức vi, tát-phộc hạ (CITI CITI SVÀHÀ). Vĩ vi vĩ vi, tát-phộc hạ (VITI VITI SVÀHÀ). Đà la ni, tát-phộc hạ (DHÀRANÌ SVÀHÀ). Đà la ni, tát-phộc hạ (DHARANI SVÀHÀ). A ngân-nãnh, tát-phộc hạ (AGNI SVÀHÀ). Đế tổ phộc bổ, tát-phộc hạ (TEJO VAPU SVÀHÀ). Tức lý tức lý, tát-phộc hạ (CILI CILI SVÀHÀ). Tất lý tất lý, tát-phộc hạ (SILI SILI SVÀHÀ). Một đình một đình, tát-phộc hạ (BUDDHIM BUDDHIM SVÀHÀ). Tất đình tất đình, tát-phộc hạ (SIDDHIM SIDDHIM SVÀHÀ). Mạn noa la tất đệ, tát-phộc hạ (MANDALA SIDDHE SVÀHÀ). Mạn noa la mãn đệ, tát-phộc hạ (MANDALA BANDHE SVÀHÀ). Tỷ ma mãn đà nãnh, tát-phộc hạ (‘SÌMA BANDHANI SVÀHÀ). Tát phộc thiết đốt-lỗ nẫm tiệm bà tiệm bà, tát-phộc hạ (SARVA ‘SATRÙNÀM JAMBHA JAMBHA SVÀHÀ Sa-chiêm bà dã, sa-chiêm bà dã, tát-phộc hạ (STAMBHÀYA STAMBHÀYA SVÀHÀ). Đổ ná đổ ná, tát-phộc hạ (CCHINDHA CCHINDHA SVÀHÀ). Tẫn ná tẫn ná, tát-phộc hạ (BHINDHA BHINDHA SVÀHÀ). Bạn nhạ bạn nhạ, tát-phộc hạ ( BHANÕJA BHANÕJA SVÀHÀ). Mãn đà mãn đà, tát-phộc hạ (BANDHA BANDHA SVÀHÀ). Mãng hạ dã, mãng hạ dã, tát-phộc hạ (MOHAYA MOHAYA SVÀHÀ). Ma ni vĩ thuấn đệ, tát-phộc hạ (MANI VI’SUDDHE SVÀHÀ). Tố lị-duệ, tố lị-duệ, tố lị-dã vĩ thuấn đệ vĩ thú đà nãnh, sa-phộc hạ (SÙRYE SÙRYE SÙRYA VI’SUDDHE VI’SODHANE SVÀHÀ). Chiến niết-lệ, tố chiến niết-lệ, bố la-noa chiến niết-lệ, tát-phộc hạ (CANDRE SUCANDRA PÙRNA CANDRE SVÀHÀ). Nghiệt-la hệ tỳ-dược, tát-phộc hạ (GRAHE BHYAH SVÀHÀ). Nhược khất-sát để-lệ tỳ-dược, tát-phộc hạ (NAKSATRE BHYAH SVÀHÀ). Thủy phệ, tát-phộc hạ (‘SIVE SVÀHÀ). Phiến để, tát-phộc hạ (‘SÀNTI SVÀHÀ). Tát phộc sa để-dã dã ninh, tát-phộc hạ (SVASTYA YANE SVÀHÀ). Thủy noan yết lị, phiến để yết lị, bổ sắt-trí yết lị. Ma la mạt đạt nãnh, tát-phộc hạ (‘SIVAM KARI - ‘SÀNTI KARI- PUSTI KARI - BALA VARDHANI SVÀHÀ). Thất-lị yết lị, tát-phộc hạ (‘SRÌ KSRI SVÀHÀ). Thất-lị dã (‘SRÌYA) Tát-phộc hạ (SVÀHÀ). Nẵng mẫu thử, tát-phộc hạ (NAMUCI SVÀHÀ). Ma lỗ thử, tát-phộc hạ (MURUCI SVÀHÀ). Phệ nga phộc để, tát-phộc hạ (VEGA VATI SVÀHÀ). Án- Tát phộc đát tha nga đa một đế. Bát-la phộc la vĩ nga đa bà duệ xả ma dã- Tát-phộc minh bà nga phộc để- Tát phộc bá bế tỳ-dụ sa-phộc sa-để bà phộc đổ (OM- SARVA TATHÀGATA MÙRTTE - PRAVARA VIGATA - BHAYE ‘SAMAYA - SVAME BHAGAVATI - SARVA PÀPE BHYAH SVÀSTIRBHAVATU) - Mẫu nãnh mẫu nãnh (MUNI MUNI) - Vĩ mẫu nãnh, tả lê tả la ninh bà dã, vĩ nga đế bà dã hạ la ni (VIMUNI CARE CALANE BHAYA VIGATE BHAYA HÀRANI) - Mạo địa mạo địa (BODHI BODHI) - Mạo đà dã, mạo đà dã (BODHIYA BODHIYA) - Một địa lý, một địa lý (BUDHILI BUDHILI) - Tát phộc đát tha nga đa hột-lý nãi dã túc sắt-lai, tát-phộc hạ (SARVA TATHÀGATA HRDAYA JUSTAI SVÀHÀ) .Án- Phộc nhật-la phộc để, phộc nhật-la bát-la để sắt xỉ đế thuấn đệ (OM- VAJRAVATI VAJRA PRATISTITE ‘SUDDHE) - Đát tha nga đa mẫu nại-la địa sắt-xá nẫm, địa sắt-xỉ đế, tát-phộc hạ (TATHÀGATA MUDRA ADHISTITE SVÀHÀ). Án- Mẫu nãnh mẫu nãnh (OM- MUNI MUNI) - Mẫu nãnh phộc lệ, a tỵ tru tá đổ hàm (MUNI VARE ABHISIMCA TUMAM) - Tát phộc đát tha nghiệt đá, tát phộc vĩ nễ-dã tỵ sái kế (SARVA TATHÀGATA SARVA VIDYA ABHISEKAI) - Ma hạ phộc nhật-la ca phộc tá mẫu nại-la mẫu nại-lị đới (MAHÀ VAJRA KAVACA MUDRA MUDRITEH) - Tát phộc đát tha nga đa khất-lị nãi dạ địa sắt-xỉ đa, phộc nhật-lệ, sa-phộc hạ. (SARVA TATHÀGATA HRDAYA ADHISTITA VAJRE SVÀHÀ).

TÙY CẦU ĐẠI HỘ MINH VƯƠNG ĐẠI TÂM ĐÀ LA NI

(Bản này y theo Bản đời Minh cf.P.626)

Nẵng mô mẫu đà dã (NAMO BUDDHÀYA)

Nẵng mô đạt ma dã (NAMO DHARMÀYA)

Ná mạc Tăng dà dã (NAMAH SAMGHÀYA)

Nẵng mô bà nga phộc đế (NAMO BHAGAVATE) Xá chỉ-dã mẫu nẵng duệ (‘SAKYAMUNAYE)Ma hạ ca lỗ ni ca dã (MAHÀ KARUNIKÀYA)Đát tha nghiệt đá dạ (TATHÀGATÀYA)La-hạ đế . Tam muội tam mẫu đà dã (ARHATE SAMYAKSAMBUDDHÀYA)Ná mạc táp đáp Tỳ-dược Tam miệu tam một đề tỳ-dược (NAMAH SAPTA BHYAH SAMYAKSAMBUDDHE BHYAH) Ê sam ná mạc sa cật-lị đát-phộc (ESÀM NAMAH SKRTVÀ)Mẫu đà xá sa nẵng vật-lã đà duệ (BUDDHA ‘SASANA VRDHAYE)A hạ A ná nãnh-dần (AHAM ADÀNYÀM)Bát-la phộc khất-sái mính (PRAVAKSA ME)Tát phộc tát đát-phộc nỗ kiến bả dạ (SARVA SATVA ANUKAMPAYÀ)I hàm vĩ niệm ma hạ đế cữu (IMÀM VIDYA MAHÀ TEJÌ)Ma hạ ma la bả la cật-la Hàm (MAHÀ MALA PARÀKRAMÀM) Duệ xiêm bà sử đam ma tị đát-la diễm (YE SYAM BHASITAM MÀTRÀYAM)Phộc nhật-la sa nẵng ma nãnh sử lị (VAJRÀSANA MANI SIRI)Ngật-la hạ Tát phộc vĩ nẵng dã ca (GRAHA SARVA VINÀYAKA)Thất-chế tát đát đắc-vĩ-sái noa vĩ la dựng nghiệt đá (‘SCA VATA KSANA VÌRAYAM GATA)Đát nễ dã tha (TADYATHÀ) :

Nghĩ lị, nghĩ lị, nghĩ lị ni (GÌRI GÌRI GÌRINI)Nghĩ lị phộc để (GIRI VATI)Ngu noa phộc để (GUNA VATI)A ca xả phộc để (ÀKÀ’SA VATI)A ca xả la truật đệ Bá bả vĩ nga đế (ÀKÀ’SA ‘SUDDHE PÀPA VIGATE)A ca phế nga nga nẵng đát lê (ÀKÀ’SE GAGANA TALE)A ca xả vĩ tá lị ni (ÀKÀ’SA VICÀRINI)Nhập-phộc lý đa thất-lê (JVALITA ‘SIRE)Ma ni mục cật-để khư, tức đa mạo lý đà lê (MANI MUKTI KHA CITTA BOLI DHARE) Tô kế thế (SUKE’SE)Tô phộc cật đát lê (SUVAKTRÌ)Tô mật đát lê (SUNÌTRÌ)Tô vật la-noa mạo lý (SUVARNA BOLI)A để đế, A noa đáp-bán ninh, ma nẵng nghiệt đế (ATÌTE ANÀTMAMNI MANA GATE)Bát la để-luật đáp-bán ninh (PRATYUTMAMNI)Nẵng mô tát phệ sam mẫu đà nam (NAMO SARVESÀM BUDDHÀNÀM)Nhập-phộc lý đa đế nhạ tam mẫu đệ (JVALITA TEJA SAMBUDDHE)Tố mẫu đệ (SUBUDDHE) Bà nga phộc để (BHAGAVATE)Tố la khất-sái ni (SURA KSANI)Tố khất-sái mính (SUKSA ME)Tố bát-la bệ (SUPRABHE)Tố ná mính (SUDAME) Tố nam đế (SUNÀMTE)Ca lê (CALE)Bà nga phộc để (BHAGAVATE)Bạt nại-la Phộc-để (BHADRA VATI)Bạt nại-lê (BHADRE)Tố bạt nại-lê (SUBHADRE)Vĩ ma lê nhạ dã bạt nại lê (VIMALE JAYA BHADRE)Bát-la tán noa tán nị (PRACANDA CANDI)Phộc nhật-la tán nị (VAJRA CANDI)Ma hạ tán nị (MAHÀ CANDI) Kiểu lị (GAURI)Hiến đà lị (GANDHÀRI)Lai lý tán noa lý (CERI CANDALI)Ma đặng nghĩ (MATANÕGI)Phú yết tư xả phộc lị nại-la nhĩ lị (PUKASI ‘SAVARI DRAMINDI)Lao nại-lị ni (RAUDRINI)Tát phộc la-tha sa đà nãnh (SARVÀRTHA SÀDHANE)Hạ nẵng Hạ nẵng (HANA HANA)Tát phộc thiết đốt-lỗ nẫm, nhược hạ nhược hạ (SARVA ‘SATRÙNÀM DAHA DAHA)Tát phộc nột sắt-tra nam (SARVA DUSTANÀM)Tất-lệ đa, Tỳ xá tả noa chỉ nãnh nam (PRETA PI’SACA DAKININÀM)Ma nỗ sái ma nỗ sái nẫm (MANUSYA AMANUSYANÀM)Bả tả Bả tả (PACA PACA)Hột-lị nãi diêm, vĩ đà-võng sa dã nhĩ vĩ đam (HRDAYAM VIDHVAM ‘SAYA JÌVITAM)Tát phộc nột sắt-tra ngật-la hạ nẫm (SARVA DUSTA GRAHANÀM)Nẵng xả dã, nẵng xả dã (NÀ’SAYA NÀ’SAYA)Tát phộc bá bả nãnh mính la khất-sái la khất-sái Hàm (SARVA PÀPA NIME RAKSA RAKSA MÀM)Tát phộc tát đát-phộc nam tả (SAVA SATVÀNÀM CA)Tát phộc bà dữu bát nại-la phệ Tỳ-dược (SARVA BHAYOPADRAVE BHYAH)Tát phộc nột sắt-tra nam mãn đà năng củ lỗ (SARVA DUSTANÀM BANDHANAM KURU)Tát phộc chỉ lý-vĩ sái nẵng xả nãnh (SARVA KILISA NÀ’SANI)Mạt đa nam nị ma nãnh nãnh tả lê để trí để trí nãnh (MÀTA NANDI MÀNINI CALE TITI TITINI)Đốt tại cụ la ni vị la ni (TUTAI GHORANI VÌRANI)Bát-la vạt la Tam ma lê (PRAVAVA SAMMALE )Tán noa lý (CANDARI)Ma đăng kỳ (MATANÕGI)Vạt tạt tư tố lỗ phó yết tư xả phộc lý hướng ca lị nạo-la vĩ lị (VACASI SURU PUKASI ‘SAVARI ‘SAMKARI DRAVANDI)Nhược hạ nãnh bả tả nãnh mạt ná nãnh (DAHANI PACANI MADANI)Tát la la, tát la lê (SARALA SARALE)Tát la lãm bệ tứ nẵng (SARALAMBHE HÌNA)Mạt địa-dữu đắc-cật-lị sắt-tra (MADHYOKRSTA) Vĩ ná lị ni (VIDÀRINI)Vĩ đà lị ni (VIDHÀRINI)Ma tứ lý (MAHÌLI)Ma hộ ma hộ lý nãnh (MAHO MAHO LINI)Tát nãi nãnh Tát noa bạn Tễ (GANENI GANA PACE)Mãõn đế mãn để nãnh (VATI VATINI)Mãn đế chước cật-la phộc chỉ nãnh (VATI CAKRA VASINI)Nhạ lê tổ lê (JALE CULE)Xả phộc lị xả ma lị xả phộc lị (‘SAVARI ‘SAMARI ‘SADHARI)Tát phộc nhĩ -dã địa hạ la ni (SARVA VYADHI HARANI)Tổ nị tổ nị nãnh (CONDI CONDINI)Nãnh nhĩ nãnh nhĩ (NIMI NIMI) Nãnh mẫn đà lị để lị lộ ca nhạ hạ nãnh (NIMIM DHARI TRILOKA JAHANI)Đệ-lị lộ ca lộ ca yết lị (TRILOKA LOKA KARI)Đát-lạt đà đổ ca nhĩ-dã phộc lộ chỉ nãnh (TRAIDHÀTUKA VYAVALOKINI)Phộc nhật-la bả la thú bá xả Khát nga chước cật-la để lị thú la đá ma ni (VAJRA PRA’SÙ PÀ’SA KHANÕGA CAKRA TRI’SÙLA CINTAMANI)Ma hạ vĩ nễ-dã đà la ni (MAHÀ VIDYA DHÀRANI)La khất-sái la khất-sái Hàm Ma ma tát phộc tát đát-phộc nam tả (RAKSA RAKSA MÀM MAMA SARVA SARVÀNÀM CA)Tát phộc tát-la Tất phộc sa-tha nẵng nghiệt đát tả (SARVATRÀ SARVA STHANA GATASYA)Tát phộc nột sắt-tra bà duệ Tỳ-dược (SARVA DUSTA BHAYE BHYAH)Tát phộc ma nỗ sái, ma nỗ sái bà duệ Tỳ-dược (SARVA MANUSYA AMANUSYA BHAYE BHYAH)Tát phộc vĩ-dã địa Tỳ-dược (SARVA VYADHI BHYAH)Phộc nhật-lê phộc nhật-la phộc để (VAJRE VAJRAVATI)Phộc nhật-la bá ni đà lê (VAJRAPÀNI DHÀRE)Tứ lý tứ lý (HILI HILI)Nhĩ lý nhĩ lý (MILI MILI)Tức lị tức lị (CILI CILI)Tất lý tất lý (SILI SILI)Phộc la phộc la phộc la nễ (VARA VARA VARANI)Tát phộc đát-la nhạ dã Lạp đệ Sa-phộc hạ (SARVATRÀ JAYA LAMÏVI SVÀHÀ)Bá bả vĩ ná la ni (PÀPA VIDÀRANI)Tất phộc nhĩ-dã địa hạ la ni Sa-phộc hạ (SARVA VYADHI HARANI SVÀHÀ)Tát phộc đát-la bà dã, hạ la ni Sa-phộc hạ (SARVATRÀ BHAYA HARANI SVÀHÀ)Sa-phộc Sa-để bà phộc đô ma ma (……) Sa-phộc hạ (SVASTIRBHAVATU MAMA…. SVAHA)Phiến để Sa-phộc hạ (‘SÀNTI SVÀHÀ)Bổ sắt-trí Sa-phộc hạ (PUSTI SVÀHÀ)Nhạ dã đô nhạ duệ nhạ dã phộïc để (JAYA TUJAYE JAYAVATI)Nhạ dã vĩ bổ la vĩ ma lê Sa-phộc hạ (JAYA VIPULA VIMALE SVÀHÀ)Tát phộc đát tha nghiệt đa, địa sắt-xá nẵng bố la-để Sa-phộc hạ (SARVA TATHÀGATA ADHISTANA PURTI SVÀHÀ) ÁN - Bộ lị, bộ lị Phộc nhật la phộc để (OM- BHURI BHURI VAJRAVATI)Đát tha nghiệt đa hột lị nãi dã Bố la ni Tán đà la ni (TATHÀGATA HRDAYA PURANI SANDHARANI) Mạt la mạt la nhạ dã vĩ nễ-duệ Hồng Hồng Phát Tra, Phát Tra Sa-phộc hạ (BALA BALA JAYA VIDYE HÙM HÙM PHAT PHAT SVÀHÀ) .

22/09/1998

PHẬT THUYẾT KINH THẦN CHÚ TÙY CẦU TỨC ĐẮC ĐẠI TỰ TẠI ĐÀ LA NI

Mật Tạng Bộ 3 No.1154 (Tr.637 - Tr.644)

Đời Đường, Nước Ca Thấp Di La thuộc Bắc Ấn Độ, Tam Tạng Pháp Sư Bảo Tư Duy ở Chùa Thiên Cung dịch Phạn ra Hán

Việt Dịch : Huyền Thanh

Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Bạc Già Phạm ngự tại núi Kỳ Xà Quật, ở Đại thành Vương Xá cùng với các đệ tử dự hội nói Pháp.

Bấy giờ, có vị Thiên Vương Đại Phạm là Chủ của thế giới Ta-bà đến chỗ Phật ngự, nhiễu quanh bên phải 3 vòng, đảnh lễ dưới chân Đức Phật, chắp tay hướng về Đức Phật, rồi bạch rằng: "Nguyện xin Đức Thế Tôn vì lợi ích cho chúng sanh nói Thần chú Đà La Ni, khiến cho khắp cả Trời người được an vui”.

Đức Phật bảo: “Lành thay! Lành thay! Thiên Vương Đại Phạm! Ông hay thương xót tất cả chúng sanh mà hỏi về các việc lợi ich. Ông hãy khéo suy nghĩ, Ta sẽ vì ông mà phân biệt, diễn nói Thần Chú Đà La Ni Tùy Cầu Tức Đắc Đại Tự Tại này, hay ban cho tất cả chúng sanh sự an vui tối thắng, chẳng bị tất cả Dạ xoa, La sát và các bệnh điên loạn, quỷ đói, quỷ Tắc Kiến Đà, các hàng quỷ thần gây não hại; cũng chẳng bị bệnh nóng lạnh xâm tổn. Nơi cư ngụ luôn luôn được thù thắng, chẳng bị sự xâm hại về đấu chiến oán thù, lại hay đập tan kẻ địch, chú trớ yểm đảo chẳng có thể làm hại. Tội của nghiệp trước đều tiêu trừ Các độc không thể hại, lửa chẳng thể thiêu đốt, đao chẳng thể gây thương tích, nước chẳng thể cuốn chìm hoặc không bị sấm sét (Lôi điển, phích lịch), gió ác, mưa bão không đúng thời gây tổn hại .

