Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài 04: Kinh Thủ Lăng Nghiêm (giải nghĩa)

29/10/201608:53(Xem: 5824)
Bài 04: Kinh Thủ Lăng Nghiêm (giải nghĩa)

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM

GIẢI NGHĨA

Toàn Không

(Tiếp theo)

 

KINH VĂN 2:

BẢY CHỖ TÌM TÂM

1). PHÁ CHẤP TÂM TRONG THÂN.

- Bạch Thế Tôn! Tất cả mười loại chúng sanh trên thế gian (1) đều cho tâm thức ở trong thân; nay con nhận được mắt con ở trên mặt con và tâm thức ở trong thân, như mắt Thanh Liên Hoa của Như Lai ở trên mặt Như Lai vậy.
     Phật bảo:
- A Nan! Nay ông ngồi trong giảng đường của Như Lai, nhìn thấy rừng Kỳ Đà ở chỗ nào?
- Bạch Thế Tôn! Giảng đường rộng rãi thanh tịnh này trong vườn Cấp Cô Độc, còn rừng Kỳ Đà thì ở ngoài giảng đường.
- A Nan! Bây giờ ông ở trong giảng đường trước tiên thấy gì?
- Bạch Thế Tôn! Con ở trong giảng đường trước thấy Như Lai, sau thấy đại chúng, rồi nhìn ra ngoài mới thấy rừng cây.
- A Nan! Ông thấy rừng cây, do nhân nào được thấy?
- Bạch Thế Tôn! Vì cửa sổ giảng đường mở trống nên con ở trong thấy suốt bên ngoài.
     Phật bảo A Nan:
- Như ông vừa nói, thân ở trong giảng đường, nhờ cửa mở trống nên thấy rừng cây; mà có chúng sanh nào ở trong giảng đường chẳng thấy Như Lai, lại thấy rừng cây bên ngoài chăng?
- Bạch Thế Tôn! Ở trong giảng đường chẳng thấy Như Lai, lại thấy rừng cây bên ngoài thì chẳng đúng.
- A Nan! Ông cũng như vậy, linh tâm (2) của ông tất cả sáng tỏ, nếu tâm sáng tỏ hiện tiền của ông thật ở trong thân thì trước tiên phải thấy rõ trong thân. Vậy có chúng sanh nào trước thấy trong thân rồi sau mới thấy vật bên ngoài chăng? Dẫu chẳng thấy được tim, gan, tỳ, vị, thì các chỗ: móng ra, tóc dài, gân chuyển cũng phải thấy chứ, sao lại chẳng thấy? Nếu trong thân còn chẳng thấy thì làm sao thấy vật bên ngoài? Cho nên ông nói "Cái tâm giác tri (3) trụ ở trong thân" là chẳng đúng.


GIẢI NGHĨA:

(1) Mười loại chúng sanh trên thế gian: Là:

1) Loài sinh ra từ trứng (noãn sinh): Như chim, rùa…

2) Loài sinh ra từ bào thai (thai sinh): Như người, súc vật…

3) Loài sinh ra từ nơi ẩm thấp (thấp sinh): Như côn trùng, muỗi mòng, vi khuẩn, đom đóm…

4) Loài sinh ra do sự biến hóa (hóa sinh): Như ve sầu. bướm… biến hóa từ loài khác; các vị trời, thần, ma qủy… bỗng nhiên xuất hiện không qua giai đoạn phôi thai nào cả.

5) Loài có hình sắc (hữu sắc): Như các vị trời hữu sắc có sắc đẹp.

6) Loài có tư tưởng (hữu tưởng): Như các vị trời có tư tưởng.

7) Loài chẳng phải có hình sắc (phi hữu sắc): Như các vị trời không sắc.

8) Loài chẳng phải không có hình sắc (phi phi hữu sắc): Như các vị trời chẳng phải có sắc hay không sắc.

9) Loài chẳng phải có tư tưởng (phi hữu tưởng): Như các vị trời không có tư tưởng.

10) Loài chẳng phải không có tư tưởng (phi phi hữu tưởng): Như các vị trời chẳng phải có tưởng hay không tưởng.

(2) Linh tâm:Linh là linh hiển, thần kỳ, tâm là nhận thức các điều về tâm lý; Linh tâm là nhận ra những điều kỳ bí.

(3) Tâm giác tri: Là tâm nhận thức hiểu biết.

     Lần thứ nhất, Tôn giả A Nan Đà thưa với Đức Phật rằng: “Tất cả mười loại chúng sanh trên thế gian đều cho tâm thức ở trong thân. Nay con nhận biết mắt con ở trên mặt con và tâm thức ở trong thân”, đây là lần đầu Tôn giả cho là tâm thức ở trong thân, tức chấp tâm ở trong người.

     Đức Phật hỏi: “Nay ông ngồi trong giảng đường nhìn thấy rừng Kỳ Đà ở chỗ nào, ông ở trong giảng đường trước tiên thấy gì?
     Tôn giả thưa: “Giảng đường này trong vườn Cấp Cô Độc, còn rừng Kỳ Đà thì ở ngoài giảng đường. Con ở trong giảng đường trước thấy Như Lai, sau thấy đại chúng, rồi nhìn ra ngoài mới thấy rừng cây”.

     Đức Phật hỏi tiếp: “Ông thấy rừng cây, do nhân nào được thấy?
     Tôn giả đáp: “Vì cửa sổ giảng đường mở trống nên con ở trong thấy suốt bên ngoài”.

     Đức Phật hỏi tiếp nữa: “Như ông vừa nói, thân ở trong giảng đường, nhờ cửa mở trống nên thấy rừng cây; mà có chúng sanh nào ở trong giảng đường chẳng thấy Như Lai, lại thấy rừng cây bên ngoài chăng?
     Tôn giả thưa: “Ở trong giảng đường chẳng thấy Như Lai, lại thấy rừng cây bên ngoài thì chẳng đúng”.

     Đức Phật giảng rồi hỏi phá chấp rằng: “Ông cũng như vậy, linh tâm của ông sáng tỏ, nếu tâm sáng tỏ hiện tiền của ông thật ở trong thân thì trước tiên phải thấy rõ trong thân; vậy có ai trước thấy trong thân rồi sau mới thấy vật bên ngoài không? Dẫu chẳng thấy được tim, gan, tỳ, vị, thì các chỗ: móng ra, tóc dài, gân chuyển cũng phải thấy chứ, sao lại chẳng thấy? Nếu trong thân còn chẳng thấy thì làm sao thấy vật bên ngoài (?), cho nên ông nói rằng: "Cái tâm giác tri (hiểu biết) trụ ở trong thân" là chẳng đúng”.Chúng ta thấy Tôn giả A Nan Đà chấp tâm ở trong thân nên Đức Phật nói: “chẳng đúng” vì nếu tâm ở trong thân thì phải thấy các bộ phận trong thân, nhưng tâm không hề thấy một cái gì trong thân.

2). PHÁ CHẤP TÂM NGOÀI THÂN

     A Nan cúi đầu bạch Phật:
- Con nghe lời dạy của Như Lai, ngộ được tâm con thật ở ngoài thân, tại sao? Ví như đèn thắp trong phòng thì trước phải chiếu sáng trong phòng, rồi sau mới từ cửa rọi ra ngoài sân. Tất cả chúng sanh chẳng thấy trong thân, chỉ thấy ngoài thân, cũng như ngọn đèn ở ngoài phòng chẳng thể chiếu sáng trong phòng, nghĩa này rõ ràng, chẳng còn nghi ngờ, vậy so với nghĩa lý rốt ráo của Phật chẳng sai ư?
     Phật bảo A Nan:
- Các Tỳ Kheo vừa theo ta thọ thực trong thành rồi trở về rừng Kỳ Đà. Ta đã thọ trai xong, ông thử nghĩ, trong số Tỳ Kheo, chỉ một người ăn mà các vị khác được no chăng?
- Bạch Thế Tôn! Không ạ! Tại sao? Dù các Tỳ Kheo đều là bậc A La Hán (1), nhưng cơ thể chẳng đồng, đâu thể một người ăn mà khiến cả chúng đều no.
- A Nan! Nếu tâm giác tri của ông thật ở ngoài thân thì trong ngoài khác nhau, chẳng có liên quan, hễ tâm biết thì thân chẳng biết, thân biết thì tâm chẳng biết. Nay ta đưa tay cho ông xem, trong lúc mắt thấy, tâm ông biết được chăng?
- Bạch Thế Tôn! Vâng biết.
- A Nan! Nếu thân và tâm cùng biết một lượt thì sao lại nói tâm ở ngoài thân? Nên biết, ông nói "tâm giác tri trụ ở ngoài thân" là chẳng đúng.