Nếu có người thọ trì Thần chú này thì nơi ở thường được thù thắng. Nếu có thể viết chép Thần chú rồi đeo trên cổ hoặc cột trên cánh tay, thì người đó hay thành tất cả việc thanh tịnh tối thượng. Thường được Chư Thiên, Long Vương ủng hộ. Lại được Chư Phật, Bồ Tát hộ niệm. Kim Cang Mật Tích, Bốn Đại Thiên Vương, Thiên Đế Thích, Đại Phạm Thiên Vương, Tỳ Nữu Thiên, Đại Tự Tại Thiên, Câu Ma La Quân Chúng, Tỳ Na Dạ Ca, Đại Hắc Thiên, Nan Đề Kê Thuyết Thiên v.v...ngày đêm thường theo ủng hộ người trì chú này.

Lại được Ma Đế Kiến NoaThiên chúng với các Thiên Thần chúng Tự Tại khác cũng theo ủng hộ. Lại được Chư Ma Thiên chúng cùng các quyến thuộc, chư Thần có đại uy đức của Thần chú là: Thần Ương Câu Thi, Thần Bạt Chiết La, Thần Thương Yết La, Thần Ma Mạc Kê, Thần Tỳ Câu Tri, Thần Đa La, Thần Ma Ha Ca La, Thần Bộ Đa, Thần Chước Yết La Ba Ni, Thần Đại Lực, Thần Trường Thọ Thiên, Thần Ma Ha Đề Tỳ, Thần Ca La Yết Ni, Thần Hoa Xỉ, Thần Ma Ni Châu Kế, Thần Kim Kế, Thần Tân Nghiệt La La Khí, Thần Điển Man, Thần Ca La La Lợi, Thần Tỳ Câu, Thần Kiên Lao Địa, Thần Ô Đà Kế Thi, Thần Thập Phiệt Lật Đa Na Na, Thần Đại Nộ, Thần Chấp Kiếm, Thần Ma Ni Quang, Thần Xà Tri Ni, Thần Nhất Xà Tra, Thần Phất Đà La Ba Lợi Ni, Thần Lăng Kê Thuyết cùng với vô lượng Chư Thiên Thần khác; các Thiên chúng đó đều đến ủng hộ.

Nếu Thần Chú này được đeo trên thân, tay thì Quỷ Tử Phụ Mẫu, Thần Ma Ni Bạt Đà, Lực Thiên, Đại Lực Thiên, Thần Thắng Khí Ni, Thần Câu Tra Đàn Để, Công Đức Thiên, Đại Biện Thiên v.v...luôn luôn đi theo ủng hộ.

Nếu có người nữ nào thọ trì Thần Chú này, sẽ có thế lực lớn, thường sanh con quý. Lúc thọ thai, thì thai sẽ được an ổn, khi sanh sản được an vui, không có các bệnh tật, mọi tội tiêu trừ, quyết định không nghi.

Do oai lực phước đức mà tiền của, lúa gạo được tăng trưởng. Lời nói ra khiến cho người tin nhận, thường được tất cả mọi điều cung kính, nên phải khiết tĩnh. Nếu có người nam, người nữ, đồng nam, đồng nữ trì chú này sẽ được an vui, không có bệnh tật, mọi tội tiêu trừ, sắc tướng đẹp đẽ mạnh khoẻ, viên mãn kiết tường, tăng trưởng phước đức.

Người đeo chú này, tuy chưa vào Đàn liền thành. Người đã vào tất cả Đàn, cùng đồng hạnh với người đã vào Đàn, chẳng bị ác mộng, tội nặng tiêu trừ. Nếu có kẻ khởi tâm ác hướng đến, thì chẳng thể làm hại người trì chú này được. Tất cả lạc dục mong cầu đều được thành tựu".

Bấy giờ , Đức Thế Tôn liền nói chú rằng:

- Na mâu tát bà đát tha nghiệt đa nẵng. Na mâu bột đà đạt ma tăng chi biều. Án- Tỳ bổ la nghiệt bệ. Tỳ mạt lê xà gia nghiệt bệ. Phiệt chiết la thời phạ la nghiệt bệ. Nghiệt để già ha nê. Già già na tỳ du đạt nê. Tát bà bả ba tỳ du đạt nê.

Án- Cù noa bạt để. Già già lị ni. Kỳ lị kỳ lị. Già mạt Lị Già ha già ha. Già nghiệt lị già nghiệt lị. Già già lị, Già già lị Kiềm bà lị, Kiềm bà lị. Nghiệt để, nghiệt để. Già mạt nê già lị. Cù lô cù lô, Cù lô ni. Chiết lệ chiết lệ, mâu chiết lệ. Thệ duệ, tỳ thệ duệ. Tát bà bà gia tỳ nghiệt để. Nghiệt bà tam bà la ni Bỉ lị tỷ lị. Dĩ lị dĩ lị. Tam mạn đa ca lị sa ni. Thiết đổ tăng bát la mạt tha nễ. Lạc xoa lạc xoa ma ma (Tôi tên là….) tả. Tỳ lị tỳ lị. Tỳ nghiệt đa phiệt la ni. Bà gia bà xả tô lị tô lị. Chất lý ca mạt lệ. Thị duệ. Thị gia bà hê. Thị gia bà để. Bà già bạt để. Hạt la đát na ma câu tra ma la đạt lị. Tỳ chất đa la bệ sa ba đà lị ni. Bà già bạt để tất địa gia đệ tỳ. Lạc xoa đô ma (Tôi tên là ….) tả. Tam mạn đa ca la tỳ du đạt nễ. Hô lô hô lô. Nhược sát đát tả ma la đà lị ni. Chiên noa chiên noa chiên ni. Bệ già bạt đế. Tát bà đột sắt tra nễ bà la ni. Thiết đốt lỗ bát xoa bát loa mạt tha nễ. Tỳ xà gia bà tứ. Hổ lô hổ lô. Mẫu lô mẫu lô. Chu lô chu lô. A dữu ba thư nễ. Tô la bà la ma thát nễ. Tát bà đề bà đa bổ thị để. Địa lị địa lị. Tam mạn đa bà lô cát đế. Bát la bệ. Tô bát la bà du nễ. Tát bà bả ba tỳ du đạt nễ. Đà la đà la đà la ni. Bạt la đà lệ. Tô mẫu tô. Tô mẫu lô chiết lệ. Chiết lệ giá la gia đột sắt tra. Bộ la gia a thưởng. Thi li bà bô đà la chiết gia ca mạt lệ. Khí sử ni khí sử ni. Tát bà đề ba đa bà la đà tả câu thí. Án- Bát đặc ma tỳ du đề. Du đạt nễ du đề. Bà la bà la. Tỳ lị tỳ lị. Bộ lô bộ lô. Mãng ngải la nhiếp bật đề. Bạt bậc đa la mục. Khương ca lị. Khư la khư la. Thời phạ lật đa thất lệ. Tam mạn đa bát la tát lị đa bà bà chí đa du đề. Thời phạ la thời phạ la. Tát bà đề bà đề noa tam ma yết lị sa ni. Tát để gia phiệt để. Đát la đát la. Na già tỳ lô yết nễ. La hô la hô Hô nỗ hô nỗ. Sát ni sát ni. Tát bà nghiệt la ha bạc sát ni. Thỉ nghiệt la thỉ nghiệt la. Chu mẫu chu mẫu, tô mẫu tô mẫu. Tỳ

chiết lệ. Đát la đát la . Đa la gia đổ ma (Tôi tên là….) tả. Ma ha bội gia. Tam mâu đạt la, sa già la, bát lị diễn đa, ba đa la, già già na. Sa man để na. Bạt chiết la thời phạ la tỳ du đạt nễ.

Bộ lị bộ lị. Nghiệt bà phiệt để nghiệt bà tỳ du đạt nễ. Câu khí sử tam bộ la ni. Xà la giá la xà lật nễ. Bát la phiệt lị sa đổ đề bà sa mạn đế na. Điệt tỳ dụ đà kế na. A mật lật đa phiệt lị sa ni. Đề ba đa bà đa lật ni. A tỳ tru giá đổ mê. A mật lật đa bạt la bà bộ sái. Lạc xoa, lạc xoa ma ma (Tôi tên là…) tả. Tát bà đát la. Tát bà đà. Tát bà bà duệ biều. Tát bồ ô ba đạt la bệ biều. Tát bồ ô bát tát kỳ biều. Tát bà đột sắt tra bà duệ tỳ đát tả. Tát bà yết lị yết la ha. Tỳ yết la ha tỳ bà đà. Đột táp phạp bát na. Đột lật nễ mật đa, a mãng ngải lược dạ. Bả ba tỳ na thiết nễ. Tát bà dược phu la sát sa nễ bà la ni. Sa la ni tát lệ. Bà la bà la. Bà la bạt để. Xà gia xà gia đổ ma (Tôi tên là….) tả. Tát bà đát la. Tát bà ca lam. Tất đoạn đổ bật địa gia sa đà gia. Tát bà mạn trà la sa đạt nễ. Xà gia tất đề. Tất đề, tô tất đề. Tất đà gia tất đà gia. Bột địa gia, bột địa gia. Bô la ni, bô la ni. Tát bà bật địa gia địa nghiệt đá mẫu lật đê. Xà du đát lệ xà gia bạt để. Sắt xá để. Để sắt xá để sắt xa. Tam muội gia ma nỗ ba lại gia. Đát tha nghiệt đa du đề. Tỳ gia bà lô ca gia đô ma (Tôi tên là….) tả. A sắt tra bật hiệt lam , ma ha bà gia đà lỗ ni. Tát la tát la. Bát la tát la, bát la tát la. Tát bà phiệt la noa tỳ du đạt nễ. Tam mạn đa ca la man trà la du đề. Tỳ nghiệt đê, tỳ nghiệt đê. Tỳ nghiệt đa mạt lê du đạt nễ. Khí sử ni, khí sử ni. Tát bà bạt ba tỳ du đề. Mạt la tỳ du đề. Đế xà bạt để, bạt chiết la bạt để. Đề lệ lô chỉ gia địa sắt xỉ để, sa ha. Tát bà đát tha nghiệt đa mẫu la đà tỳ sắc ngật để, sa ha. La bà bồ đề tát đỏa, tỳ sắc ngật để, sa ha. Tát bà đề bà đa, tỳ sắc ngật đề, sa ha. Tát bà đát tha nghiệt đa hiệt lật đà lệ, địa sắt xỉ để, sa ha. Tát bà đát tha nghiệt đa tam muội gia tất đệ, sa ha. Ấn điệt lệ, ấn đà la bạt để, ấn đà la tỳ gia bà lô cát để, sa ha. Bột la ế mê, bột la ế mê, bột la ha ma địa du sắt để, sa ha. Tỷ sắt nỗ na ma tất cát lật để, sa ha. Ma hê thấp phộc la na ma tất cát lật để, sa ha. Bạt chiết la đà la , bạt chiết la ba ni, bà la tỳ lê gia, địa sắt xỉ để, sa ha. Tiểu lị để la sắt tra la gia, sa ha. Tỳ lô trà ca gia, sa ha. Tỳ lô ba xoa gia, sa ha. Bùi thất la mãn noa gia, sa ha Chiết đốt lặc ma ha la xà, na ma tất cát lật đa gia, sa ha. Bà lỗ noa gia, sa ha. Na già tỳ lô chỉ đa gia, sa ha. Đề bà nghiệt nãi biều, sa ha. Na già nghiệt nãi biều, sa ha. Dược xoa nghiệt nãi biều, sa ha. Kiện đạt bà nghiệt nãi biều, sa ha. A tô la nghiệt nãi biều, sa ha. Già lỗ trà nghiệt nãi biều, sa ha. Khẩn na la nghiệt nãi biều, sa ha. Ma hô la già nghiệt nãi biều, sa ha. Hạt la sát sa nghiệt nãi biều, sa ha. Ma nỗ sái biều, sa ha. A ma nỗ sái biều, sa ha. Tát bà già lạc hê biều , sa ha. Tát bà bộ để biều, sa ha. Bế lệ để duệ biều, sa ha. Tất xá chế biều, sa ha. Aùng ba tát ba lệ biều, sa ha. Cát lý nãi biều, sa ha. Án- Độ lô độ lô, sa ha. Đổ lô đổ lô, sa ha. Mâu lô mâu lô, sa ha. Ha na tát bà thiết đổ lỗ ấp ma ma tả, sa ha. Đà ha đà ha tát bà đột sắt tra, bát la đột sắt tra, ma ma (Tôi tên là…) tả, sa ha. Bát già bát già tát bà bát la để gia thiết ca, bát la để gia mật đa la, ma ma (Tôi tên là….) tả, sa ha. Thời phạ lật đa gia, sa ha. Bát la thời phạ lật đa gia, sa ha. Địa bát đa thời phạ la gia, sa ha. Tam mạn đa bát la thời phạ lật đa gia, sa ha. Ma ni bạt đạt la gia, sa ha. Bố lật noa bạt đà la gia, sa ha. Ma ha ca la gia, sa ha. Ma để lị già noa gia, sa ha. Dược khất sử ni ấp , sa ha. Hạt la sát tư ấp, sa ha. A ca xa ma để ấp, sa ha. Tam mãn đạt la nễ bà tất nễ ấp, sa ha. Hạt la để lị chiết lam , sa ha. Địa bà sa chiết lam, sa ha. Để lị tán địa gia chiết lam, sa ha. Bệ la chiết lam, sa ha. A bệ la chiết lam, sa ha. Hạt bà chiết lệ biều, sa ha. Hạt bà tán đà la ni, hô lô hô lô, sa ha. Án, sa ha. Tát bà, sa ha. Bộ phiệt, sa ha. Bộ lỗ bộ phiệt, sa ha. Chất tán chất tán, sa ha. Phí tán phí tán, sa ha. Đà la ni, sa ha. Đà la ni, sa ha. Ác kỳ nễ, sa ha. Đế thù bà bố, sa ha. Chỉ lý chỉ lý, sa ha. Tỷ lý tỷ lý, sa ha. Bột địa gia, bột địa gia, sa ha. Mạn trà la tất địa duệ, sa ha. Mạn trà la bạn đà duệ, sa ha. Tư ma bạn đạt ni, sa ha. Chiêm bà chiêm bà, sa ha. Tất đam bà, tất đam bà, sa ha. Sân đà, sân đà, sa ha. Tần đà tần đà, sa ha. Bạn đà bạn đà, sa ha. Mâu hối già mâu hối già, sa ha. Ma ni tỳ dụ đề, sa ha. Tố lật duệ, tố lật duệ, tô lị gia, tỳ dụ đề, sa ha. Chiến điệt lệ, tô chiến điệt lệ, bố lật noa chiến điệt lệ, sa ha. Nhạ sát đa la gia, sa ha. Thất phệ, sa ha. Phiến để duệ, sa ha. Tô phạ tất để dã , dã nễ, sa ha. Thi phạm yết lị, phiến để yết lị, bố sắt trí bạt lạt đà nễ, sa ha. Thất lị yết lệ, sa ha. Thất lị gia bạt lị đà nễ, sa ha. Thất lị gia thời phạ la nễ, sa ha. Na mâu chi, sa ha. Ma lỗ chi, sa ha . Bệ già phiệt để, sa ha.

* Bản Phạn:

NAMAH SARVA TATHÀGATÀNÀM. NAMO BUDDHA DHARMA SAMGHE BHYAH. OM- VIPULA GARBHE, VIMALE JAYA GARBHE, VAJRA JVALA GARBHE, GATI GAHANE, GAGANA VI’SODHANE, SARVA PÀPA VI’SODHANE. OM- GUNA VATI, GAGARINI, GIRI GIRI, GAMÀRI, GAHA GAHA, GARGÀRI GARGÀRI, GAGARI GAGARI, GAMBHARI GAMBHARI, GATI GATI, GAMARI GARE, GÙRU GÙRU GÙRUNE, CALE ACALE MUCALE, JAYE VIJAYE, SARVA BHAYA VIGATE, GARBHA SAMBHARANI, SIRI SIRI, MIRI MIRI, SAMANTA AKARSANI, ‘SATRÙNÀM PRAMATHANI, RAKSA RAKSA MAMA SYA, VIRI VIRI, VIGATA AVARANI, BHAYA PÀ’SA SURI SURI, CILI KAMALE JAYE JAYA VAHE JAYA VATI BHAGAVATI RATNA MAKUTA MÀLÀ DHÀRI VICITRA VESA RÙPA DHÀRINI BHAGAVATI VIDYA DEVI RAKSA TUMAM SYA SAMANTA KARA VI’SODHANE HURU HURU NAKSATRA MÀLÀ DHÀRINI CANDA CANDA CANDI VEGA VATI SARVA DUSTA NIVARANI ‘SATRÙ PAKSA PRAMATHANI VIJAYA VÀHINI HURU HURU MURU MURU CURU CURU AYUH PÀLANI SURA VARA MATHANI SARVA DEVATA PÙJITE DHIRI DHIRI SAMANTA AVALOKITE PRABHE SUPRABHA ‘SUDDHE SARVA PÀPA VI’SODHANE DHARA DHARA DHARANI VARA DHARE SUMURU SUMURU CALE CALE CALÀYA DUSTA PÙRAYA À’SAM ‘SRI VAPUDHARA JAYA KAMALE KSINI KSINI SARVA DEVATA VARADA ANÕKU’SE. OM- PADMA VI’SUDDHE ‘SUDDHANI ‘SUDDHE BHARA BHARA BHIRI BHIRI BHURU BHURU MAMGALA VI’SUUDHE PAVITRA MUH KHANÕGARI KHARA KHARA JVALITA ‘SIRE SAMANTA PRASARITA VABHASITA ‘SUDDHE JVALA JVALA SARVA DEVAGANA SAMA AKARSANI SATYA VATI TARA TARA NÀGAVILOKINI LAHU LAHU HUNU HUNU KSINI KSINI SARVA GRAHA BHAKSANI PIMGALA PIMGALA CUMU CUMU SUMU SUMU VICALE TARA TARA TÀRÀYA TUMAM SYA MAHÀ BHAYA SAMUDRA SÀGARA PRATYANTÀM PÀTÀLA GAGANA SAMANTENA VAJRA JVALA VI’SODHANE BHURI BHURI GARBHAVATI GARBHA VI’SODHANE KUKSI SAPÙRANI CALA CALA JVALINI PRAVASATU DEVA SAMANTENA DIDHYODAKENA AMRTA VARSANI DEVA DEVA DHÀRINI ABHISIMCA TUME AMRTA VARA VAPUSPE RAKSA RAKSA MAMA SYA SARVATRÀ SARVADÀ SARVA BHAYE BHYAH SARVA UPADRAVE BHYAH SARVA UPASARGE BHYAH SARVA DUSTA BHAYE BHÌTA SYA SARVA KÀLI KALAHÀ VIGRAHA VIVÀDA DUHSVAPNÀM DURNI MINTA AMAMGALLYA PÀPA VINA’SANI SARVA YAKSA RAKSASA NIVARANI SARANI SARE BALA BALA BALAVATI JAYA JAYA TUMAM SYA SARVATRÀ SARVA KÀRAM SIDDHYAM TUME VIDYA SÀDHAYA SARVA MANDALA SÀDHANI JAYA SIDDHE SIDDHE SUSIDDHE SIDDHYA SIDDHYA BUDDHYA BUDDHYA PÙRANI PÙRANI SARVA VIDYA ADHIGATA MÙRTTE JAYOTTARI JAYAVATI STHATI TISTAù TISTA SAMAYAM ANUPÀLAYA TATHÀGATA ‘SUDDHE VYAVALOKAYA TUMAM SYA ASTA BHIRIRAM MAHÀ BHAYA DÀRUNI SARA SARA PRASARA PRASARA SARVA AVARANA VI’SODHANE SAMANTA KÀRA MANDALA ‘SUDDHE VIGATE VIGATE VIGATA MALE ‘SODHANE KSINI KSINI SARVA PÀPA VI’SUDDHE MARA VIGATE TEJAVATI VAJRAVATI TRAILOKYA ADHISTITE SVÀHÀ SARVA TATHÀGATA MURDDHA ABHISIKTE SVÀHA.Ø SARVA BODHISATVA ABHISIKTE SVÀHÀ. SARVA DEVATA ABHISIKTE SVÀHÀ. SARVA TATHÀGATA HRDAYE ADHISTITE SVÀHÀ. SARVA TATHÀGATA SAMAYA SIDDHE SVÀHÀ. INDRE INDRAVATI INDRAVYAVALOKITE SVÀHÀ. BRAHME BRAHME BRAHMA ADHYUSTE SVÀHÀ. VISNU NAMASKRTE SVÀHÀ. MAHE’SVARA NAMASKRTE SVÀHÀ. VAJRADHÀRA VAJRAPÀNI BALA VÌRYA ADHISTITE SVÀHÀ. DHRTARÀSTRÀYA SVÀHÀ. VIRÙDHAKÀYA SVÀHÀ. VIRÙPÀKSAYA SVÀHÀ. VAI’SRAVANÀYA SVÀHÀ. CATUR MAHÀ RÀJA NAMASKRTÀYA SVÀHÀ. VARUNÀYA SVÀHÀ. NÀGAVILOKITÀYA SVÀHÀ. DEVAGANE BHYAH SVÀHÀ. NÀGAGANE BHYAH SVÀHÀ. YAKSAGANE BHYAH SVÀHÀ. GANDHRVAGANE BHYAH SVÀHÀ. ASURAGANE BHYAH SVÀHÀ. GURUDAGANE BHYAH SVÀHÀ. KINNARAGANE BHYAH SVÀHÀ. MAHORAGAGANE BHYAH SVÀHÀ. RÀKSASAGANE BHYAH SVÀHÀ. MUNUSYE BHYAH SVÀHÀ. AMANUSYE BHYAH SVÀHÀ. SARVA GRAHE BHYAH SVÀHÀ. SARVA BHÙTE BHYAH SVÀHÀ. PRETE BHYAH SVÀHÀ. PI’SACE BHYAH SVÀHÀ. APASMARE BHYAH SVÀHÀ. KUMBHÀNE BHYAH SVÀHÀ. TURU TURU SVÀHÀ. OM- DHURU DHURU SVÀHÀ. MURU MURU SVÀHÀ. HANA SARVA ‘SATRÙNÀM MAMA SÏYA SVÀHÀ. DAHA DAHA SARVA DUSTA PRADUSTA MAMA SYA SVÀHÀ. PACA PACA SARVA PRATYARTHIKA PRATYÀMITRA MAMA SYA SVÀHÀ. JVALITÀYA SVÀHÀ. PRAJVALITÀYA SVÀHÀ. DÌPTA JVALÀYA SVÀHÀ. SAMANTA PRAJVALITÀYA SVÀHÀ. MANBHADRÀYA SVÀHÀ. PÙRNABHADRÀYA SVÀHÀ. MAHÀ KÀLÀYA SVÀHÀ. MATRGANÀYA SVÀHÀ. YAKSINÌNÀM SVÀHÀ. RAKSASÌNÀM SVÀHÀ. ÀKA’SA MATRNÀM SVÀHÀ. SAMUDRA NIVÀSINÌNÀM SVÀHÀ. RÀTR CARÀNÀM SVÀHÀ. DIVASA CARÀNÀM SVÀHÀ. TRISANTYA CARÀNÀM SVÀHÀ. VELA CARÀNÀM SVÀHÀ. AVELA CARÀNÀM SVÀHÀ. GARBHA HÀRE BHYAH SVÀHÀ. GARBHA SANDHÀRANI HULU HULU SVÀHÀ. OM- SVÀHÀ. SVÀH SVÀHÀ. BHÙH SVÀHÀ. BHÙRBHÙH SVÀHÀ. CITI CITI SVÀHÀ. VITI VITI SVÀHÀ. DHÀRANÌ SVÀHÀ. DHARANI SVÀHÀ. AGNI SVÀHÀ. TEJO VAPU SVÀHÀ. CILI CILI SVÀHÀ. SILI SILI SVÀHÀ. BUDDHYA BUDDHYA SVÀHÀ. MANDALA SIDDHYE SVÀHÀ. MANDALA BANDHAYE SVÀHÀ. ‘SÌMA BANDHANI SVÀHÀ. JAMBHA JAMBHA SVÀHÀ. STAMBHA STAMBHA SVÀHÀ. CCHINDHA CCHINDHA SVÀHÀ. BHINDHA BHINDHA SVÀHÀ. BANDHA BANDHA SVÀHÀ. MOHAYA MOHAYA SVÀHÀ. MANI ‘SUDDHE SVÀHÀ. SÙRYE SÙRYE SÙRYA VI’SUDDHE SVÀHÀ. CANDRE SUCANDRE PÙRNACANDRE SVÀHÀ. NAKSATRÀYA SVÀHÀ. ‘SIVE SVÀHÀ. ‘SÀNTIYE SVÀHÀ. SVACTYA YANE SVÀHÀ. ‘SIVAM KARI, ‘SÀNTI KARI, PUSTI BALA VARDHANI SVÀHÀ. ‘SRÌYE SVÀHÀ. ‘SRÌYA VARDHANI SVÀHÀ ‘SRÌYA JVALANI SVÀHÀ. NAMUCI SVÀHÀ. MURUCI SVÀHÀ. VEGA VATI SVÀHA.Ø

Phần bên trên là Chú Căn Bản.

* Chú Nhất Thiết Phật Tâm:

- Án, Tát bà đát tha nghiệt đa mộ lật đế. Bạt la phiệt la nghiệt đa bà duệ. Xa ma diễn đổ ma ma tả (Tôi tên là...), tát bà bả bế biều. Sá tất để la bà phiệt đổ. Mâu chi, mâu chi, tỳ mâu chi. Giá lị, giá lị, giá la nễ. Nghiệt đế. Bà đà la nãi. Bộ địa bộ địa. Bộ đà gia, bộ đà gia. Bột địa lợi, bột địa lam. Tát bà đát tha nghiệt đa hiệt lật đà gia. Thụ sắt lai. Sa ha.

(OM- SARVA TATHÀGATA MÙRTTE PRAVARA GATA BHAYE ‘SAMAYAMTU MAMA SYA (Tôi tên là...) SARVA PÀPE BHYAH SVÀSTIRBHAVATU MUNI MUNI VIMUNI CALE CALE CALANE GATI BHAYA HÀRANI BODHI BODHI BODHIYA BODHIYA BUDHILI BUDHILAM SARVA TATHÀGATA HRDAYA JUSTAI SVÀHÀ).

* Chân Ngôn Nhất Thiết Phật Tâm Ấn :

- Án, Bạt chiết la bạt để. Bạt chiết la bát la để sắt xỉ đa du đề. Đát tha nghiệt đa mẫu đà la. Địa sắt xá na, địa sắt xỉ đế,sa ha.

(OM- VAJRA VATI VAJRA PRATISTITA ‘SUDDHE TATHÀGATA MUDRA ADHISTTANA ADHISTITE SVAHA

* Chú Quán Đảnh :

- Án,Mâu nễ, mâu nễ, mâu nễ phiêt lệ. A tỳ tru giả đô mê. Tát bà đát tha nghiệt đa ma hồng (Tôi tên là….). Tát bà bật tha gia tỳ sái kế. Ma ha bạt chiết la phiệt gia, mẫu đà la, mẫu địa lị để. Đát tha nghiệt đa hiệt lật đà gia. Địa sắt xỉ đa, bạt chiết lệ, sa ha.

(OM- MUNI MUNI MUNI VARE ABHISIMCA TUME SARVA TATHÀGATA MAMAM SARVA VIDYA ABHISEKAI MAHÀ VAJRA KAVACA MUDRA MUDRITEH TATHÀGATA HRDAYA ADHISTITA VAJRE SVÀHÀ).

* Ấn Chú Quán Đảnh:

- Án, A mật lật đa phiệt lệ. Phạ la phạ la. Bát la phạ la tỳ du đề. Hàm hàm. Phấn tra, phấn tra. Sa ha.

(OM- AMRTA VARE VARA VARA PRAVARA VI’SUDDHE HÙM HÙM PHAT PHAT SVÀHÀ).

* Chú Kết Giới :

- Án,A mật lật đa phiệt lệ. Nghiệt bà lạc sát ni. A yết la sa ni. Hàm hàm. Phấn tra, phấn tra. Sa ha.

(OM- AMRTA VARE GARBHA RAKSANI AKARSANI HÙM HÙM PHAT PHAT SVÀHÀ).

* Chú Phật Tâm :

- Án. Tỳ ma lệ. Xà gia phiệt để. A mật lật đế. Hàm hàm hàm hàm. Phấn tra, phấùn tra, phấn tra, phấùn tra, sa ha.

(OM- VIMALE JAYA VATI AMRTE HÙM HÙM HÙM HÙM PHAT PHAT PHAT PHAT SVÀHÀ).

* Chú Tâm Trung Tâm:

- Án, Bạt la bạt laTâm bạt laẤn địa lật giaTỳ du đạt nễHàm hàmTằng lô già lệSa ha.

(OM- BHARA BHARA SAMBHARA INDRIYA VI’SODHANE HÙM HÙM KURU CALE SVÀHÀ).

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói Thần Chú này xong, liền bảo Đại Phạm rằng: "Nếu có ai tạm nghe Đà La Ni này thì tất cả mọi tội chướng của kẻ trai lành, người nữ thiện ấy đều được trừ diệt. Nếu hay tụng trì thì nên biết người ấy tức là thân Kim Cang, lửa chẳng thể thiêu đốt được. Này Đại Phạm! Ông nên biết việc này: Tại Đại Thành Ca Tỳ La, lúc Đồng Tử La Hầu La ở trong thai mẹ. Mẹ Ngài tên là Gia Du Đà La vốn là người nữ thuộc dòng tộc Thích Ca. Khi bà tự nhảy vào hầm lửa thì La Hầu La đang nằm trong thai mẹ ghi nhớ Chú này, nên hầm lửa lớn kia liền biến thành ao sen. Đây là do uy lực của Thần Chú này, vì nhân duyên ấy mà lửa chẳng thể thiêu đốt được.”

Đức Phật lại bảo: "Này Đại Phạm! Chất độc chẳng thể hại người trì Chú nầy được. Như ở Thành Thiện Du có người con của vị Trưởng Giả Phong Tài khéo trì tất cả Cấm Chú khác. Khi đang trì Chú lực nhiếp triệu vua Rồng Đức Xoa Ca lại quên Kết Giới. Vị Long Vương ấy giận dữ, nghiến răng gây tổn hại, khiến cho người kia phải chịu đại khổ não. Trong khoảnh khắc, mạng không thể cứu vãn được. Bấy giờ, ở trong Thành có vị Ưu Bà Di (Cận Sự Nữ) tên là Vô Cấu thường trì Thần Chú Tùy Cầu Tức Đắc Đại Tự Tại Đà La Ni này. Vị Ưu Bà Di Vô Cấu ấy khởi Đại Từ Bi, sanh tâm thương xót, liền đi đến nơi đó dùng Chú này cứu chữa. Bà mới tụng Chú một biến, thì chất độc kia liền bị tiêu diệt làm cho người ấy đươc hoàn lại Bổn Tâm. Thời người con của Vị Trưởng Giả ở bên bà Vô Cấu thọ trì Chú này, liền ghi nhớ tại tâm. Vì thế nên biết chất độc chẳng thể hại được.

Lại nữa Đại Phạm! Ở Thành Ba La Nại có vị vua tên là Phạm Thí. Lúc đó, vị vua của nước lân cận có uy lực lớn, khởi 4 loại binh chinh phạt vua Phạm Thí. Khi 4 loại binh vào đến Thành Ba La Nại, thì vua Phạm Thí đã biết rồi. Ngài ban sắc lệnh cho mọi người trong Thành rằng: "Các ngươi đừng sợ hãi ! Ta có Thần Chú tên là Tùy Cầu Tức Đắc Đà La Ni. Thần Chú này có sức mạnh hay đập nát kẻ địch với 4 loại binh". Khi đó, vua Phạm Thí tắm rửa sạch sẽ, mặc áo mới sạch, ghi chép Chú này đeo ở trên thân, rồi lao vào chiến trận. Một mình vua giao tranh với giặc, giáng phục 4 Binh khiến chúng quy hàng. Này Đại Phạm! Nên biết Đại Thần Chú này có uy lực lớn được Như Lai ấn khả, nên thường nhớ niệm. Sau khi Đức Phật nhập diệt thì Chú này rất lợi ích cho chúng sanh.

Lại nữa Đại Phạm! Nếu có người đeo Chú này, nên biết được Như Lai dùng sức thần thông ủng hộ cho người đó. Nên biết người đó là thân Như Lai. Nên biết người đó là thân Kim Cang. Nên biết người đó là thân Như Lai Tạng. Nên biết người đó là con mắt của Như Lai. Nên biết người đó mặc áo giáp Kim Cang. Nên biết người đó là Thân Quang Minh. Nên biết người đó là Thân Bất Hoại. Nên biết người đó hay tồi phục tất cả oán địch. Nên biết bao nhiêu tội chướng của người đó đều được tiêu diệt. Nên biết Chú nầy hay trừ nạn khổ của Địa Ngục.

Đại Phạm nên biết, có một vị Tỳ Kheo ít tín tâm, đối với Giới của Như Lai có sự khuyết phạm, lại ăn trộm đồ vật của Tăng hiền tiền, Tăng thường trụ, Tăng đi 4 phương mà dùng riêng cho mình. Sau này vị Tỳ Kheo đó bị bệnh nặng, chịu nhiều khổ não. Lúc đó, có một vị Ưu Bà Tắc (Cận Sự Nam) thuộc dòng Bà La Môn khởi lòng Đại Bi, chép Thần Chú này, đeo dưới cổ vị Tỳ Kheo bị bệnh. Khi đeo xong, thì tất cả bệnh khổ thảy đều tiêu diệt. Sau khi hết thọ mạng, vị Tỳ Kheo này bị đọa vào Địa Ngục A Tỳ. Quan tài của vị Tỳ Kheo ấy được đặt trong cái Tháp và để Thần Chú lên trên thi hài. Ngày nay cái Tháp của vị Tỳ Kheo nầy còn tồn tại ở phía Nam của Thành Mãn Túc. Vị Tỳ Kheo này vào Địa Ngục chẳng bao lâu, thì bao nhiêu nỗi đau khổ của các kẻ chịu tội đều được ngừng dứt, các tội nhân đều được an vui, bao nhiêu đám lửa trong Địa Ngục cũng đều tiêu diệt. Khi Ngục Tốt nhìn thấy hiện tượng đó, thì rất kinh ngạc lạ lùng, liền đem việc ấy thưa trình với vua Diêm La. Thời vua Diêm La bảo Ngục Tốt rằng: "Đây là Đại uy đức của Xá Lợi thuộc thân đời trước. Các ngươi có thể đến phía Nam Thành Mãn Túc tìm xem có việc gì ?". Ngục Tốt nhận lệnh đi ngay, đầu đêm đến cái Tháp đó, nhìn thấy cái Tháp tỏa hào quang như đám lửa lớn. Nhìn vào trong Tháp, thì thấy ở trên thi hài của vị Tỳ Kheo có đặt Thần Chú Tùy Cầu Tức Đắc Đại Đà La Ni, lại có chư Thiên vây quanh phòng hộ. Lúc ấy, Ngục Tốt nhìn thấy sức mạnh chẳng thể luận bàn của Chú này, liền đặt tên hiệu cho cái Tháp đó là Tùy Cầu Tức Đắc . Bấy giờ, Ngục Tốt quay trở về trình báo mọi việc đã nhìn thấy cho vua Diêm La. Vị Tỳ Kheo đó nương theo sức mạnh của Chú này, mà tội chướng đều trừ diệt. Liền được sanh về cõi Trời Tam Thập Tam Thiên. Nhân đây, mà vị Trời này có tên là Thiên Tử Tùy Cầu Tức Đắc. Này Đại Phạm! Ông nên biết nếu y theo Pháp viết chép Chú này, đeo giữ trên thân thì thường không có khổ não, được tất cả sự lợi ích và trừ bỏ mọi sự sợ hãi.

Lại nữa Đại Phạm! Như ở trong Thành Tiêu A Ngùy, có vị Trưởng Giả tên là Tỳ Lam Bà. Kho tàng của ông đầy tràn, vàng bạc sung mãn, tiền gạo cực nhiều. Vị Trưởng Giả ấy là một Thương Chủ, ông chèo chiếc thuyền lớn đi vào biển lớn. Ở nơi cái biển lớn ấy, gặp một con cá Đê Di Lê muốn phá hư thuyền. Vị vua Rồng trong biển lại sanh giận dữ, khởi sấm sét lớn, tuôn mưa đá cứng như Kim Cang. Lúc ấy mọi người rất sợ hãi lo lắng. Vị Thương Chủ bảo các Thương Nhân rằng: "Các ông đừng sợ hãi ! Tôi có phương kế quyết định thoát khỏi hiểm nạn này". Chúng Thương Nhân nói:’ Lành thay ! Lành Thay ! “. Bấy giờ Vị Thương Chủ liền đúng như Pháp viết chép Chú này đặt trên đầu cây phướng. Tức thời, con cá kia nhìn thấy chiếc thuyền này có vầng hào quang lớn như đám lửa rực, nên thoái lui. Các hàng Rồng kia cũng nhìn thấy tướng ấy, liền khởi Tâm Từ. Khi ấy, vị Thương Chủ cùng với các Thương nhân sanh tâm cực vui vẻ và đến được nơi cất chứa vật báu.

Vì thế, Đại Phạm! Ông nên chép Chú này đặt trên đầu cây phướng sẽ hay trừ bỏ tất cả trận gió ác, các hiện tượng rét lạnh chẳng đúng thời. Trời chợt nổi mây đen tuôn mưa sương mưa đá …. thảy đều ngừng dứt. Tất cả muỗi mòng, sâu trùng với các loài khác, loài ăn phá lúa mạ tự nhiên sẽ lui tan. Tất cả giống thú ác, loài có nanh bén vuốt nhọn chẳng thể gây hại được. Tất cả lúa mạ, hoa quả, dược thảo đều được tăng trưởng. Quả trái có vị ngon ngọt, chín mùi đúng theo thời. Các hàng Long Vương giáng mua đúng thời tiết.