GIẢI NGHĨA:

(1) A La Hán: Chữ S: Arhat, P: Arahat, dịch là Sát tặc, nghĩa là diệt hết ô nhiễm phiền não, đạt bậc vô học, đoạn diệt sinh tử, chứng hữu dư Niết bàn.

     Tôn giả A Nan Đà thưa: “Con nghe lời dạy của Như Lai, ngộ được tâm con thật ở ngoài thân, tại sao? Ví như đèn thắp trong phòng thì trước phải chiếu sáng trong phòng, rồi sau mới từ cửa rọi ra ngoài sân. Tất cả chúng sinh chẳng thấy trong thân, chỉ thấy ngoài thân, cũng như ngọn đèn ở ngoài phòng chẳng thể chiếu sáng trong phòng, nghĩa này rõ ràng, chẳng còn nghi ngờ, vậy so với nghĩa lý rốt ráo của Phật chẳng sai ư?” Lần thứ hai này, Tôn giả cho rằng tâm ở ngoài tức chấp tâm ở ngoài thân con người.

     Đức Phật bảo: “Các Tỳ Kheo vừa theo ta thọ thực trong thành rồi trở về rừng Kỳ Đà. Ta đã thọ trai xong, ông thử nghĩ, trong số Tỳ Kheo, chỉ một người ăn mà các vị khác được no chăng?” Sở dĩ Đức Phật hỏi như thế là Ngài muốn nói nếu tâm ở ngoài thân, tức là tâm ở trong không gian mà trong đó có các thân người khác nữa. Tôn giả đáp: “Thưa không ạ! Vì dù các Tỳ Kheo đều là bậc A La Hán, nhưng cơ thể khác nhau, chẳng có thể một người ăn mà khiến cả chúng đều no”. Câu trả lời này đúng là thực tế chứ chưa hiểu ý Phật, do đó:

     Đức Phật giảng tiếp và hỏi: “Nếu tâm giác tri của ông thật ở ngoài thân thì trong ngoài khác nhau, chẳng có liên quan, hễ tâm biết thì thân chẳng biết, thân biết thì tâm chẳng biết. Nay ta đưa tay cho ông xem, trong lúc mắt thấy, tâm ông biết được chăng?” Tôn giả đáp: “Vâng biết”.

     Đức Phật lại hỏi và phá chấp: “Nếu thân và tâm cùng biết một lượt thì sao lại nói tâm ở ngoài thân? Nên biết, ông nói "tâm giác tri trụ ở ngoài thân" là chẳng đúng”; cũng như chấp tâm ở trong thân, ở đây Tôn giả A Nan Đà lại chấp tâm biết ở ngoài thân, mà thân và tâm cùng biết một lượt thì chẳng thể nói tâm ở ngoài thân, nên Đức Phật nói “chẳng đúng” là vì lẽ đó.

3). PHÁ CHẤP TÂM ẨN

     NÚP SAU CON MẮT

- Bạch Thế Tôn! Như lời Phật dạy, chẳng thấy bên trong nên chẳng ở trong thân; thân tâm cùng biết một lượt chẳng thể rời nhau nên chẳng ở ngoài thân, nay con thiết nghĩ tâm ở một chỗ.
- Ở chỗ nào?
- Tâm giác tri này đã chẳng biết trong mà thấy bên ngoài, theo con nghĩ là nó ẩn núp sau con mắt. Ví như có người lấy chén lưu ly úp vào hai mắt, tuy có vật úp ở ngoài mà chẳng ngại nhãn căn, tùy sự thấy liền phân biệt được. Tâm giác tri của con chẳng thấy bên trong vì ở nơi con mắt, thấy rõ ràng bên ngoài vì ẩn núp sau con mắt.
Phật bảo A Nan:
- Theo lời ông nói, tâm núp sau con mắt như con mắt núp sau chén lưu ly, vậy thì lúc thấy núi sông, mắt thấy chén lưu ly chăng?
- Bạch Thế Tôn! Thật thấy chén lưu ly.
- A Nan, con mắt núp sau chén lưu ly thì thấy được chén lưu ly; còn tâm núp sau con mắt sao chẳng thấy mắt? Dù cho là thấy mắt, mắt tức là cảnh, cảnh làm sao thấy cảnh? Nếu chẳng thấy mắt thì ông nói "Tâm giác tri ẩn núp sau con mắt” là chẳng đúng.

GIẢI NGHĨA:

     Tới đây, Tôn giả A Nan Đà thưa: “Như lời Phật dạy, chẳng thấy bên trong nên chẳng ở trong thân; thân tâm cùng biết một lượt chẳng thể rời nhau nên chẳng ở ngoài thân, nay con thiết nghĩ tâm biết ở một chỗ chẳng biết trong mà thấy bên ngoài, theo con nghĩ là nó ẩn núp sau con mắt. Ví như có người lấy chén lưu ly úp vào hai mắt, tuy có vật úp ở ngoài mà chẳng ngại nhãn căn, tùy sự thấy liền phân biệt được. Tâm giác tri của con chẳng thấy bên trong vì ở nơi con mắt, thấy rõ ràng bên ngoài vì ẩn núp sau con mắt”; bây giờ lần thứ ba, Tôn giả cho rằng tâm biết ẩn núp sau hai con mắt.

     Đức Phật hỏi: “Theo lời ông nói, tâm núp sau con mắt như con mắt núp sau chén lưu ly, vậy thì lúc thấy núi sông, mắt thấy chén lưu ly chăng?” Tôn giả đáp: “Thật thấy chén lưu ly”, ngày nay ví như người mang kính vậy.

     Đức Phật hỏi và phá chấp: “Con mắt núp sau chén lưu ly thì thấy được chén lưu ly; còn tâm núp sau con mắt sao chẳng thấy mắt? Dù cho là thấy mắt, mắt tức là cảnh, cảnh làm sao thấy cảnh? Nếu chẳng thấy mắt thì ông nói “Tâm biết ẩn núp sau con mắt” là chẳng đúng”. Nghĩa là nếu tâm núp sau mắt thì tại sao tâm không thấy mắt (?), còn nếu tâm thấy mắt thì mắt là cảnh của tâm, mắt là cảnh của tâm thì cảnh (mắt) không thể thấy cảnh được; do đó biết tâm núp sau mắt là “chẳng đúng”. Ở đây chúng ta thấy Đức Phật phá chấp của Tôn giả A Nan Đà là đại diện cho phàm phu chúng ta thường chấp tâm ở chỗ này tâm ở chỗ kia vì không ý niệm được bản tâm cùng khắp không gian và thời gian.