Lại nữa Đại Phạm! Nếu có người nhiều mong cầu, thì cần phải như Pháp viết chép Chú này, ắt mọi điều cầu nguyện đều được thành tựu. Cầu con trai được con trai, cầu con gái được con gái, khéo giữ gìn bào thai, đứa con trong thai được an ổn, đủ ngày đủ tháng sanh sản an vui. Đại Phạm nên biết, ở nườc Ma Già Đà có vị vua tên là Từ Mẫn Thủ. Lúc mới sanh ra, vị vua này duỗi bàn tay phải nắm lấy vú mẹ thì hai bầu vú của mẹ biến thành màu vàng ròng và tự tuôn chảy sữa. Ở trong bàn tay của vị vua đó lại tuôn ra vô lượng châu báu ban cho các chúng sanh. Do nhân duyên đó, mà vị vua ấy có tên là Từ Mẫn Thủ. Vị vua không có con, vì muốn cầu con nên vua thiết lập Hội Thí to lớn cúng dường chư Phật và các Tháp Miếu, nhưng chẳng được như nguyện. Sau đó, trong đêm vị vua nằm mộng thấy Thiên Chủ Tịnh Cư đến bảo rằng: "Đại Vương nên biết, có Đại Thần Chú tên là Tùy Cầu Tức Đắc. Đại Vương nên như Pháp viết chép rồi cho Đại Phu Nhân đeo dưới cổ, ắt sẽ có con". Lúc tỉnh giấc, vị vua chờ đến sáng sớm, liền như Pháp viết chép Đại Thần Chú này và cho Phu Nhân đeo vào cổ. Tức thời bà có thai, đủ ngày đủ tháng sanh ra một đồng tử có đầy đủ sắc tướng, uy nghiêm thù thắng, ai nhìn thấy cũng đều vui vẻ. Đại Phạm nên biết, Thần Chú này có sức mạnh khiến cho mọi sự nguyện cầu đều được vừa ý.

Lại nầy Đại Phạm! Lúc đánh nhau với A Tu La, Vị Thiên Vương Đế Thích đeo Thần Chú này, nên chúng Thiên Đế Thích chẳng bị thương hại, thường được thắng lợi, quay về cung an ổn.

Lại nữa Đại Phạm! Nếu có người đeo Thần Chú này trên thân, thì tất cả Chư Phật đều dùng Thần Lực gia trì và người ấy được các Bồ Tát khen ngợi. Ở tất cả nơi, tất cả chỗ tranh tụng, luận bàn tranh cãi đều được chiến thắng, thường không có bệnh tật, tất cả tai nạn thình lình chẳng thể hại được, tâm không có lo âu phiền muộn, luôn được chư Thiên ủng hộ.

Nếu ai viết chép 8 Đạo Chú này đeo giữ, tâm thường nhớ niệm thì tất cả mộng ác, tướng ác, việc chẳng kiết tường chẳng thể phạm vào thân. Thần Chú Tùy Cầu Tức Đắc Đà La Ni này được 99 ức trăm ngàn Na do tha Hằng hà sa Phật đẳng cùng tuyên nói, cùng nhau khen ngợi, cùng chung hoan hỷ. Chú này có thế lực lớn, có đại uy quang, có công dụng lớn, hàng phục tất cả chúng Ma, rất khó gặp được Đại Thần Chú này.

Lại nữa Đại Phạm! Thời quá khứ có Đức Phật tên là Như Lai Khai Nhan Hàm Tiếu Ma Ni Kim Bảo Hách Dịch Quang Minh Xuất Hiện Vương, ngồi trên Tòa Kim Cang tại Bồ Đề trường. Lúc mới thành Chánh Giác, thì có vô lượng vô số Ma với các quyến thuộc đến chỗ Phật ngự, hiện các Thần lực gây các chướng nạn, hiện các tướng ác, tạo hình sân nộ, tuôn mưa khí trượng (Vũ khí, đao, gậy….). Bấy giờ, Đức Thế Tôn điềm nhiên ngồi yên dùng Căn Lực Từ Thiện nhớ niệm Chú này. Vừa mới nhớ niệm xong, thì các Ma Chúng nhìn thấy ở trong từng lỗ chân lông của Đức Thế Tôn tuôn ra trăm ngàn vạn ức Binh Chúng, thân măïc áo giáp, phóng ánh sáng lớn, du hành tự tại trên hư không, tức thì các Ma Chúng bị mất thần thông, phải bỏ chạy tứ tán.

Lại nữa Đại Phạm! Ở Thành Ô Thiền Na có vị vua tên là Phạm Thí. Thuở ấy, có một người vì mạo phạm đến nhà vua nên bị xử tội chết. Vị vua ban lệnh đem tội nhân vào trong núi xử tử. Lúc Đao Phủ vung đao tính chém, nhưng vì trước kia tội nhân ấy có đeo Chú này ở cánh tay phải, do sức mạnh của Chú này mà cây đao bị bốc lửa, tự nhiên tan hoại như bụi nhỏ. Vị Pháp Quan nhìn thấy hiện tượng chưa từng có, nên lấy làm quái lạ liền đến tâu với vua, trình tấu mọi việc. Vị Vua bảo Pháp Quan rằng: "Ở trong núi ấy có hang Dạ Xoa, trong hang đó có vô lượng Dạ Xoa trú ngụ. Ngươi có thể đưa tội nhân vào trong hang ấy". Vị Pháp Quan vâng theo lời dạy, đem tội nhân đến hang. Khi các Dạ Xoa đi đến muốn ăn thịt. Do uy lực của Chú này, nên nhóm Dạ Xoa nhìn thấy thân thể của người đó tỏa ra ánh sáng rực rỡ, thời các Dạ Xoa liền đưa Tội nhân này ra bên ngoài hang động và cung kính lễ bái. Khi ấy, vị Pháp Quan lại đem việc này trình tấu đầy đủ với nhà vua. Đức vua lại bảo: "Hãy đem tội nhân này ném xuống sông lớn". Vị Pháp Quan vâng lệnh, ném người ấy xuống sông, nhưng tội nhân ấy chẳng bị nước nhận chìm, tựa như có mặt đất che phủ trên nước. Vị Pháp Quan lại đem việc ấy khải tấu với Đại Vương. Đức vua rất kinh ngạc, liền kêu tội nhân lên hỏi: "Ngươi dùng điều gì mà có thể thoát được nạn như vậy?". Tội nhân đáp : "Tâu Đại Vương ! Thần không có cách nào để thoát khỏi nạn, duy chỉ nhờ trên thân có đeo Thần Chú Tùy Cầu Tức Đắc Đại Tự Tại Đà La Ni thôi". Đức vua nghe xong lấy làm lạ lùng, khen ngợi vô cùng".

Đức Phật bảo: "Này Đại Phạm ! Như các việc đã nói như trên, ông có thể biết về uy lực của Thần Chú đó. Vì thế, Ông nên viết chép đeo giữ trên Thân. Này Đại Phạm! Lại nếu có người muốn đeo Chú này, thì nên y như Pháp mà viết chép".

Bấy giờ, Đại Phạm bạch với Đức Phật rằng: " Bạch Thế Tôn! Nếu muốn viết chép Chú này, thì phải làm theo phép tắc nào ? ".

Đức Phật bảo: " Này Đại Phạm! Trước tiên nên kết Đàn. Ở dưới đất, đặt một cái bình chứa đầy nước thơm. Bên trong Đàn vẽ làm hai hoa sen, hoặc 3 hoặc 4 hoặc 5 đóa sen. Bốn mặt chung quanh đều tạo râu nhụy hoa sen. Lại làm một đóa sen hé nở lớn, cuối thân hoa treo lụa đẹp. Lại làm một hoa sen 8 cánh, trên mỗi cánh hoa làm một cây kích Tam Xoa, trên thân hoa treo lụa đẹp.

Lại làm một hoa sen 8 cánh, ở giữa tâm hoa làm một cái chày Kim Cang, trên mỗi cánh hoa cũng làm một cái chày, cuối thân hoa treo lụa đẹp.

Lại làm một hoa sen 8 cánh, mỗi cánh hoa đều làm một cây búa. Lại làm một hoa sen, ở trong tâm hoa vẽ làm một cây đao, thân hoa cũng vẽ treo lụa đẹp. Lại vẽ làm một cây kiếm, ở trên vỏ kiếm vẽ hoa, trên cuối thân hoa cũng treo lụa đẹp.

Lại làm một hoa sen, ở trong tâm hoa vẽ làm một vỏ ốc (Loa). Lại làm một hoa sen, ở trong tâm hoa vẽ làm một sợi dây lớn (Quyến sách). Lại làm một hoa sen, ở trong tâm hoa vẽ làm một trái châu rực lửa (Hỏa Diễm Châu).

Sau dó đốt hương, rải hoa, dâng thức ăn uống quả trái, mọi loại cúng dường. Nếu có người muốn vẽ chép đeo Chú này, cần phải y theo Pháp vẽ kết Đàn như vậy; còn các phương pháp của Đàn khác chẳng được xen lẫn vào. Sai người viết Chú, trước tiên phải tắm gội sạch sẽ, mặc áo mới sạch, ăn 3 loại Bạch thực là: Sữa, lạc (bơ), cơm trắng. Không cứ là giấy, lụa, trúc, vải, các vật… mỗi loại đều được phép dùng để viết chép Chú này.

Nếu có phụ nữ cầu sanh con trai, thì dùng Ngưu Hoàng vẽ chép trên lọng. Trước tiên, mặt 4 hướng vẽ Thần Chú này, bên trong vẽ một Đồng Tử có báu lưu ly trang nghiêm cổ, tay nâng một cái bát bằng vàng chứa đầy châu báu. Lại ở 4 góc đều vẽ một thân Đồng Tử mặc áo giáp.

Lại làm mọi loại Ấncho người đeo Chú này: Nếu là Chuyển Luân Vương thì ở trung tâm của Chú, vẽ hình Bồ Tát Quán Thế Âm với hình Đế Thích. Lại ở bên trên, vẽ mọi loại Ấn của Phật, cùng các Ấn Thiện Thần thảy khiến cho đầy đủ. Lại ở 4 góc vẽ 4 Vị Thiên Vương với mọi báu trang nghiêm, đều y theo Bổn phương (Phương vị của mỗi Tôn).

Nếu vị Tăng đeo Chú này, thì ở trung tâm của Chú, vẽ một vị Thần Kim Cang với mọi báu trang nghiêm. Bên dưới, vẽ một vị Tăng chắp tay quỳ dài. Vị Thần Kim Cang duỗi tay án trên đỉnh đầu Vị Tăng này.

Nếu Bà La Môn đeo Chú này, thì ở trung tâm của Chú vẽ Đại Tự Tại Thiên. Nếu Sát Lợi đeo Chú này, thì ở trung tâm của Chú vẽ Ma Hê Thủ La Thiên. Nếu Tỳ Xá đeo Chú này, thì ở trung tâm của Chú vẽ Tỳ Sa Môn Thiên Vương. Nếu Thủ Đà đeo Chú này, thì ở trung tâm của Chú vẽ Chước Yết La Thiên. Nếu đồng nam đeo Chú này, thì ở trung tâm của Chú vẽ Câu Ma La Thiên. Nếu đồng nữ đeo Chú này, thì ở trung tâm của Chú vẽ Ba Xà Ba Đề Thiên.

Từ đây trở lên là nghi tắc của người đeo Chú. Ở trung tâm của Chú, vẽ các Thiên Thần đều có hình trạng thiếu niên có diện mạo vui tươi. Nếu có người muốn trì đeo Thần Chú này, đều tự mình phải mỗi mỗi y theo Bổn Pháp.

Nếu phụ nữ mang thai đeo Chú này thì ở trung tâm của Chú vẽ Ma Ha Ca La Thiên với khuôn mặt màu đen. Nếu có người treo Chú này trên cây phướng cao, thì nên dựng ở nơi núi cao, ở trên đầu cây phướng đặt một trái Hỏa Diễm Châu, lại đặt Thần Chú này ở bên trong trái châu ấy, thì hết thảy ác chướng ngại cùng các bệnh tật đều được tiêu diệt.

Nếu gặp lúc nắng hạn, thì ở trung tâm của Chú vẽ một con rồng 9 đầu. Nếu lúc mưa quá nhiều, cũng vẽ con Rồng 9 đầu này và nên đặt trong nước có Rồng, ắt nắng hạn sẽ tuôn mưa, còn lúc mưa quá nhiều sẽ được quang tạnh ngay.

Nếu Thương nhân đeo Thần Chú này, thì ở trung tâm của Chú vẽ hình Thương Chủ với các Thương chúng đi theo, ắt đều được an vui.

Người trì Chú này, tự mình muốn đeo thì ở trung tâm của Chú, vẽ một Nữ Thiên, lại ở bên trong vẽ các vì sao (Tinh Thần) mặt trời, mặt trăng. Nếu phàm nhân đeo Chú này, thì chỉ nên viết chép Thần Chú để đeo mà thôi".

Đức Phật lại bảo: "Này Đại Phạm! Nếu các ngươi hay như Pháp viết chép, trì đeo thì thường được an vui… Bao nhiêu việc đã làm, đều được thành tựu. Đời này an vui, đời sau sanh lên cõi Trời, bao nhiêu tội chướng đều được tiêu diệt. Người thường thọ trì luôn được Chư Phật, Bồ Tát hộ niệm. Ở trong giấc mộng thường được thấy Phật, cũng được mọi người tôn kính. Ông nên thọ trì, khiến cho lưu bố rộng rãi".

Đức Phật nói Kinh này xong, thì Thiên Vuong Đại Phạm nghe được những điều Phật dạy, tâm rất vui vẻ, tin nhận phụng hành.

NGHI QUỸ KIM CƯƠNG ĐẢNH DU GIÀ TỐI THẮNG BÍ MẬT THÀNH PHẬT TÙY CẦU TỨC ĐẮC THẦN BIẾN GIA TRÌ THÀNH TỰU ĐÀ LA NI

Mật Tạng Bộ 3 No.1155 (Tr.644 - Tr. 649)

Chùa Đại Hưng Thiện, Tam Tạng Sa Môn Đại Quảng Trí Bất Không phụng chiếu dịch Phạn ra Hán văn.

Việt dịch : Huyền Thanh

Bấy giờ Bồ Tát Diệt Ác Thú ở trong Đại Tập Hội của Đức Phật Tỳ Lô Giá Na từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay bạch Phật rằng: "Bạch Thế Tôn ! Con vì chúng sanh trong nẻo ác của Thế giới tạp nhiễm thuộc thời Mạt Pháp ngày sau, mà nói Đà La Ni Diệt Tội Thành Phật, tu 3 Mật Môn, chứng Niệm Phật Tam Muội được sanh về Tịnh Thổ, và dùng phương tiện nào để cứu khổ ban vui cho chúng sanh bị tội nặng. Con muốn cứu tế khổ não cho tất cả chúng sanh".

Khi đó, Đức Phật bảo Bồ Tát Diệt Ác Thú rằng: "Đối với chúng sanh không biết sám hối, không biết xấu hổ, tà kiến, buông lung thì không có Pháp cứu tế. Lúc chết thì họ bị đọa vào Địa Ngục Vô Gián, chẳng được nghe tên của Tam Bảo. Huống nữa, chẳng được nhìn thấy Phật, thì làm sao mà có được thân người ? ".

Bồ Tát Diệt Ác Thú lại bạch rằng: "Phương tiện của Đức Như Lai chẳng thể tính được và Thần Lực của Đức Như Lai vô tận. Nguyện xin Đức Thế Tôn nói Pháp bí mật để cứu khổ. Đức Phật là cha mẹ của tất cả chúng sanh. Xin hãy vì chúng sanh trong cõi Ngũ Trược mà nói Pháp Quyết định thành Phật ".

Đức Phật bảo Bồ Tát Diệt Ác Thú rằng: "Ta có Pháp bí mật, rất hiếm có trên đời, là Pháp tối thắng bậc nhất để diệt tội thành Phật : Pháp đó tên là Chân Ngôn Tùy Cầu Tức Đắc. Nếu có người mới nghe qua đề danh của Chân Ngôn này hoặc gần gũi người tụng Đề Danh, hoặc ở cùng một nơi với người tụng Đề Danh, thì người ấy đều được tất cả hàng Thiên Ma, Ác Quỷ, tất cả Thiện Thần Vương đi đến ủng hộ. Giả sử người đó ăn ngũ tân, giết hại cá, hoặc dâm dục với chị em hay tất cả súc sanh nữ thì các Tỳ Na Dạ Ca cũng chẳng thể gây chướng ngại, mà đều tùy thuận, ngày đêm thủ hộ, dứt trừ tai nạn, khiến được an ổn huống chi tự mình niệm tụng. Nếu tụng đầy đủ thì tất cả tội nặng đều được tiêu diệt, được vô lượng phước đức. Khi chết quyết sanh về Thế Giới Cực Lạc. Tuy đã gây ra tội cực nặng cũng chẳng bị đọa vào Địa Ngục. Nếu giết hại cha mẹ, giết bậc A La Hán, phá sự hòa hợp của chư Tăng, làm cho thân Phật chảy máu, thiêu đốt Kinh Tượng, làm ô uế chốn Già Lam, chê bai mọi người, khinh chê các lời dạy, khen mình chê người. Dù đã gây ra các tội như vậy, vẫn quyết định sanh về cõi Cực Lạc, tự được Thượng Phẩm, hóa sanh trong hoa sen, chẳng còn sanh trong bào thai. Có điều người mau thành Phật, vì trước kia đã từng nghe Chân Ngôn này, còn người chậm thành Phật, vì đời đời chẳng được nghe Chân Ngôn này.

Nếu người Nam, người Nữ, Đồng Nam, Đông Nữ trì Đề Danh của Chân Ngôn này sẽ được an vui, không có các bệnh tật, sắc tướng đầy đủ sự rực rỡ, được thành tựu tất cả Chân Ngôn Pháp. Nếu đem Đề Danh của Chân Ngôn này, hoặc 1 chữ, 2 chữ cho đến 10 chữ hoặc đem 1 câu, 2 câu cho đến 10 câu cùng một biến của Chân Ngôn, để vào trong ngọc, vàng, bạc, lưu ly rồi đeo nơi thân, thì người ấy tuy chưa vào Đàn liền thành người đã vào tất cả Đàn, thành kẻ đồng hạnh với người đã vào Đàn, ngang bằng với chư Phật không khác, chẳng có mộng ác, tội nặng được tiêu diệt. Nếu kẻ có tâm ác hướng tới người ấy, thì cũng chẳng làm hại được, tất cả việc làm đều thành tựu."

Đức Phật liền nói Phổ Biến Diễm Man Thanh Tịnh Xí Thạnh Tư Duy Bảo Ấn Tâm, Vô Năng Thắng Tổng Trì Đại Tùy Cầu Đà La Ni rằng:

- Nẵng mạc tát phộc đát tha nghiệt đá nam.(NAMAH SARVA TATHÀGATÀNÀM : Quy mạng Thân Khẩu Ý của Phật Tỳ Lô Giá Na tràn đầy khắp hư không, diễn nói Giáo pháp thâm sâu về ba Mật Môn, Kim Cang Nhất Thừa của Như Lai).

- Nẵng mô nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ-dược.(NAMO NAMAH SARVA BUDDHA BODHISATVE BHYAH : Quy mạng Tâm Bổn Giác, Pháp Thân Thường Trụ, Pháp màu nhiệm của Đài Sen Tâm, Đức trang nghiêm bổn lai của Ba Thân, Trụ Tâm của 37 Tôn thành Pháp Nhiên của Phổ Môn trần số Chư Tam Muội xa lìa Nhân Quả, vốn đầy đủ vô biên biển Đức. Con xin quay về đảnh lễ Tâm chư Phật).

- Một đà đạt ma tăng chi tỳ-dược (BUDDHA DHARMA SAMGHE BHYAH : Nam mô Bồ Tát Diệt Ác Thú, Bậc cứu khổ ban vui cho hữu tình trong Tam Đồ và khiến cho chúng sanh trong Pháp Giới lìa khổ được vui).

- Đát nhĩ-dã tha(TADYATHA : Lời nói).

- Án, vĩ bổ lã nghiệt bệ(OM- VIPULA GARBHE: Bốn Ân trong quá khứ thành Phật Đạo).