4). PHÁ NHẮM MẮT THẤY

TỐI LÀ THẤY TRONG THÂN

 

-Bạch Thế Tôn! Nay con lại thiết nghĩ rằng, thân thể của chúng sanh, tạng phủ (1) ở trong, khiếu huyệt (2) ở ngoài, nơi tạng thì tối, nơi khiếu thì sáng. Nay con ở trước mặt Phật, mở mắt thấy sáng gọi là thấy bên ngoài, nhắm mắt thấy tối gọi là thấy trong thân, nghĩa này thế nào?
     Phật bảo A Nan:
- Khi ông nhắm mắt thấy tối, cái cảnh tối ấy là đối với mắt hay chẳng đối với mắt?
- Nếu đối với mắt thì tối ở trước mắt, tức ở ngoài thân, sao nói ở trong thân? Giả sử cho tối là trong thân thì lúc trong phòng tối chẳng có ánh sáng, những gì trong phòng tối đều là tạng phủ của ông sao?
- Nếu chẳng đối với mắt thì làm sao được thấy? Nếu lìa sự thấy bên ngoài, thành lập sự thấy đối vào trong, khi nhắm mắt thấy tối gọi là thấy trong thân; vậy khi mở mắt thấy sáng sao chẳng thấy mặt?
- Lại, nếu chẳng thấy mặt thì cái nghĩa "con mắt đối vào trong" chẳng thể thành lập: nếu thấy mặt thì tâm giác tri và nhãn căn đều ở tại hư không, làm sao nói ở trong?
- Lại, nếu ở ngoài hư không thì chẳng phải thân ông, tức hiện nay Như Lai thấy mặt ông cũng là thân ông sao? Vậy mắt ông thấy biết thì thân ông chẳng biết. Nếu ông cho thân và mắt cùng biết một lượt, thì phải có hai cái biết, tức một thân ông phải thành hai Phật! Nên biết ông nói "thấy tối gọi là thấy trong thân" là chẳng đúng.

GIẢI NGHĨA:

(1) Tạng phủ: Các bộ phận trong con người như tim, gan, thận, ruột v.v....

(2) Khiếu huyệt:Khiếu: Lỗ hổng như mắt, tai, mũi; Huyệt: Chỗ hiểm trên thân thể; Khiếu huyệt: Chỗ trọng yếu thông giữa thân thể với bên ngoài.

     Tôn giả A Nan Đà lại thưa: “Nay con lại thiết nghĩ rằng, thân thể của chúng sanh, tạng phủ ở trong, ngũ căn ở ngoài, nơi tạng thì tối, nơi khiếu thì sáng. Nay con ở trước mặt Phật, mở mắt thấy sáng gọi là thấy bên ngoài, nhắm mắt thấy tối gọi là thấy trong thân, nghĩa này thế nào?” Nghĩa là thân con người có các bộ phận (tạng phủ) ở trong, các tai mắt mũi (khiếu) ở ngoài; khi mở mắt thấy sáng, khi nhắm mắt thấy tối; do đó, Tôn giả cho rằng nhắm mắt thấy tối là thấy trong thân.

     Đức Phật nêu một loạt câu hỏi rằng: “Khi ông nhắm mắt thấy tối, cái cảnh tối ấy là đối với mắt hay chẳng đối với mắt? Nếu đối với mắt thì tối ở trước mắt, tức ở ngoài thân, sao nói ở trong thân?” Đây là lần thứ nhất Đức Phật bác nhắm mắt thấy tối là thấy trong thân.

     Ngài nêu ví dụ: “Giả sử cho tối là trong thân thì lúc trong phòng tối chẳng có ánh sáng, những gì trong phòng tối đều là tạng phủ của ông sao?” Ngài lý luận cái tối khi nhắm mắt thấy tối cũng giống cái tối trong phòng tối không có đèn, nhưng các vật trong phòng tối chẳng thể là tạng phủ, vì vậy cho nên Ngài bác lần thứ hai thấy tối là thấy trong thân là sai.

     “Nếu chẳng đối với mắt thì làm sao được thấy?” Ngài đặt câu hỏi này cũng là để phủ nhận vậy.

     “Nếu lìa sự thấy bên ngoài, thành lập sự thấy đối vào trong, khi nhắm mắt thấy tối gọi là thấy trong thân; vậy khi mở mắt thấy sáng sao chẳng thấy mặt?” Ở đây Ngài nêu câu hỏi khi có ánh sáng lại không thấy mặt để bác lần thứ ba thấy tối là thấy trong thân.
     “Nếu chẳng thấy mặt thì cái nghĩa "con mắt đối vào trong" chẳng thể thành lập: nếu thấy mặt thì tâm biết và nhãn căn đều ở tại hư không, làm sao nói ở trong?” Ngài lý luận rằng nếu thấy mặt thì phải từ ngoài nhìn vào và như vậy tâm biết và nhãn căn phải ở ngoài thân, đây là Ngài bác thấy tối là thấy trong thân lần thứ tư.
     “Nếu ở ngoài hư không thì chẳng phải thân ông, tức hiện nay Như Lai thấy mặt ông thì Như Lai cũng là thân ông sao?” Khi tâm biết ở ngoài thân tức là tâm biết ở trong hư không, không những có Đức Phật hiện diện lúc bấy giờ, mà còn có vô lượng thính chúng tham dự và vạn vật khác nữa, không thể tất cả đều là thân của Tôn giả A Nan Đà, nên Ngài bác tâm biết ở ngoài thân là không đúng.

Tới đây, Đức Phật giảng và khẳng định: “Vậy mắt ông thấy biết thì thân ông chẳng biết, nếu ông cho thân và mắt cùng biết một lượt, thì phải có hai cái biết, tức một thân ông phải thành hai Phật! Nên biết ông nói "thấy tối gọi là thấy trong thân" là chẳng đúng”. Nghĩa là chỉ có một cái thấy của mắt chứ không phải của thân, và thấy tối là thấy trong thân là sai lầm.

5). PHÁ CHẤP SỰ

SUY NGHĨ LÀ TÂM

 

- Con đã từng nghe Phật khai thị chúng rằng: Tâm sanh nên các pháp sanh, pháp sanh nên các tâm sanh. Nay con suy nghĩ, chính cái suy nghĩ ấy là tâm của con; tùy sự suy nghĩ tâm liền có, cũng chẳng ở trong, ngoài và chính giữa.
- A Nan, ông nói pháp sanh nên các tâm sanh, tùy sự suy nghĩ tâm liền có. Tâm chẳng có tự thể thì chẳng thể suy nghĩ; nếu chẳng có tự thể mà suy nghĩ được thì vô căn phải thấy được vô trần, nghĩa này chẳng đúng.
Nếu có tự thể thì ông thử dùng tay tự búng thân mình xem, cái tâm biết của ông là từ trong thân ra hay từ bên ngoài ra? Nếu từ bên trong ra thì phải thấy trong thân; nếu từ bên ngoài ra thì trước tiên phải thấy mặt.
- Mắt chủ sự thấy, tâm chủ sự biết, tâm không phải như mắt, nói tâm thấy là chẳng đúng nghĩa.
     Phật bảo A Nan:
- Nếu thấy là con mắt thì ông ở trong phòng, cửa biết thấy chăng?. Như kẻ đã chết con mắt vẫn còn, lẽ ra phải thấy được vật; nếu thấy được vật thì sao gọi là chết?
- Lại, tâm hay biết của ông nếu thật có tự thể, là một thể hay nhiều thể? Nay nơi thân ông, tâm cùng khắp cơ thể hay chẳng cùng khắp?
- Nếu nói một thể, khi tay ông búng một chi, lẽ ra tứ chi đều biết, nếu đều biết thì chỗ búng chẳng có, nếu có chỗ búng thì chẳng phải một thể. Nếu như nhiều thể thì thành nhiều người, vậy thể nào là của ông?
- Nếu nói khắp cả cơ thể thì đồng như sự búng kể trên, nếu chẳng khắp thì khi ông rờ đầu và chân, đầu có biết chân phải không biết, nhưng hiện nay ông lại chẳng phải như vậy. Nên biết ông nói: "Tùy sự suy nghĩ tâm liền có" là chẳng đúng.