- Vĩ bổ la vĩ ma leâ (VIPULA VIMALE: Tất cả chúng sanh diệt tội)

- Nhạ dã nghiệt bệ(JAYA GARBHE : Tất cả chúng sanh ban Báu Như Ý).

- Phạ nhật-la nhập-phạ la nghiệt bệ(VAJRA JVALA GARBHE: Tất cả chúng sanh đoạn trừ phiền não).

- Nga để nga ha ninh(GATI GAHANE: Tất cả chúng sanh thành tựu sự mong cầu).

- Nga nga nẵng vĩ thú đạt ninh(GAGANA VI’SODHANE : Tất cả chúng sanh từ bi che chở giúp đỡ).

- Án, tát phạ bá bả vĩ thú đạt ninh(OM- SARVA PÀPA VI’SODHANE : Tất cả chúng sanh trong Thế giới không có Phật từ bi che chở giúp đỡ).

- Án, ngu lỗ noa phạ để nga nga lị ni(OM- GUNA VATI GAGARINI : Tất cả chúng sanh cắt đứt sự khổ sanh trong thai bào)

- Nghĩ lị, nghĩ lị nghiêm ma lị nghiêm ma lị(GIRI GIRI GAMÀRI GAMÀRI : Tất cả chúng sanh được ban bố thức ăn uống).

- Ngược hạ ngược hạ(GAHA GAHA: Tất cả chúng sanh được ban bố quần áo).

- Nghiệt nga lị nghiệt nga lị(GARGÀRI GARGÀRI : Tất cả chúng sanh khiến cho mãn Chúng Sanh Ba La Mật).

- Nghiêm ba lị nghiêm ba lị(GAMBHARI GAMBHARI: Tất cả chúng sanh mãn Nhẫn Nhục Ba La Mật).

- Nga để nga để nga nga nãnh nga lệ(GATI GATI GAGANA GARE : Tất cả chúng sanh mãn Tinh Tấn Ba La Mật)

- Ngu lỗ ngu lỗ ni(GÙRU GÙRUNE : Tất cả chúng sanh mãn Thiền Ba La Mật).

- Tả lê, a tả lê(CALE ACALE :Tất cả chúng sanh mãn Tuệ Ba La Mật).

- Mẫu tả lê, nhạ duệ vĩ nhạ duệ(MUCALE JAYE VIJAYE :Tất cả chúng sanh mãn Phương Tiện Ba La Mật).

- Tát phạ bà dã vĩ nga đế nghiệt bà tam bà la ni(SARVA BHAYA VIGATE GARBHA SAMBHARANI: Tất cả chúng sanh mãn Nguyện Ba La Mật).

- Tất lị tất lị nhĩ lị kỳ lị kỳ lị tam mãn đá ca la-sái ni(SIRI SIRI MIRI GHIRI GHIRI SAMANTA AKARSANI :Tất cả chúng sanh mãn Lực Ba La Mật).

- Tát phạ thiết đốt-lỗ bát-la mạt tha nãnh(SARVA ‘SATRÙ PRAMATHANI :Tất cả chúng sanh mãn Trí Ba La Mật).

- La khất-sái, la khất-sái(RAKSA RAKSA: Thành tựu)

- Ma ma(MAMA: Cứu cánh)

- Tát phạ tát đát-phạ nan tả(SARVA SATVÀNÀMÏ CA: Tất cả chúng sanh hợp ly oán).

- Vĩ lị vĩ lị vĩ nga đá phạ la noa ba dã nẵng xả nãnh(VIRI VIRI VIGATA AVARANI BHAYA NÀ’SANI: Tất cả chúng sanh khéo xa lìa Tham, Si).

- Tô lị tô lị tức lị kiếm ma lê(SURI SURI CILI KAMALE : Tất cả chúng sanh khéo xa lìa Tâm ngu si).

- Vĩ ma lê(VIMALE :Tất cả chúng sanh khéo xa lìa nạn khổ về ăn uống)

- Nhạ duệ nhạ dã phộc hề nhạ dạ(JAYE JAYAVAHE JAYA Tất cả chúng sanh khéo xa lìa nạn khổ về nước).

-Phạ để bà nga phạ để(VATI BHAGAVATI: Tất cả chúng sanh khéo xa lìa nạn khổ về lửa)

- La đát-nẵng ma củ tra ma la đà lị ni, phạ hộ vĩ vĩ đà tức đát-la(RATNA MAKUTA MÀLÀ DHÀRANI BAHU VIVIDHA CITRATất cả chúng sanh khéo xa lìa sự sợ hãi về giặc cướp binh lính).

- Phệ sái lỗ bả đà lị bà nga phạ để ma hạ vĩ nhĩ-dã nễ vĩ(VESA RÙPA DHÀRI BHAGAVATI MAHÀ VIDYA DEVI : Tất cả chúng sanh an ổn thân tâm).

-La khất-sái, la khất-sái(RAKSA RAKSA: Thành tựu)

- Ma ma(MAMA: Cứu cánh)

- Tát phạ tát đát-phạ nan tả(SARVA SATVÀNÀM CA: Tất cả chúng sanh khiến cho cha mẹ đời qúa khứ thành Phật).

- Tam mãn đá tát phạ đát-la(SAMANTA SARVATRÀ : Tất cả chúng sanh khiến cho cha mẹ trong 7 đời thành tựu)

- Tát phạ bá bả vĩ thú đà nãnh(SARVA PÀPA VI’SODHANE : Tất cả chúng sanh khiến cho cha mẹ vĩnh viễn cắt đứt sự khổ về sinh tử).

- Hộ lỗ hộ lỗ(HURU HURU: Tất cả chúng sanh khiến cho cha mẹ trường thọ).

- Nhược khất-sái đát-la(NAKSATRA : Tất cả chúng sanh không có bệnh hoạn).

- Ma la đà lị ni(MÀLÀ DHÀRANI: Tất cả chúng sanh khiến cho phát Tâm Bồ Đề).

- La khất-sái, la khất-sái(RAKSA RAKSA: Thành tựu)

- Ma ma(MAMA: Cứu cánh)

- A nẵng tha tả đát-la noa bả la dã noa tả(ÀNATHA SYA ATRANA PARÀYANA SYA: Diệt tội sát sanh).

- Bả lị mô tả dã minh tát phạ nậu khế tỳ-dược tán ni(PARIMOCA YA ME SARVA DUHKHE BHYAH CANDI : Diệt tội trộm cắp)

- Tán ni tán ni nãnh phệ nga phạ để(CANDI CANDINI VEGA VATI: Diệt tội dâmdục)

- Tát phạ nột sắt-tra nãnh phạ la ni thiết đốt-lỗ bạc khất-sái bát-la mạt tha nãnh vĩ nhạ dã phạ tứ nãnh(SARVA DUSTA NIVARANI ‘SATRÙ PAKSA PRAMATHANI VIJAYA VÀHANI : Diệt tội nói dối)

- Hộ lỗ hộ lỗ(HURU HURU: Diệt tội buôn bán rượu)

- Tổ lỗ tổ lỗ(CURU CURU: Diệt tội khen mình chê người)

- A dục bá la nãnh tô la phạ la mạt tha nãnh(AYUH PÀLANI SURA VARA MATHANI : Diệt tội tham lam keo kiệt)

- Tát phạ nễ phạ đá bố tư đế(SARVA DEVATA PÙJITE : Diệt tội giận dữ)

- Địa lị địa lị(DHIRI DHIRI :Diệt tội phỉ báng)

- Tam mãn đá phạ lộ chỉ đế(SAMANTA AVALOKITE: Diệt tội uống rượu)

- Bát-la bệ bát-la bệ(PRABHE PRABHE: Diệt tội ăn Ngũ Tân)

- Tố bát-la bà vĩ thuấn đệ(SUPRABHA VI’SUDDHE : Diệt tội hại chim cá để ăn thịt)

- Tát phạ bá bả vĩ thú đà ninh(SARVA PÀPA VI’SODHANE : Diệt tội Phá Giới, làm cho đầy đủ Giới)

- Đạt la đạt la đạt la ni , đạt la đạt lệ(DHARA DHARA DHARANI DHARA DHARE : Diệt tội chẳng dậy dỗ)

- Tô mẫu tô mẫu(SUMU SUMU: Diệt tội 3 Độc).

- Lỗ lỗ tả lê(RURU CALE: Diệt tội 3 Lậu)

- Tả la dã nộ sắt-kham bố la dã(CALÀYA DUSTAM PÙRAYA :Diệt tội của 3 điều không thật)

- Minh a thiêm(ME À’SAM : Diệt tội của 3 cõi " Tam Hữu")

- Thất-lị phạ bổ đà nan nhạ dã kiếm ma lê(‘SRÌ VAPUDHANAMÏ JAYA KAMALE :Diệt tội 4 Thức Trụ)

- Khất-sử ni, khất-sử ni(KSINI KSINI : Diệt tội 4 Lưu)

- Phạ la nễ phạ la năng củ thế(VARADE VARADA ANÕKU’SE : Diệt tội 4 Thủ)

- Án bát nột-ma vĩ thuấn đệ(OM- PADMA VI’SUDDHE : Diệt tội 4 Báo)

- Thú đà dã thú đà dã vĩ thuấn đệ(‘SODHAYA ‘SODHAYA VI’SUDDHE : Diệt tội 4 Duyên)

- Bả la bả la(BHARA BHARA: Diệt tội 4 Đại)

- Tị lị tị lị(BHIRI BHIRI: Diệt tội về 4 sự cột trói)

- Bộ lỗ bộ lỗ(BHURU BHURU: Diệt tội về 4 cách ăn " Tứ Thực")

-Mộng nga la vĩ thuấn đệ(MAMGALA VI’SUDDHE : Diệt tội 4 Sanh)

- Bả vĩ đát-la mục khí(PAVITRA MUKHI :Diệt tội 5 Trụ Địa)

- Khát nghĩ ni, khát nghĩ ni(KHARGANI KHARGANI: Diệt tội 5 Thọ Căn)

- Khứ la khứ la(KHARA KHARA : Diệt tội 5 Uẩn)

- Nhập-phạ lị đa thủy lệ(JVALITA ‘SIRE: Diệt tội 5 Kiêu)

- Tam mãn đa bát-la sa lị đá(SAMANTA PRASARITA :Diệt tội 5 Kiến)

- Phạ bà tất đa thuấn đệ(VABHASITA ‘SUDDHE: Diệt tội 5 Tâm - Nhập-phạ la, nhập-phạ la(JVALA JVALA: Diệt tội 5 tình căn) - Tát phạ nễ phạ nga noa(SARVA DEVAGANA : Diệt tội 6 Thức)

- Tam ma ca la-sái ni(SAMA AKARSANI: Diệt tội 6 Tướng)

- Tát để-dã phạ đế(SATYA VATI: Diệt tội 6 Ái)

- Đa la(TARA: Diệt tội 6 Hành)

- Đá la dã hàm(TÀRÀYA MAM : Diệt tội 6 Ái)

- Nẵng nga vĩ lộ chỉ đế la hộ la hộ(NÀGAVILOKITE LAHU LAHU : Diệt tội 6 Nghi)

- Hộ nỗ hộ nỗ(HUNU HUNU : Diệt tội 7 Lậu)

- Khất-sử ni, khất-sử ni(KSINI KSINI : Diệt tội 7 Nghi)

- Tát phạ ngật-la hạ bạc khất-sái ni(SARVA GRAHA BHAKSANI Diệt tội 8 Đảo)

- Băng nghiệt lị, băng nghiệt lị(PIMGALI PIMGALI : Diệt tôïi 8 Khổ).

- Tổ mẫu tổ mẫu, tố mẫu tố mẫu(CUMU CUMU, SUMU SUMUDiệt tội 8 Cấu)

- Tố vĩ tả lệ(CUVI CARE: Diệt tội 9 Não)

- Đa la đa la, nẵng nga vĩ lộ chỉ nãnh(TARA TARA NÀGA VILOKINA : Diệt tội 9 Trị)

- Đá la dã dổ hàm(TÀRÀYA TUMAM: Diệt tội 9 Duyên)

- Bà nga phạ để(BHAGAVATI :Diệt tội 10 Phiền Não)

- A sắt-tra ma ha đát lỗ ná bà duệ tỳ-dược(ASTA MAHÀ DÀRUNE BHAYE BHYAH: Diệt tội 10 sự cột trói)

- Tam mẫu nại-la sa nga la(SAMUDRA SÀGARA : Diệt tội 11 Biến Sử)

- Bát lị-diễn đảm(PRATYANTÀM: Diệt tội 10 Tri Kiến)

- Bát đá la nga nga nẵng đát lam(PÀTÀLA GAGANA TALAM : Diệt tội 18 Giới)

- Tát phạ đát-la tam mãn đế nẵng(SARVATRÀ SAMANTENA : 25 Ngã)

- Trị xả mãn đệ nẵng phạ nhật-la bát-la ca la(DI’SA BANDHENA VAJRA PRÀKÀRA: 60 Cảnh)

- Phạ nhật-la bá xả, mãn diên ninh nẵng(VAJRA PÀ’SA BANDHANE: Kiến đế tư duy 98 Sử, 108 Phiền Não)

- Phạ nhật-la nhập-phạ la vĩ thuấn đệ(VAJRA JVALA VI’SUDDHE: 2 Tuệ Minh, 3 Tân Lãng)

- Bộ lị bộ li(BHURI BHURI: Quảng 4 Đẳng Tâm = Tâm của 4 nhóm rộng rãi)

- Nghiệt bệ phạ để(GARBHE VATI : 20 Trụ Khí)

- Tát bà vĩ thú đà nãnh(GARBHA VI’SODHANE : Diệt 4 nẻo Ác , được 4 Vô úy)

- Cộc khất-sử tam bố la ni(KUKSI SAMPÙRANI : Độ 5 Đạo)

- Nhập-phạ la. Nhập-phạ la(JVALA JVALA: Ủng hộ 5 Căn)

- Tả la tả la(CALA CALA: Tịnh 5 Căn)

- Nhập-phạ lị nãnh(JVALINI: Thành 5 Phần)

- Bát-la vạt sái đổ nễ phạ(PRAVASATU DEVA: Đầy đủ 6 Thần Thông)

- Tam mãn đế nẵng(SAMANTENA: Mãn túc Nghiệp của 6 Độ)

- Nễ nhĩ-dữu ná kế nẵng(DIDHYODAKENA: Chẳng trái ngược 6 Trần Hoặc)

- A mật-lật đa phạ la-sái ni(AMRTA VARSANI : Thường hành Diệu Hạnh)

- Nễ phạ đá phạ đá la ni(DEVA DEVA DHÀRANI : Đời đời kiếp kiếp trụ 7 Tịnh Hoa)

- A tị tru tả đổ minh tô nga đa phạ la phạ tả nẵng(ABHISIMCA TUME SUGATA VARA VACANA: 8 loại nước tẩy rửa bụi trần)

- A mật lật đa phạ la phạ bổ sái(AMRTA VARA VAPUSPE: Thấy 9 Đoạn Trí)

- La khất-sái, la khất-sái(RAKSA RAKSA: Thành tựu)

- Ma ma(MAMA: Cứu cánh)

- Tát phạ tát đát-phạ nan tả(SARVA SATVÀNÀM CA: Thành Hạnh Hạ Địa)

- Tát phạ đát-la tát phạ ná(SARVATRÀ SARVADÀ : 11 Không Giải, thường dùng để trụ Tâm Tự Tại)

- Tát phạ bà duệ tỳ-dược(SARVA BHAYE BHYAH : Hay chuyển Trung Nhị Hạnh Luân)

- Tát mạo bát nại-la phệ tỳ-dược(SARVOPRAVE BHYAH: Đầy đủ 18 Pháp Bất Cộng)

- Tát mạo bả dược nghe tỳ-dược(SARVOPASARGE BHYAH: Viên mãn vô lượng tất cả Công Đức)

- Tát phạ nộ sắt-tra bà dã tị đát tả(SARVA DUSTA BHAYA BHÌTA SYA: Đời đời kiếp kiếp cắt đứt Chướng của sự Kiêu Mạn - Tát phạ ca lị ca la ha(SARVA KÀLI KALAHA : Làm khô cạn dòng nước Aùi Dục )

- Vĩ tát-la hạ vĩ phạ ná(VIGRAHA VIVÀDA: Diệt ngọn lửa giận dữ)

- Nộ sa-phạ bả-nan nột la nãnh nhĩ đá mộng nghiệt-lý dã lô già dã bả vĩ nẵng xả nãnh(DUHSVAPNÀM DURNI MINTA AMAMGALLYA PÀPA VINA’SANI: Vĩnh viễn nhổ, cắt hết Si tưởng)

- Tát phạ dược khất-xoa, la khất-xoa sa(SARVA YAKSA RAKSASA :xé nát cái lưới của Kiến).

- Nẵng nga nãnh phạ la ni(NÀGA NIVARANI: Khéo tu Đạo bền chắc của con người)

- Tát la ni tát lệ ma la ma la ma la phạ để(SARANI SARE BALA BALA BALAVATI : Chính hướng Bồ Đề)

- Nhạ dã nhạ dã nhạ dã đổ hàm(JAYA JAYA JAYA TUMAM: Thành tựu Pháp 37 Phẩm Trợ Đạo) .

- Tát phạ đát-la tát phạ ca lam(SARVATRÀ SARVA KÀRAM : Đắc thân Kim Cang)

- Tất chiêu đổ minh ế hàm ma hạ vĩ niệm(SIDDHYAM TUME IMAM VIDYA : Được thọ mạng vô cùng).

- Sa đà dã sa đà dã(SÀDHAYA SÀDHAYA : Vĩnh viễn xa lià sự oán hận, không có tâm giết hại).