GIẢI NGHĨA:

     Lần thứ năm, Tôn giả A Nan Đà thưa đã từng nghe Đức Phật khai thị chúng rằng: “Tâm sinh nên các pháp sinh, pháp sinh nên các tâm sinh. Nay con suy nghĩ, chính cái suy nghĩ ấy là tâm của con; tùy sự suy nghĩ tâm liền có, cũng chẳng ở trong, ngoài và chính giữa”. Nghĩa là vì đã được nghe Phật nói “Tâm sinh nên pháp sinh, pháp sinh nên tâm sinh”, nên khi ấy Tôn giả suy nghĩ và cho rằng chính cái suy nghĩ ấy là tâm, tùy sự suy nghĩ tâm liền có; nên Tôn giả cho rằng tâm chẳng ở trong, chẳng ở ngoài và chẳng ở giữa.

     Đức Phật giảng rằng: “Nếu nói pháp sinh nên các tâm sinh, tùy sự suy nghĩ tâm liền có, tâm chẳng có tự thể thì chẳng thể suy nghĩ; nếu chẳng có tự thể mà suy nghĩ được thì vô căn phải thấy được vô trần, nghĩa này chẳng đúng”; ở đây Đức Phật lý luận để bác chấp tâm có tự thể.

     Ngài giảng tiếp: “Nếu có tự thể thì ông thử dùng tay tự búng thân mình xem, cái tâm biết của ông là từ trong thân ra hay từ bên ngoài vào? Nếu từ bên trong ra thì phải thấy trong thân; nếu từ bên ngoài vào thì trước tiên phải thấy mặt”, Đức Phật chứng minh để bác bỏ chấp tâm cả ở bên trong và tâm ở bên ngoài thân.

     Đức Phật dạy: “Nên biết: Mắt chủ sự thấy, tâm chủ sự biết, tâm không phải như mắt, nói tâm thấy là chẳng đúng nghĩa”, ở đây Đức Phật bác cho rằng tâm thấy và Ngài xác định tâm biết và mắt thấy khác nhau.

     Ngài đặt câu hỏi rằng: “Nếu thấy là con mắt thì ông ở trong phòng, cửa biết thấy chăng? Như kẻ đã chết con mắt vẫn còn, lẽ ra phải thấy được vật; nếu thấy được vật thì sao gọi là chết?” Ở đây, phòng ví như thân thể, cửa ví như mắt, con mắt người chết không thể thấy; ý Đức Phật nói rằng: Con mắt chưa đủ yếu tố để thấy, cần phải có cái gì nữa con mắt mới thấy được.

     Đức Phật đặt câu hỏi tiếp: “Tâm biết của ông nếu thật có tự thể, mà một tự thể hay nhiều tự thể? Và: nơi thân của ông, tâm cùng khắp cơ thể hay chẳng cùng khắp?

     Đức Phật giảng rằng: “Nếu nói tâm có một tự thể, thì khi tay ông búng một tay hay chân (chi), lẽ ra hai tay hai chân (tứ chi) đều biết, nếu đều biết thì chỗ búng chẳng có, nếu có chỗ búng thì chẳng phải một tự thể; nếu như nhiều tự thể thì thành nhiều người, vậy tự thể nào là của ông?” Ở đây Đức Phật bác tâm có một tự thể hay nhiều tự thể.

     Đức Phật giảng, giải đáp và phá chấp rằng: “Nếu nói tâm khắp cả cơ thể thì đồng như sự búng kể trên, nghĩa là khi búng một chỗ, lẽ ra các chỗ khác đều biết, nếu đều biết thì chỗ búng chẳng có, nếu có chỗ búng thì chẳng phải cùng khắp. Nếu chẳng cùng khắp thì khi ông rờ đầu và rờ chân cùng một lượt, đầu biết chân phải không biết hoặc ngược lại chân biết đầu phải không biết, nhưng chẳng phải như vậy; nên biết ông nói: "Tùy sự suy nghĩ tâm liền có" là chẳng đúng”. Phần này Ngài bác tâm cùng khắp và tâm không cùng khắp; nghĩa là khi cho rằng tâm cùng khắp thì Ngài giải thích rằng tâm không cùng khắp, khi chấp tâm không cùng khắp thì Ngài giải thích rằng tâm cùng khắp để phá chấp vậy thôi.