- Tát phạ mạn noa la sa đà nãnh(SARVA MANDALA SÀDHANI :Thường mong sự an vui)

- Già đa dã tát phạ vĩ-cận nẵng(GHÀTAYA SARVA VIGHNAM : Nghe tên nghe tiếng đều trừ khủng bố)

- Nhạ dã nhạ dã(JAYA JAYA: Mãn túc sự mong cầu)

- Tất đệ, tất đệ, tố tất đệ(SIDDHE SIDDHE SUSIDDHE : Aùi biệt ly khổ)

- Tất-địa dã, tất-địa dã(SIDDHYA SIDDHYA: Trừ tai an vui)

- Một-địa dã, một-địa dã(BUDDHYA BUDDHYA : Trừ bệnh sống lâu)

- Mạo đà dã, mạo đà dã, bố la dã(BODHAYA BODHAYA: Trừ nạn về quan quyền)

- Bố la ni, bố la ni(PÙRANI PÙRANI: Sanh sản an ổn)

- Bố la dã minh a khổ(PÙRAYA ME À’SAM :trừ phục oán tặc)

- Tát phạ vĩ nễ-dã vĩ nga đa một đế nhạ dụ đa lị(SARVA VIDYA VIGATA MÙRTTE JYOTTARI :Khiến cho vua chúa kính ái)

- Nhạ dạ phạ để(JAYA VATI: Chư Nhân kính ái)

- Để sắt-tra, để sắt-tra(TISTA TISTA: Thiên Nhân kính ái)

- Tam ma dã ma nộ bá la dã(SAMAYAM ANUPÀLAYA : Hậu Phi kính ái)

- Đát tha nghiệt đa(TATHÀGATA: Phụ Nhân kính ái)

- Hột-lị nãi dã(HRDAYA: Người nữ kính ái)

- Thuấn đệ(‘SUDDHE : Bà La Môn kính ái)

- Nhĩ-dã phạ lộ ca dã đổ hàm(VYAVALOKAYA TUMAM: Tể Quan kính ái)

- A sắt-tra tỵ ma hạ ná lỗ noa bà duệ tỳ-dược(ASTA BHÌ MAHÀ DÀRUNA BHAYE BHYAH: Đại Thần kính ái)

- Tát la tát la(SARA SARA : Cư Sĩ kính ái)

- Bát-la tát la, bát-la tát la(PRASARA PRASARA: Trưởng giả, trưởng giả)

- Tát phạ phạ la noa vĩ thú đà nãnh tam mãn đá ca la mãn noa la vĩ thuấn đeä (SARVA AVARANA VI’SODHANE SAMANTA KÀRA MANDALA VI’SUDDHE : Đế Thích, Đế Thích)

- Vĩ nghiệt đế, vĩ nghiệt đeá (VIGATE VIGATE: Phạm Vương, Phạm Vương)

- Vĩ nga đa ma la(VIGATA MALA : Đại Tự Tại Thiên, Đại Tự Tại Thiên)

- Vĩ thú đà nãnh(VI’SODHANE: Thiên Đế Tướng Quân, Thiên Đế Tướng Quân)

- Khất-sử ni, khất-sử ni(KSINI KSINI: Đồng Nam đồng nữ, đồng nam đồng nữ)

- Tát phạ bá bả(SARVA PÀPA : Thiên Long, Thiên Long)

- Vĩ thuấn đệ(VI’SUDDHE: Dạ xoa, Dạ Xoa)

- Ma la vĩ nghiệt đế(MARA VIGATE : Càn Đạt Bà kính ái)

- Đế nhạ phạ để(TEJA VATI: A Tu La, A Tu La)

- Phạ nhật-la phạ để(VAJRA VATI: Ca Lâu La, Ca Lâu La)

- Đát-lạt lộ chỉ-dã(TRAILOKYA: Tỳ Lô Giá Na hộ niệm)

- Địa sắt-xỉ đế(ADHISTITE: Tăng Ích thành tựu)

- Sa-phạ hạ(SVÀHÀ : Tức Tai thành tựu)

- Tát phạ đát tha nghiệt đa một đà(SAVA TATHÀGATA BUDDHA : A Súc Phật Kim Cương Ba La Mật hộ niệm)

- Tỳ sắc khất đế(ABHISIKTE: Tăng Ích thành tựu)

- Sa-bà hạ(SVÀHÀ: Tức Tai thành tựu)

(Từ đây trở xuống đều giống nhau, cho nên không ghi chú. Bên trong mỗi câu có 3 đoạn: Đoạn đầu là Phật Danh hộ niệm, giữa là Tăng Ích thành tựu, cuối là Tức Tai thành tựu. Ví dụ như : Tát phạ đát tha nghiệt đa một đàlà A Súc Phật Kim Cang Ba La Mật hộ niệm. Tỳ sắc khất đếlà Tăng Ích thành tựu. Sa-bà halà Tức Tai thành tựu . Sau này, dựa theo đấy đều có thể thấy).

Tát phạ mạo địa tát đát-phạ tỳ sắc khất-đế, sa-bà ha(SARVA BODHISATVA ABHISIKTE SVÀHÀ) Tát phạ nễ phạ đa, tỳ sắc khất-đế, sa-bà ha(SARVA DEVATÀ ABHISIKTE SVÀHÀ) Tát phạ đát tha nghiệt đa hột-lị nãi dã, địa sắt xỉ đa hột-lị nãi duệ, sa-bà ha(SARVA TATHÀGATA HRDAYA ADHISTITA HRDAYE SVÀHÀ) Tát phạ đát tha nghiệt đa tam ma dã, tất đệ, sa-bà ha(SARVA TATHÀGATA SAMAYA SIDDHE SVÀHÀ) Ấn nại-lệ, ấn nại-la phạ để, ấn nại-la nhĩ-dã phạ lộ chỉ đế, sa-bà ha(INDRE INDRAVATI INDRA VYAVALOKITE SVÀHÀ) Một-la hám-minh, sa-bà ha(BRAHME SVÀHÀ) Một-la hám-ma nễ-dữu sử đế, sa-bà ha(BRAHMA ADHYUSTE SVÀHÀ) Vĩ sắt-noa nẵng mạc tắc khất-lị đế, sa-bà ha(VISNU NAMASKRTE SVÀHÀ) Ma hê thấp-phạ la mãn nễ đa đa bộ nhĩ đá duệ, sa-bà ha(MAHE’SVARA VANDITA PÙJITAYE SVÀHÀ) Phạ nhật-la bá ni, ma la vĩ lị-duệ địa sắt-xỉ đế, sa-bà hạ(VAJRAPÀNI BALA VÌRYE ADHISTITE SVÀHÀ) Địa-lị đa-la sắt tra-la sắt tra-la dã, sa-bà hạ(DHRRÀSTRÀYA SVÀHÀ) Vĩ lỗ trà ca dã, sa-bà hạ(VIRÙDHÀKÀYA SVÀHÀ) Vĩ lỗ bá khất-sái dã, sa-bà hạ(VIRÙPÀKSAYA SVÀHÀ) Vĩ thất-la ma noa dã, sa-bà hạ(VAI’SRAVANÀYA SVÀHÀ) Tạt đốt la ma hạ la nhạ ná mạc tắc khất-lị đá dã, sa-bà hạ(CATUR MAHÀ RÀJA NAMASKRTÀYA SVÀHÀ) Diễm ma dã, sa-bà hạ(YAMMÀYA SVÀHÀ) Diễm ma bố nhĩ đa ná mạc tắc khất-lị đá dã, sa-bà hạ(YAMMA PÙJITA NAMASKRTÀYA SVÀHÀ) Phạ lỗ noa(Thủy Thiên hộ niệm) daõ (Tăng Ích thành tựu) sa-bà hạ(Tức Tai thành tựu) (VARUNÀYA SVÀHÀ).

(Từ đây trở xuống dựa theo đó, mà thấy biết vậy)

Ma lỗ đá dã, sa-bà hạ(MARÙTÀYA SVÀHÀ) Ma hạ ma lỗ đá dã, sa-bà haï (MAHÀ MARÙTÀYA SVÀHÀ) A ngân-nẵng duệ, sa-bà haï (AGNAYE SVÀHÀ) Nẵng nga vĩ lộ chỉ đá dã, sa-bà ha(NÀGAVILOKITÀYE SVÀHA)Ø Nễ phạ nga nãi tỳ-dược, sa-bà hạ(DEVAGANE BHYAH SVÀHÀ) Nẵng nga nga nãi tỳ-dược, sa-bà ha(NÀGAGANE BHYAH SVÀHA) Dược khất-sái nga nãi tỳ-dược, sa-bà ha(YAKSAGANE BHYAH SVÀHÀ) La khất-sái sa nga nãi tỳ-dược, sa-bà ha(RAKSASAGANE BHYAH SVÀHÀ) Ngạn đạt phạ nga nãi tỳ-dược, sa-bà ha(GANDHARVAGANE BHYAH SVÀHÀ) A tô la nga nãi tỳ-dược, sa-bà ha(ASURAGANE BHYAH SVÀHÀ) Nga lỗ noa nga nãi tỳ-dược, sa-bà ha(GARUDAGANE BHYAH SVÀHÀ) Khẩn na la nga nãi tỳ-dược, sa-bà ha(KINNARAGANE BHYAH SVÀHÀ) Ma hộ la nga nga nãi tỳ-dược, sa-bà ha(MAHORAGAGANE BHYAH SVÀHÀ) Ma nộ sái tỳ-dược, sa-bà ha(MANU SYE BHYAH SVÀHÀ) A ma nộ sái tỳ-dược, sa-bà ha(AMANU SYE BHYAH SVÀHÀ) Tát phạ nghiệt-la hề tỳ-dược, sa-bà ha(SARVA GRAHE BHYAH SVÀHÀ) Tát phạ ná khất-sái đát-lễ tỳ-dược, sa-bà ha (SARVA NAKSATRE BHYAH SVÀHÀ) Tát phạ bộ đế tỳ-dược, sa-bà ha(SARVA BHÙTE BHYAH SVÀHÀ) Tất-lị đế tỳ-dược, sa-bà ha (PRETE BHYAH SVÀHÀ) Tỷ xá tế tỳ-dược, sa-bà ha(PI’SACE BHYAH SVÀHÀ) A bả sa-ma lệ tỳ-dược, sa-bà ha (APASMARE BHYAH SVÀHÀ). Án, độ lỗ độ lỗ, sa-bà haï (OM- DHURU DHURU SVÀHÀ). Án, đổ lỗ đổ lỗ, sa-bà haï (OM- TURU TURU SVÀHÀ). Án, mẫu lỗ mẫu lỗ, sa-bà hạ(OM- MURU MURU SVÀHÀ) Hạ nẵng hạ nẵng tát phạ thiết đốt-lỗ nẫm, sa-bà hạ(HANA HANA SARVA ‘SATRÙNÀM SVÀHÀ). Ná hạ ná hạ tát phạ nột sắt-tra bát-la nột sắt-tra nẫm, sa-bà haï (DAHA DAHA SARVA DUSTA PRADUSTA SVÀHÀ). Bả tả bả tả tát phạ bát-la thất dịch ca ba-la để-dã nhĩ đát-la nẫm duệ ma. A tứ đế sử noa đế sam tát phệ sam thiết lị lam nhập-phạ la dã nột sắt-tra tức đá nẫm, sa-bà hạ(PACA PACA SARVA PRATYARTHIKA PRATYÀMITRANÀM YE MAMA. AHITESINATE SAM SARVESÀM ‘SARIRAM JVALÀYA ADUSTA CITTÀNÀM SVÀHÀ). Nhập-phạ lị đá tỳ dã,sa-bà hạ(JVALITÀYA SVÀHÀ). Bát-la nhập-phạ lị đá dã, sa-bà haï (PRAJVALITÀYA SVÀHÀ). Nhĩ bả-đá nhập-phạ la dã, sa-bà haï (DÌPTA JVALÀYA SVÀHÀ). Tam mãn đa nhập-phạ la dã, sa-bà haï (SAMANTA JVALÀYA SVÀHÀ). Ma ni bạt nại-la dã, sa-bà haï (MANI BHADRÀYA SVÀHÀ). Bố la-noa bạt nại-la dã, sa-bà haï (PÙRNA BHADRÀYA SVÀHÀ). Ma hạ ca la dã, sa-bà haï (MAHÀ KÀLÀYA SVÀHÀ). Ma để-lị nga noa dã, sa-bà haï (MATRGANÀYA SVÀHÀ Dược khất-sử ni nẫm, sa-bà hạ(YAKSANÌNÀM SVÀHÀ). La khất-sái tỷ nãnh nẫm, sa-bà hạ(RAKSASÌNÀM SVÀHÀ). La để-lị tả la nẫm, sa-bà haï (RATR CARÀNÀM SVÀHÀ). Nhĩ phạ sa tả la nẫm, sa-bà hạ (DIVASA CARÀNÀM SVÀHÀ). Để-lị tán địa-dã tả la nẫm, sa-bà haï (TRISANTYA CARÀNÀM SVÀHÀ). Phệ la tả la nẫm, sa-bà haï (VELA CARÀNÀM SVÀHÀ). A phệ la tả la nẫm, sa-bà hạ (AVELA CARÀNÀM SVÀHÀ). Nghiệt bà hạ lệ tỳ-dược , sa-bà haï (GARBHA HÀRE BHYAH SVÀHÀ). Nghiệt bà tán đá la ni, sa-bà haï (GARBHA SANDHÀRANÌ SVÀHA). Hộ lỗ hộ lỗ, sa-bà hạ(HURU HURU SVÀHÀ). Án, sa-bà hạ(OM- SVÀHÀ). Sa-phạ, sa-bà hạ(SVÀH SVÀHÀ). Bộc, sa-bà hạ(BHÙH SVÀHÀ). Bộ phạ, sa-bà hạ(BHÙVÀH SVÀHÀ). Án, bộ la-bộ phạ sa-phạ, sa-bà haï (OM- BHÙRBHÙVÀH SVÀH SVÀHÀ). Tức trí tức trí, sa-bà hạ(CITI CITI SVÀHÀ). Vĩ trí vĩ trí, sa-bà hạ(VITI VITI SVÀHÀ Đà la ni, sa-bà hạ(DHÀRÀNÌ SVÀHÀ). Đà la ni, sa-bà haï (DHARANI SVÀHÀ). A cật nãnh, sa-bà hạ(AGNI SVÀHÀ). Đế đổ phạ bổ, sa-bà hạ (TEJO VAPU SVÀHÀ). Tức lị tức lị, sa-bà haï (CILI CILI SVÀHÀ). Tất lị tất lị, sa-bà hạ(SILI SILI SVÀHÀ).

Một địa-dã một địa-dã, sa-bà hạ(BUDDHYA BUDDHYA SVÀHÀ).

Tất địa dã tất địa dã, sa-bà hạ(SIDDHYA SIDDHYA SVÀHÀ). Mạn noa la tất đệ, sa-bà hạ(MANDALA SIDDHE SVÀHÀ). Mạn noa la mãn đệ, sa-bà hạ(MANDALA BANDHE SVÀHÀ). Tỷ ma mãn đà nãnh, sa-bà hạ(‘SÌMA BANDHANI SVÀHÀ). Tát phạ thiết đốt-lỗ nẫm tiệm ba tiệm ba, sa-bà hạ(SARVA ‘SATRÙNÀM JAMBHA JAMBHA SVÀHÀ). Sa-đảm bà dã sa-đảm bà dã, sa-bà haï (STAMBHÀYA STAMBHÀYA SVÀHÀ). Thân na thân na, sa-bà haï (CCHINDHA CCHINDHA SVÀHÀ).Tẫn na tẫn na, sa-bà haï (BHINDHA BHINDHA SVÀHÀ). Bạn nhạ bạn nhạ, sa-bà hạ(BHANÕJA BHANÕJA SVÀHÀ).Mãn đà mãn đà, sa-bà haï(BANDHA BANDHA SVÀHÀ). Mãng hạ dã mãng hạ dã, sa-bà haï (MOHAYA MOHAYA SVÀHÀ). Ma ni vĩ truật đệ, sa-bà haï (MANI VI’SUDDHE SVÀHÀ). Tố lị-duệ tố lị-dã vĩ truật đệ vĩ thú đà nãnh, sa-bà hạ(SÙRYE SÙRYA VI’SODHANE SVÀHÀ). Tán nại-lệ tô tán nại-lệ bố la-noa tán nại-lệ, sa-bà hạ(CANDRE SUCANDRE PÙRNACANDRE SVÀHÀ). Khư la hề tỳ-dược, sa-bà hạ(GRAHE BHYAH SVÀHÀ). Nhược khất-sát đát-lệ tỳ-dược, sa-bà hạ(NAKSTRE BHYAH SVÀHÀ).Thủy phệ, sa-bà hạ(‘SIVE SVÀHÀ). Phiến để, sa-bà hạ(‘SÀNTI SVÀHÀ).Sa-phạ sa để-dã dã minh, sa-bà hạ(SVASTYA YANE SVÀHÀ). Thủy noan yết lị phiến để yết lị bổ sắt trí yết lị ma la mạt đạt nãnh, sa-bà haï (‘SIVAM KARI ‘SÀNTI KARI PUSTI KARI BALA VARDHANI SVÀHÀ).

Thất-lị yết lị, sa-bà hạ(‘SRÌ KARI SVÀHÀ). Thất-lị dã mạt đạt nãnh, sa-bà haï (‘SRÌYA VARDHANI SVÀHÀ). Thất-lị dã nhập-phạ la nãnh, sa-bà hạ(‘SRÌYA JVALANI SVÀHÀ). Nẵng mẫu tư, sa-bà haï (NAMUCI SVÀHÀ). Ma lỗ tư, sa-bà hạ(MURUCI SVÀHÀ). Phệ nga phạ để, sa-bà hạ(VEGA VATI SVÀHÀ).

Chân Ngôn này là Trí Căn Bản của vô số ức hằng hà sa chư Phật, là Chân Ngôn lưu xuất từ vô lượng chư Phật. Do trí Chân Ngôn này, mà Đức Phật thành Đạo cho nên chư Phật 3 đời trải qua vô số vạn ức kiếp, Như Lai Tỳ Lô Giá Na tự ở trong Pháp Giới Trí chấm dứt vô số kiếp, để cầu được. Do đó, có tên là Chân Ngôn Tùy Cầu Tức Đắc. Tất cả chư Phật chẳng được Chân Ngôn này, thì chẳng thành Phật. Ngoại Đạo, Bà La Môn được Chân Ngôn này, sẽ mau chóng thành Phật. Tại sao thế ? Xưa kia tại nước Ma Kiệt Đà, có một vị Bà La Môn tên là Câu Bát. Vị này chẳng thấy Phật, chẳng nghe Pháp, chẳng có 6 Ba La Mật, chẳng có 4 Vô Lượng Trụ. Ngày ngày giết heo, dê, gấu, nai, ngỗng, gà, rùa… để ăn. Như vậy, đều đều mỗi ngày từ 50 cho đến 100 sanh mạng. Trải qua 250 năm, thì vị Bà La Môn này qua đời, liền từ bỏ nhân gian đi đến cung của vua Diêm La. Khi ấy, vua Diêm La bạch với Đế Thích rằng : "Tội nhân này được đem vào Địa ngục nào ? Tội nặng nhẹ như thế nào?". Đế Thích bảo : "Tội của người này chẳng thể đo lường được, chẳng tính đếm số lượng được. Thiện Kim Trát (Cái trát bằng vàng dùng để ghi điều lành) không có ghi một điều lành nào, Ác Thiết Trát (Cái trát bằng sắt chuyên ghi điều ác) thì nhiều không thể tính. Hãy mau tống giam hắn vào Địa Ngục A Tỳ".

Khi Ngục Tốt vâng lệnh, liền ném tội nhân vào Địa ngục, tức thời Địa ngục tự nhiên biến thành ao sen, chứa đầy nước 8 Công Đức. Trong ao ấy có mọi thứ hoa sen: xanh, trắng, hồng tím với màu sắc vượt hẳn các thứ sen khác. Trên mỗi tòa ngồi của từng đóa sen, đều có một tội nhân ngồi và tôïi nhân này không hề có sự khổ đau. Ngay lúc ấy Ngục Tốt Đầu Trâu, Đầu Ngựa của vua Diêm La cùng nhau nói rằng : "Ngục này lạ thay! Tội nhân này bị bắt lầm rồi ! Địa Ngục biến thành Tịnh Thổ, tội nhân chẳng khác với Phật, chúng ta đã thấy nghe sự việc như vậy".

Bấy giờ, vua Diêm La đi đến cung Đế Thích bạch rằng: "Câu Bát này chẳng phải là người có tội, nên mới có Thần thông như vậy".

Đế Thích đáp rằng : "Lúc sống, hắn chưa từng làm một việc thiện nào cho dù nhỏ như hạt bụi. Quả thật, Ta chẳng biết nổi điều này".

Đế Thích liền đi đến cõi Phật, bạch cùng Đức Phật Thích Ca rằng : "Câu Bát đã làm việc thiện như thế nào, mà lại có thần biến như thế ?".

Khi ấy, Đức Phật bảo Đế Thích rằng : "Ngay thuở sinh tiền Câu Bát chẳng hề làm một việc thiện nào. Hãy nhìn xem hài cốt của hắn ở nhân gian ra sao?".

Đế Thích liền đến nơi chôn cất hài cốt của Câu Bát thì thấy cách nơi này một dặm về phía Tây, có một cái tháp nhiều tầng (Suất Đỗ Ba: stupa). Trong cái tháp đó, có để Chân Ngôn Căn Bản này. Do cái Tháp bị mục nát, nên Chân Ngôn rơi rớt xuống mặt đất. Một Chữ của bài Kinh ấy, nương theo gió thổi dính trên hài cốt của Câu Bát. Bấy giờ Đế Thích lại đến xem điều kỳ dị ở 8 Địa ngục, thì thấy mỗi khi dời Câu Bát đến Địa ngục nào, tức thời nơi ấy liền biến thành nơi không có sự đau khổ. Lúc đó, Câu Bát và các tôi nhân đều có đầy đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Đồng một thời, ở Thế Giới Liên Hoa Tạng thành chư Phật, Bồ Tát. Đức Phật Vô Cấu ở Thượng Phương Thế Giới là Câu Bát vậy.

Chân Ngôn có công năng diệt tội như vậy, huống chi tự mình trì tụng. Nếu có người chí tâm trì niệm, thì còn có chút tội nào sao ? Cho nên, Chân Ngôn này có tên là Tùy Cầu Tức Đắc Thành Phật . Do vậy, Chân Ngôn này có 7 tên là :

1- Chân NgônTâm Phật Tâm: Trí Tâm trong Tâm Trí của Như Lai Tỳ Lô Giá Na.

2- Chân NgônNhất Thiết Phật Tâm Ấn: Ấn Trí Tâm thâm sâu của chư Phật.

3- Chân NgônQuán Đảnh: Quán đảnh người trì niệm

4- Chân NgônQuán Đảnh Ấn: Ấn Bồ Đề tẩy rửa phiền não

5- Chân Ngôn Kết Giới: Trừ tội chướng, tịch trừ chư Ma.

6- Chân NgônPhật Tâm: Tâm Trí chân thật của Phật

7- Chân NgônTâm Trung: Không có gì vượt hơn được Pháp này.

Người Trì Niệm cũng như vậy, giống như Đức Phật là Đấng thù thắng bậc nhất trong các Đấng Pháp Vương.

Này Bồ Tát Diệt Ác Thú! Chân Ngôn này hay cứu tất cả chúng sanh. Chân Ngôn này hay khiến cho tất cả chúng sanh xa lìa các khổ não, hay tạo sự lợi ích lớn cho tất cả chúng sanh, làm mãn sự ước nguyện. Như Đức Phật hay cứu tất cả chúng sanh bị khổ não, như kẻ bị lạnh gặp được lửa sưởi ấm, hoặc như kẻ trần truồng được quần áo mặc. Như con côi được gặp mẹ, như kẻ vượt sông được thuyền bè, như người bệnh tật được thuốc chữa. Như nơi tăm tối được đèn chiếu sáng. Như kẻ nghéo túng được của báu. Như ngọn đuốc diệt trừ ám tối, Chân Ngôn này cũng lại như vậy, hay khiến cho chúng sanh xa lìa tất cả khổ, với tất cả bệnh não, hay giải mở tất cả sự cột trói của sanh tử. Đây là thuốc hay cho người bệnh ở cõi Diêm Phù Đề. Nếu người có bệnh được nghe Chân Ngôn này, thì bệnh liền tiêu diệt.

Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện tạm nghe qua Chân Ngôn này, thì tất cả tội chướng đã có đều được tiêu diệt. Hoặc tuy đã phạm dâm với tất cả người nữ thì vẫn chẳng chịu khổ đau nơi thai sanh. Tại sao vậy ? Người trì Chân Ngôn gần gũi cúng dường, hoặc nam hoặc nữ, đều đã có được sẵn Thân Phật

Nếu có người hay trì tụng, thì nên biết người đó tức là Thân Kim Cang, lửa chẳng thể đốt. Nên biết Như Lai dùng lực thần thông ủng hộ người đó. Nên biết người đó là Thân Như Lai, người đó là Thân của Như Lai Tỳ Lô Giá Na. Nên biết người đó là Kho Tàng của Như Lai, là con mắt của Như Lai. Nên biết người đó mặc giáp trụ Kim Cang. Nên biết người đó là Thân Quang Minh. Nên biết người đó là Thân bất hoại. Nên biết người đó hay tồi phục tất cả oán địch. Nên biết bao nhiêu tội chướng của người đó thảy đều tiêu diệt. Nên biết Chân Ngôn này hay trừ nỗi khổ của Địa Ngục. Ta vì Phật Đạo, ở vô lượng cõi, từ xưa đến nay diễn nói các Pháp chẳng thể đo lường được. Ở trong các Pháp đó thì Chân Ngôn này là tối thắng bậc nhất, chẳng có gì có thể so sánh được. Ở trong ba ngàn Đại Thiên Thế Giới, tuy giết hại tất cả chúng sanh vẫn chẳng bị đọa vào nẻo ác. Tất cả đều do uy lực của Chân Ngôn này, huống là còn phải chịu nạn khổ ở nhân gian ư ? Thường khiến tuôn mưa 7 Báu, không có bệnh hoạn tai nạn, tất cả sự mong cầu đều được mãn túc, thân tâm an ổn, phước thọ vô lượng.

Này Diệt Ác Thú! Dưới đây có 7 Chân Ngôn nhỏ dành riêng cho người nào chẳng thể tụng Chân Ngôn Căn Bản. Nếu có người nam, kẻ nữ chẳng thể trì nổi Đại Chân Ngôn thì tùy theo sức mà thọ trì các Chân Ngôn này vậy. Lại nói mỗi một Chân Ngôn là :

1- Chân Ngôn Tâm Phật Tâm:

- Án , tát phạ đát tha nghiệt đa một đệ(9 Thế Giới Hội của Như Lai Tỳ Lô Giá Na). Bát-la phạ la vĩ nga đa bà duệ(4 Trí Như Lai). Xả ma dã bà-phạ minh(Tất cả Trí của Như Lai)

Bà nga phạ để tát phạ bá bế tỳ-dược(Tất cả Trí của 4 Trí). Sa-phạ sa để bà phạ đổ mẫu nễ mẫu nễ(37 Tôn). Vĩ mẫu nãnh tả lệ(Tất cả Trí của 37 Tôn). Tả la nãnh bà dã vĩ nga đế(16 Tôn Đời Hiền Kiếp). Bà dã hạ la ni(Tất cả Trí). Mạo địa mạo địa(Độ chúng sanh) Mạo đà dã mạo đà dã(Ban Trí Tuệ cho chúng sanh) Một địa lị một địa lị(Ban thuốc tốt lành cho chúng sanh) Tát phạ đát tha nghiệt đa(Ban trân bảo ẩm thực cho chúng sanh) Hột-lị nãi gia túc sắt-tai, sa-phạ hạ(Ban an vui cho chúng sanh)

(OM- SARVA TATHÀGATA MÙRTTE - PRAVARA VIGATA BHAYE - ‘SAMAYA SVAME - BHAGAVATI SARVA PÀPE BHYAH -VÀSTIRBHAVATU MUNI MUNI - VIMUNI CALE -CALANA BHAYA VIGATE - BHAYA HÀRANI - BODHI BODHI - BODHIYA BODHIYA - BUDHILI BUDHILI - SARVA TATHÀGATA - HRDAYA JUSTAI SVÀHÀ

2- Chân Ngôn Nhất Thiết Phật Tâm Ấn:

- Án, phạ nhật-la phạ để(Chư Phật 3 Đời) Phạ nhật-la bát-la để sắt-xỉ đế, truật đệ. Tát phạ đát tha nga đa mẫu nại-la(Tất cả Trí Ấn thành tựu 6 Ba La Mật) Địa sắt-xá nẵng địa sắt-xỉ đế ma hạ mẫu đát lệ, sa-phạ hạ (Thành tựu sự linh nghiệm của tất cả các Pháp ngay trong đời này).

(OM- VAJRA VATI - VAJRA PRATISTITE ‘SUDDHE. SARVA TATHÀGATA MUDRA - ADHISTANA ADHISTITE MAHÀ MUDRE SVÀHÀ).

3- Chân Ngôn Quán Đảnh :

- Án, mẫu nãnh mẫu nãnh(Tất cả Như Lai đều tập hội) Mẫu nãnh phạ lệ(Tuôn ra nước Trí) A tỵ tru tả đổ hàm(Tất cả Như Lai duỗi cánh tay màu vàng) Tát phạ đát tha nghiệt tha(Dùng nước Trí rưới lên đảnh đầu) Tát phạ vĩ nễ-dã tỵ sái tứ diệm(Tẩy rửa 160 sở tri chướng phiền não trong thân) Ma hạ phạ nhật-la hạ phạ tả (Vĩnh viễn cắt đứt tất cả khổ của sanh tử) Mẫu nại-la mẫu nại-lị đới(Nhập vào Ta) Tát phạ đa tha nga đa hột-lị nãi dạ địa sắt-xỉ đa, phạ nhật-lệ, sa-bà hạ(Ngang bằng với Thân tràn khắp Pháp Giới của Như Lai).

(OM- MUNI MUNI - MUNI VARE - ABHISIMCA TUMAM - SARVA TATHÀGATA - SARVA VIDYA ABHISEKAI - MAHÀ VAJRA KAVACA - MUDRA MUDRITEH - SARVA TATHÀGATA HRDAYA ADHISTITA VAJRE SVÀHÀ).

4- Chân Ngôn Quán Đảnh Ấn:

- Án, a mật-lật đa phạ lệ(Chư Phật tập hội tuôn ra nước Trí xoa đỉnh đầu hộ niệm thành tựu) Phạ la phạ la(Thành tựu Bồ Đề) Bát-la phạ la vĩ truật đệ(Thành tựu Đẳng Chánh Giác) Hồng (Cắt đứt phiền não của chúng sanh) Hồng(Cắt đứt sở tri chướng của chúng sanh) Phát tra, phát tra, sa-bà hạ(Ta, Người thành tựu Niết Bàn).

(OM- AMRTA VARE - VARA VARA - PRAVARA VI’SUDDHE - HÙM - HÙM - PHAT PHAT SVÀHÀ).

5- Chân Ngôn Kết Giới:

- Án, a mật-lật đa vĩ lộ chỉ nãnh(Thành ngọn lửa nóng) Nghiệt bà tăng la khất-sái ni a yết sái ni(Thành lưới sắt vây quanh bức tường thành bằng sắt) Hồng (Tịch trừ quỷ Thần) Hồng(Sát hại hết thảy Quỷ Thần) Phát tra phát tra(Tất cả Quỷ Thần đều thành tựu, hạt bụi nhỏ cũng chẳng thể sanh) Sa-bà ha(Thành tựu).

(OM- AMRTA VILOKINI - GARBHA SAMRAKSANI HÙM - HÙM - PHAT PHAT - SVÀHÀ).

6- Chân Ngôn Phật Tâm:

- Án, vĩ ma lê(Trí Chân Ngôn tràn khắp Pháp Giới) Nhạ dã phạ lệ a mật-lật đế hồng hồng hồng hồng phát tra phát tra(Tất cả chúng sinh trong 3 cõi đều có Phật tánh, thành tựu)

(OM- VIMALE - JAYA VARE AMRTE HÙM HÙM HÙM HÙM PHAT PHAT PHAT PHAT - SVÀHA)

7- Chân Ngôn Tâm Trung Tâm :

- Án, bả la bả la tam bạt la tam bạt la(Trí Tâm của Như Lai lợi ích cho chúng sinh) Ấn nại-lị dã vĩ thú đà nãnh hồng hồng lỗ lỗ tả sơ(Tâm, Phật, Chúng sinh cả 3 diều này không có khác nhau) Sa-bà ha.

(OM- BHARA BARA SAMBHARA SAMBHARA - INDRIYA VI’SODHANE HÙM HÙM RURU CALE - SVÀHÀ).

Đức Phật bảo Bồ Tát Diệt Ác Thú rằng : "Chân Ngôn này có tên là Tùy Cầu Tức Đắc Chân Ngôn, hay trừ tất cả tội nghiệp đẳng chướng, hay phá tất cả khổ của con đường uế ác và diệt nẻo ác. Chân Ngôn này được vô số ức căng già sa câu đê trăm ngàn chư Phật cùng nhau diễn nói. Người tùy vui thọ trì sẽ được Trí Ấn của Như Lai ấn lên, hay phá con đường uế ác cho tất cả chúng sanh, hay nhanh chóng đến cứu nạn khổ khiến cho chúng sanh đang bị đọa trong biển sinh tử được giải thoát. Vì chúng sinh đoản mạng, kém phước không có người cứu hộ cùng với các chúng sanh ưa tạo mọi nghiệp ác, mà diễn nói.

Lại nữa Chân Ngôn này khiến cho các loại chúng sanh ở mọi nơi khổ đau như : Địa Ngục, nẻo ác hoặc đang lưu chuyển trong biển sanh tử, chúng sanh kém phước, kẻ bất tín đánh mất Chánh Đạo… đều được giải thoát".

Bấy giờ Đức Phật bảo: "Này Diệt Ác Thú ! Nay, Ta đem Chân Ngôn này phó chúc cho ông, dùng uy lực của Chân Ngôn này để cứu độ tất cả chúng sanh trong biển khổ .

Này Diệt Ác Thú ! Ông nên trì niệm, quán hạnh thủ hộ đừng để cho quên mất. Này Diệt Ác Thú ! Nếu có người trong phút chốc được nghe Chân Ngôn này, thì 1000 kiếp trở lại, bao nhiêu nghiệp ác chướng nặng đã tạo tác gom chứa, đáng chịu mọi thứ sanh tử lưu chuyển nơi Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh, Diêm La Vương quốc, thân A Tu La, Dạ Xoa, La Sát, Quỷ Thần, Bố Đan Na, A Ba Sa Ma La, muỗi mòng, rồng, rùa, chó, trăn, rắn, tất cả loài chim, các loài thú mạnh, tất cả loài hàm linh cựa quậy cử động cho đến thân của loài trùng, kiến ... thì chẳng còn thọ nhận trở lại nữa, luôn được chuyển sanh ở cùng chỗ với vị Bồ Tát Nhất Bổ Xứ của chư Phật Như Lai. Hoặc được sanh vào nhà Bà La Môn, hoặc được sanh vào nhà giàu có thù thắng.

Này Diệt Ác Thú ! Người này được sanh vào những nơi cao quý như trên đều do nghe được Chân Ngôn này, cho nên nơi chuyển sanh đều được thanh tịnh, không bị thoái chuyển.

Này Diệt Ác Thú ! Cho đến được đến nơi tối thắng của Bồ Đề Đạo Trường, đều do khen ngợi công đức của Chân Ngôn này. Vì nhân duyên ấy nên có tên là Chân Ngôn Tùy Cầu Tức Đắc.

Tiếp nói các Mật Ấn Mật tưởng năm Như Lai

Trước, dùng Ấn ấn tim Rồi, liền đặt trên đảnh

Tiếp Tam Tinh trên trán Tiếp ấn hai lông mày

Bên phải rồi bên trái Đây tức đã kết xong

Thân Ta thành Biến Chiếu Ở lưỡi quán Kim Cang

Trước, chắp tay Kim Cang Liền thành Kim Cang Phược

Nhẫn Nguyện (2 ngón giữa) như tháp nhọn

Tấn Lực (2 ngón trỏ) phụ ở lưng

Nhẫn Nguyện đứng như bát Co ngược như hình Báu

Dời co như hoa sen Hợp mặt trong lòng tay

Hợp Đàn Tuệ (2 ngón út) Thiền Trí (2 ngón cái)

Liền thành Ấn bí mật Ngữ Bí Mật Ấn này

Là Mật ở trong Mật Là Bí (Sâu Kín) ở trong Bí

Chẳng truyền kẻ không A (Phải là bậc A Xà Lê mới truyền)

A xà Lê nếu biết Pháp, Đệ Tử, tùy Nghi

Mới làm Pháp Đàn ấy Như Nghi quỹ Pháp Hoa.

Bấy giờ, Đức Phật bảo Bồ Tát Diệt Ác Thú: "Ông hãy lắng nghe ! Ta sẽ vì ông mà diễn nói. Thọ trì Chân Ngôn này cũng vì các chúng sanh đoản mạng mà nói. Nên tắm gội, mặc áo mới sạch, ngày ngày trì niệm 9 biến thì chúng sanh đoản mạng kia lại được tăng tuổi tho, vĩnh viễn xa lìa bệnh khổ. Tất cả nghiệp chướng thảy đều tiêu trừ, giải thoát khỏi sự khổ đau của tất cả Địa Ngục. Các loài chim bay, súc sanh, hàm linh một lần được nghe Chân Ngôn này qua lỗ tai, thì khi mãn thân này, chẳng thọ nhận lại thân đó nữa.

Nếu gặp bệnh ác, nghe Chân Ngôn này liền được vĩnh viễn xa lìa. Tất cả các bệnh cũng được tiêu diệt. Nghiệp đáng bị đọa vào nẻo ác cũng được trừ diệt, liền được vãng sanh về Thế Giới tịch tĩnh, chẳng còn thọ thân trong bào thai mà được hóa sanh trong hoa sen, tất cả nơi sanh đều là hoa sen hóa sanh. Dù sanh ra ở nơi nào, đều ghi nhớ chẳng quên, thường biết Túc Mạng.

Nếu có người trước kia đã gây tạo ra tất cả tội nghiệp cực nặng. Mạng nương theo nghiệp ác ấy đáng bị đọa vào Địa Ngục, hoặc đọa vào cõi súc sanh, cõi Diêm La Vương, cõi Ngạ Quỷ cho đến đọa vào Địa Ngục Đại A Tỳ, hoặc sanh vào loài thủy tộc, hoặc mang thân cầm thú hay thân của loài khác… mà nghe được Tên của Chân Ngôn này, cho đến một chữ qua tai một lần thì chẳng bị thọ nhận sự khổ não của các cõi đã nói như vậy. Nghiệp chướng thảy đều tiệu diệt, mau chóng sanh về cõi Phật.

Nếu có người gần gũi người trì một chữ, thì kẻ ấy được Đại Niết Bàn, lại tăng thọ mạng, được sự khoái lạc thù thắng. Khi bỏ thân này, liền được vãng sanh về các cõi có mọi thứ vi diệu, thường cùng chư Phật tụ họp tại một nơi. Tất cả Như Lai luôn vì kẻ ấy diễn nói nghĩa vi diệu. Tất cả Thế Tôn liền thọ ký cho kẻ ấy. Thân thể của kẻ ấy, tỏa ánh sáng chiếu soi tất cả cõi Phật. 

Nay Ta chỉ lược nói công lực của Chân Ngôn này như vậy. Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện đối với Chân Ngôn niệm niệm chẳng sanh nghi. Hoặc có kẻ trai lành, người nữ thiện sinh Tâm nghi hoặc, thì đời đời chẳng được sự linh nghiệm của Chân Ngôn. Đời này bị bệnh Bạch Lại (lác, cùi hủi).

Ta vì lợi ích cho chúng sanh mới nói Chân Ngôn này. Vì chúng sanh bần cùng hạ tiện, để lại Báu Ma Ni Như Ý này. Đây là Pháp Tạng thâm sâu, tất cả Trí Ấn của Như Lai Tỳ Lô Giá Na Người trì niệm cần phải cung kính như cung kính Đức Phật.

NGHI QUỶ CHÂN NGÔN TÙY CẦU TỨC ĐẮC

Nước Đại Đường, chùa Thanh Long, Nội Cúng Dường Sa Môn Đàm Trinh tu sửa, tạo dựng bản Chân Ngôn ghi trên bia.

Chân Ngôn Thất Thập Thiên :

- Nẵng mạc tam mạn đa mạo đa nam. Án, tát nhật phạ đệ bà đa nan duệ kế cơ.

Nguyên Vĩnh, năm thứ hai, tháng 11, ngày mồng chín , giờ Ngọ viết xong.

Mặt Tây của viện Liên Hoa duyệt xong. Cực Nguyệt (?) ngày 28. Đại Sư Trừng Giác

30/09/1997

PHÁP MINH VƯƠNG SÁM HỐI

ĐẠI ĐÀ LA NI ĐẠI TÙY CẦU TỨC ĐẮC

Mật Tạng Bộ 3 No.1156A (Tr.649 - Tr.650)

Việt dịch : Huyền Thanh

rTám Ấn Tùy Cầu:

1- Ấn Sám Hối hoặc Ấn Bồ Đề Tâm:

Ngửa 2 bàn tay. Tay phải: Đem ngón vô danh quấn phía sau lưng ngón giữa, lấy ngón trỏ móc đầu ngón vô danh. Tay trái cũng như thế. Đem 2 ngón cái đều vịn trên móng ngón út, 2 ngón giữa cùng trụ dính nhau. Ngửa lòng bàn tay hướnuug lên trên đặt ngay trái tim, tụng Chú .

2- Khế Bồ Đeà Căn Bản, cũng có tên là Ấn Thọ Ký Đảnh :

Dựa theo Ấn trước. Sửa 2 ngón út giao nhau trong lòng bàn tay. Hai ngón cái, bên trái đè bên phải, đều vịn gốc ngón và đè trên móng ngón út. Hai ngón trỏ vịn lằn lóng trên của lưng ngón giữa.

3- Khế Như Lai Bình Đẳng, còncó tên là Ấn Khế Thí Thanh Lương:Tay Phải : Duỗi thẳng 3 ngón trỏ, giữa, vô danh. Đem ngón cái vịn lằn thứ nhất trên lưng ngón út. Không dùng tay trái.

- Khế Như Lai Thanh Tịnh : Trước tiên chắp 2 tay lại. Hai ngón út cài chéo nhau trong lòng bàn tay, bên phải đè bên trái. Cả 3 ngón trỏ, giữa, vô danh đều hợp dính đầu ngón. Hai ngón cái cũng hợp đầu ngón, dấu trong lòng bàn tay.

4- Khế Như Lai Tiêu Nhất Thiết Ác Độccũng có tên là Khế Nhất Thiết Hoan Hỷ:

Y theo Ấn Bình Đẳng. Giao 2 cổ tay, phải đè bên trái. Ngửa lòng bàn tay hướng lên trên. Nếu bên ngoài có việc thì hồi hướng ra ngoài từ chối. Đây là Khế Diệt Độc.

5- Khế Nhất Thiết Trùng(Loài trùng) Đắc Phật KýÙ(Thọ ký)

Trước tiên chắp 2 tay lại. Dựng đứng 2 ngón út, co 2 ngón vô danh vào trong lòng bàn tay, 2 ngón giữa cài ngược nhau, bên phải đè bên trái trong lòng bàn tay. Hai ngón trỏ đều móc 2 ngón giữa. Hai ngón cái đều vịn bên cạnh lằn giữa của ngón trỏ. Hai ngón út đều cong lại sao cho đừng dính vào ngón vô danh.

6- Khế Bí Mậtcũng có tên là Ấn Tâm Trung:

Trước tiên chắp 2 tay lại. Các ngón trỏ, vô danh, út cùng cài ngược nhau trong lòng bàn tay. Đem dấu đầu ngón cái bên trong lòng bàn tay và vịn trên móng cả 3 ngón: trỏ, vô danh, út).

7-Khế Giải Thoát cũng có tên là Khế Hộ Niệm Thập Lực:

Trước tiên chắp 2 tay lại, để ngay trái tim. Hơi co 3 ngón trỏ, vô danh, út vào trong lòng bàn tay sao cho các móng tay chung lưng nhau. Đem dấu đầu ngón cái vào trong lòng bàn tay và vịn bên cạnh lằn giữa của ngón vô danh.

8- Khế Như Lai Tâm:

Trước tiên ngửa lòng bàn tay phải. Tĩnh Tâm quán. Đem ngón cái vịn bên cạnh lằn giữa của ngón vô danh. Bốn ngón còn lại nắm thành quyền.

Đức Phật bảo các Đại Chúng rằng: "Sám Hối như vậy là y theo Bồ Đề sanh tất cả chư Phật. Lúc phát Tâm Bồ Đề, tự mình chẳng khởi ý thấp kém, chẳng che dấu các tội, tức là Tâm Bồ Đề. Cho nên Thiện Nam Tử, phải biết Khế Bồ Đề Tâm này chẳng thể luận bàn. Tại sao vậy ? Ta nhớ về thời quá khứ , Ta tu Hạnh Bồ Tát trải qua vô lượng kiếp, gom các công đức, vượt qua vô lượng kiếp. Tu học khổ hạnh như vậy trải qua hằng hà sa kiếp nhưng rốt ráo vẫn không ghi được một điều nào. Tại sao thế ? Vì Ta có tâm nguyện thấp kém và còn tội dư thừa (Hữu dư tội) nên kiếp kiếp sám tạ (Sám hối cầu xin tha tội) vẫn chẳng hết được.Vì Sám không hết, nên dẫn đến tai họa. Vì tội lỗi của quá khứ nên dẫn đến việc gây ra chướng nạn, khiến cho chẳng được thành Phật. Do tự tâm của Ta chân thật cầu chư Phật, phát ra hàng ngàn lời nguyện. Nhờ phát nguyện để cầu xin, nên trong khoảng khắc Tĩnh Trú liền được Khế này, tên là Nhất Thiết Chư Phật Đại Bồ Đề Tâm. Ta kết Khế này, lập Sám Hối ngay thì trong một thời, đều dẹp tan được hết thảy chướng nạn. Mười phương chư Phật thọ ký, ban hiệu cho Ta trong tương lai là THÍCH CA MÂU NI,có đầy đủ mười Lực và bốn Vô Sở Úy.

Này Thiện Nam Tử ! Giả sử có chúng sanh làm cho thân của 10 vị Phật đổ máu, thân của 100 vị Phật đổ máu, thân của 1000 vị Phật đổ máu, thân của một vạn vị Phật đổ máu, thân của trăm ngàn ức vị Phật đổ máu, cho đến thân của hằng hà sa số vị Phật đổ máu, thân của bất khả số bất khả số vị Phật đổ máu, nhưng khi kết Ấn này của Ta, tụng Đà La Ni Tùy Cầu Tức Đắc ba biến, cứ một câu một biến một lần xưng danh tự. Nếu kẻ đó còn có tội dư thừa lộ ra với chúng sanh, thì không thể có chuyện này. Tại sao vậy ? Nếu có tội còn dư thừa lộ ra với chúng sanh thì tất cả chư Phật liền mất Bồ Đề.

Này Thiện Nam Tử! Nếu có một người khởi tâm Từ Bi kết Khế này của Ta, rộng vì Đại Thiên xưng nói. Vì chúng sanh nâng Ấn, chỉ khắp 10 phương Giới thì tất cả tội chướng, bệnh, khổ não của hết thảy chúng sanh đều tiêu diệt, trong một thời không còn dư sót, liền chứng Sơ Địa mà tất cả chúng sanh cũng chẳng hay biết.

Nếu vào Ma cung, kết trì Khế này thì Ma Vương thuận phục, nhớ lại việc xưa mà buông bỏ nghiệp Ma.

Nếu vào cung vua, kết trì Ấn này thì nhà vua liền khởi Từ Bi nhẫn, dùng Chánh pháp trị người

Nếu gặp nạn về vua chúa, vào châu huyện bị gông cùm xiềng xích. Kết trì Ấn này thì được giải thoát khỏi nạn gông cùm xiềng xích, vua quan tự khai ân, cả hai bên được hòa vui.

Nếu có người ngày ngày tác việc này, thì tất cả thế gian không có việc gì không điều thuận được, Long Vương vui vẻ hay tuôn mưa xuống. Hết thảy kẻ có tâm tàn độc trong tất cả Ttế gian đều hòa vui.

Nếu vào nơi chiến đấu, đùng Ấn này chỉ vào, thì quân của hai bên liền hòa giải, không một bên nào bị tổn hại.

Này Thiện Nam Tử ! Chư Thiên ở 10 phương thế giới, cộng lại cả vạn vị cũng chẳng bằng sức lực của một vị Na La Diên. Các Na La Diên ở 10 phương thế giới, cộng lại cả vạn vị cũng chẳng bằng sức lực của một vị Bồ Tát. Tất cả Bồ Tát ở 10 phương thế giới, cộng lại cả vạn vị cũng chẳng bằng sức lực của một sợi lông của một Đức Như Lai. Này Thiện Nam Tử ! Giả sử một vị Phật hay tác mọi thứ sức lực chẳng thể luận bàn cũng chẳng giống như sức lực của vô lượng chư Phật. Tại sao thế ? Vì tất cả Như Lai cùng trụ trì, cùng tùy hỷ, cùng ấn khả cho nên tất cả Như Lai đều từ đây sinh ra. Bồ Tát, Kim Cang cùng hỗ trợ cho đến Bồ Đề không có Nhị Kiến. Này Thiện Nam Tử ! Nếu nói về công dụng của Khế này thì trọn cả kiếp cũng chẳng thể nói hết được, cũng chẳng thể luận bàn được. Nếu có chúng sanh muốn đến Phật Vị, khởi đầu được chút ít về Khế này thì vẫn hơn Bậc Sơ Địa, vì Bậc này cũng chưa nghe biết, cũng chẳng thể nói đủ được.

Căn Bản của Bồ Đề sanh từ một Tâm, sanh từ một Pháp, sanh từ Dị Kiến, sanh từ Đoạn Ái Tăng, sanh từ sự xa lìa nghiệp giết chóc, sanh từ Tĩnh Thổ vô thủy, sanh từ Pháp quyết định, sanh từ Chất trực vô vi, sanh từ sự nhu hòa thuận nhẫn, sanh từ sự dũng mãnh tinh cần, sinh từ lòng thương xót tất cả chúng sinh, sinh từ Đại Từ Bi, sanh từ sự không sợ hãi (vô úy), sanh từ sự xa lìa khổ đau, sanh từ sự chẳng buông bỏ chúng sanh, sanh từ sự kính dưỡng cha mẹ, sanh từ sự hiếu thuận với sư trưởng, sanh từ tâm chẳng nóng nảy, sanh từ tâm chẳng hèn kém, sanh từ sự tĩnh ba nghiệp. Này Thiện Nam Tử ! Đây là Bồ Đề Căn Bản Khế.

Thiện Nam Tử ! Tất cả Thiên Tiên, Long Thần, bốn vị Thiên Vương, Kim Cang, Thanh Văn, Bích Chi Phật, Thánh Chúng của bốn Quả với Bồ Tát Ma Ha Tát hành việc của Bồ Tát mà đạt được Tiệm Đáo Giả (tiến dần dần đến quả vị Phật) thì không bao giờ có việc đó . Tại sao thế ? Như việc này là hạnh của chư Phật, trừ khi Đức Phật dùng năng lực bên ngoài (ngoại năng) hành việc này, tức là thân Phật chẳng thể luận bàn, cho nên đây chẳng phải là việc của Bồ Tát. Này Thiện Nam Tử! Cho đến Bồ Tát, Kim Cang chẳng trì Khế này, giả sử đạt đến Pháp Vân Địa cũng chẳng được thọ ký. Tại sao thế ? Vì không có Bồ Đề vậy.

Thiện Nam Tử! Nếu có người hoặc tu một Pháp, trăm Pháp, ngàn vạn Pháp, bất khả số Pháp mà chẳng trì Ấn này thì không có phần của Pháp, chúng Thánh chẳng vui, Thiên Thần chẳng giúp. Sở tu linh nghiệp, chỉ được thông chút ít, cùng làm chung với Ma Vương, cũng chẳng phải Chánh Sĩ (Bậc tu hành chân chính) . Nếu trì Khế này không gián đoạn thì tịnh và bất tịnh, trì và chẳng trì, cúng dường và chẳng cúng dường, cho đến gây tạo đủ các nghiệp bất thiện, mà có thể ở trong một niệm tạm nhớ Khế này, giữ gìn chẳng quên, ắt sau khi chết sẽ sanh về cõi Trời Thiện Trụ, chứng Bồ Đề Vương, cũng được làm Quán Đảnh Kim Luân Vương của Đại Thiên Giới. Nếu hay tĩnh thân tâm, một ngày 12 thời, mà 10 thời tạo ác, chỉ có hai thời ghi nhớ suy tư về Niết Bàn chẳng sai lầm, chẳng thoái lui thì nhục thân (thân máu thịt) liền chứng Bồ Đề, bay bổng dạo chơi (du đằng) khắp 10 phương, giống như Phật, không sai khác.

Thiện Nam Tử ! Như Khế này là nguồn gốc của hết thảy Ấn Khế trong 10 phương thế giới. Thời Đại Thần, Đại Dược Xoa Vương, Bồ Tát, Kim Cang, tám Bộ Trời Rồng thường đến vệ hộ như Phật không khác, chỉ trừ Đức Như Lai ra, không ai có được lực này. Chư Hữu sở tu, liền tự trì, lại cũng không có thiếu sót chút nào, thảy đều giải rõ hết cả Trí Tuệ Môn văn Phật Trí Giả (Bậc theo môn Trí Tuệ nghe về Trí Tuệ của Phật) . Trí của Bồ Tát cũng chẳng thể nói đủ được.

Khế này không có bản lưu hành, bí mật chẳng được nói ra. Như thần thông này gia hộ thì đã bảo cho mọi người, tuy thấy chúng mà chẳng thấy người xưa. Tại sao thế ? Vì mạng căn mỏi mệt vậy. Thần thông đắc được, chỉ tự mình biết thôi.

* Bát Gia Bí Lục Ghi rằng: Đại Tùy Cầu Bát Ấn Pháp. Một quyển (Duy Cẩn- Nhân Vận).

Bởi vì đảm nhận Pháp này. Diên Bảo năm thứ ba, năm Ất Mão, tháng Giêng ghi chép xong. Kim Cang Thừa, Phật Tử Tỉnh Nghiêm (37 tuổi).

Thiên Minh cải nguyên, năm Tân Sửu, tháng năm nhuận. Dùng Tạng bản của Vũ Trị Tuệ Tâm viện, viết chép xong. Viện Trí Tích Đông Võ Từ Nhẫn.

Hưởng Hòa cải nguyên, mùa Thu năm Dậu, tháng bảy. Dùng Bản này chép xong, liền đối chiếu với Quốc Tự (chữ Hán) sửa chữa và khắc lên bản gỗ để in. Phong Sơn Sa Môn Khoái Đạo ghi.

Hưởng Hòa năm thứ ba, tháng tư, ngày mồng năm. Lúc trời rạng sáng, cất bút ghi: Từ Thuận. 

10 /07/ 1998

TÔNG QUYẾN TĂNG CHÁNH

ở nơi truyền khẩu của Đường Quốc Sư

Mật tạng Bộ 3 No 1156 B (Tr. 650 - 651)

Việt dịch : Huyền Thanh

1- Ấn Căn Bản Đại Tùy Cầu:

Hai tay cài chéo các ngón bên trong lòng bàn tay, rồi nắm lại thành quyền (Nội tương xoa). Hợp dựng 2 ngón giữa, đặt 2 ngón trỏ phía sau lưng 2 ngón giữa, rồi hơi co lại như móc câu. Hợp dựng 2 ngón út, 2 ngón cái rồi hơi co lại, liền thành.

Tiếng Phạn là : Phạ nhật la (Vajra). Đường dịch là : Ngũ Cổ Kim Cang Xử (Chày Kim Cang có 5 chỉa móc).

2- Chân Ngôn Nhất Thiết Như Lai Tâm :

Úp tay trái, ngửa tay phải sao cho dính lưng nhau. Ngón giữa trợ lưng, móc cứng nhau như hình cây búa, liền thành.

Tiếng Phạn là : Bạt La Thú (Para'sù). Đường dịch là : Việt Phủ (Cây búa). An ghi là : Dựng lưng 2 bàn tay, ngón giữa cùng móc nhau.

3- Chân Ngôn Ấn Nhất Thiết Như Lai Tâm :

Hai tay cài chéo các ngón bên trong lòng bàn tay, rồi nắm lại thành quyền. Dựng 2 ngón giữa dính đầu nhau, rồi co lại khiến cho tròn trịa, liền thành.

Tiếng Phạn là : Bả La Bá Xả (Parapà'sa). Đường dịch là: Sách (Sợi dây).

4-Chân NgônẤn Nhất Thiết Như Lai Kim Cang Bị Giáp :

Chắp hai tay lại. Co lóng giữa của 2 ngón trỏ khiến bằng phẳng, đồng thời 2 đầu ngón dính nhau , liền thành.

Tiếng Phạn là : Kiệt Nga (Khãnga). Đường dịch là : Kiếm (cây kiếm).

5- Chân Ngôn Ấn Nhất Thiết Như Lai Quán Đảnh :

Hai tay cài chéo các ngón bên ngoài, rồi nắm lại thành quyền (Ngoại tương xoa). Hợp dựng 2 ngón vô danh, đem 2 ngón út giao nhau, liền thành.

Tiếng Phạn là : Chước Yết La (Cakra). Đường dịch là : Luân (bánh xe).

6- Chân Ngôn Ấn Nhất Thiết Như Lai Kết :

Hai ngón cái vịn trên móng 2 ngón út. Dựng hợp các ngón còn lại như hình Tam Kích Xoa (cây giáo có 3 chỉa) liền thành.

Tiếng Phạn là : Để lị Thú La (Tri'sùla). Đường dịch là : Tam Cổ Xoa.

7- Chân Ngôn Ấn Nhất Thiết Như Lai Tâm Trung Tâm :

Hai tay cài chéo các ngón bên ngoài, rồi nắm lại thành quyền. Dựng 2 ngón trỏ trụ đầu ngón dính nhau như hình báu. Kèm cứng 2 ngón cái, liền thành.

Tiếng Phạn là : Tiến Đá Ma Ni (Cinta Mani). Đường dịch là : Bảo (viên ngọc báu Như Ý).

8- Chân Ngôn Ấn Nhất Thiết Như Lai Tùy Tâm :

Ngửa tay phải, đặt ngay trái tim, dương 5 ngón tay. Đem tay phải úp trên tay trái cùng hợp nhau bằng phẳng, liền thành.

Tiếng Phạn là : Ma Ha Vĩ Nễ-Dã Đà La Ni (Maha Vidya Dhàrani). Đường dịch là : Đại Minh Tổng Trì .

Đại Sư Từ Giác nói Ấn Đại Tùy Cầu chính là

Ấn Nội Phược Ngũ Cổ.

* Ấn Tôn Thắng Phật Đảnh :

Chắp tay giữa rỗng, co 2 Phong (2 ngón trỏ) sao cho móng ngón tay cùng đối nhau. Đem 2 Không (2 ngón cái) vịn bên cạnh 2 Phong (2 ngón trỏ) như thế búng tay.

* Ấn Văn Thù Căn Bản :

Chắp tay giữa rỗng, úp 2 Hỏa (2 ngón giữa) vịn 2 Thủy (2 ngón vô danh) sao cho đầu ngón trụ dính nhau. Co 2 Phong (2 ngón trỏ) vịn ngay trên 2 Không (2 ngón cái) .

Lại nói Nội Phược:Hợp dựng 2 Địa (2 ngón út). Co 2 Phong (2 ngón trỏ) đặt nằm ngang trên 2 Không (2 ngón cái) .

* Ấn Mãn Túc Cú :

Hợp 2 Địa (2 ngón út) như cây kim. Hai Thủy (2 ngón vô danh) móc nhau bên trong lòng bàn tay. Hai Hỏa (2 ngón giữa) như hình báu. Co 2 Phong (2 ngón trỏ) vịn trên 2 Không (2 ngón cái).

Chân Ngôn là : A Vĩ la hồng khiếm

(AVIRA HÙM KHAM)

Trinh Quán năm thứ 19, tháng ba, ngày 12 .

Truyền Chân Ngôn Đại Bi Tam Muội Gia là :

" Quán Âm bát nột mang, sâm mãn đá cốt đà nẫm- Át duệ thiền tá gia- Tát la-bả tát đát-bả, xả dã- Tát đá, Tát-bả ha".

12/ 07/ 1997

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567