6). PHÁ CHẤP TÂM

     Ở CHÍNH GIỮA
- Bạch Thế Tôn! Khi Phật với Văn Thù và các Pháp Vương Tử (1) luận về thật tướng, con cũng nghe Phật nói tâm chẳng ở trong cũng chẳng ở ngoài. Theo như con nghĩ, vì chẳng biết trong nên chẳng phải ở trong, thân tâm cùng biết một lượt nên chẳng phải ở ngoài, nay cùng biết một lượt mà chẳng thấy bên trong, tất phải ở giữa.
- Ông nói "ở giữa" thì cái chính giữa ấy phải rõ ràng, chẳng phải không chỗ. Theo ông suy xét, giữa ở chỗ nào? Ở nơi xứ (2) xứ hay ở nơi thân?
- Nếu ở nơi thân, nơi ngoài da thì chẳng phải là giữa; ở giữa thì đồng như ở trong. Nếu ở nơi xứ, là có thể nêu ra hay chẳng thể nêu ra? Nếu chẳng thể nêu ra thì đồng như không có; nếu có thể nêu ra lại chẳng định được chỗ nào. Tại sao? Ví như có người cắm cây nêu (3) làm chính giữa, nhìn từ phương Đông thì cho cây nêu ở phương Tây, nhìn từ phương Nam thì cho cây nêu ở phương Bắc, cái thể giữa được nêu ra đã lẫn lộn thì tâm cũng thành rối loạn, chẳng rõ ở đâu.
     A Nan thưa:
- Con nói "chính giữa" chẳng phải hai thứ này. Như Thế Tôn nói: Nhãn căn và sắc trần duyên nhau sanh ra nhãn thức. Nhãn căn phân biệt, sắc trần vô tri, thức sanh nơi giữa, tức là tâm vậy.
     Phật bảo:
- Nếu tâm ông ở giữa căn trần, vậy tâm thể này gồm cả hai hay chẳng gồm? Nếu gồm cả hai thì vật và thể xen lộn, vật thì vô tri, thể thì có biết, thành hai thứ đối địch, lấy gì làm giữa? Nếu lìa biết (căn) và không biết (trần) thì chẳng có thể tánh, vậy lấy tướng nào làm chính giữa? Nên biết ông nói "Tâm ở chính giữa" là chẳng đúng.

GIẢI NGHĨA:

(1) Pháp vương tử: Là con của đấng Pháp Vương, Đức Phật là đấng Pháp Vương, cácBồ Tát đệ tử của Phật và vị đứng đầu (thượng thủ) hàng Bồ Tát là Pháp vương tử. Văn Thù Sư Lợi là Bồ Tát đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni đứng đầu hàng Bồ Tát, cũng như Bồ Tát Quan Thế Âm là đệ tử đứng đầu hàng Bồ Tát của Đức Phật A Di Đà, đều gọi là Pháp Vương tử.

(2) Xứ: Là 12 xứ, gồm cả sáu căn là Mắt. Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý, và sáu trần là Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp.
(3) Cây nêu:
Là dùng một cây cắm một chỗ nào đó để làm dấu làm mốc.

     Lần thứ sáu, Tôn giả A Nan Đà thưa rằng: “Khi Phật với Bồ Tát Văn Thù và các Pháp Vương Tử luận về thật tướng, con cũng nghe Phật nói tâm chẳng ở trong cũng chẳng ở ngoài. Theo như con nghĩ, vì chẳng biết trong nên chẳng phải ở trong, thân tâm cùng biết một lượt nên chẳng phải ở ngoài, nay cùng biết một lượt mà chẳng thấy bên trong, tất phải ở giữa”. Thật tướng của tâm là không chấp thật, là không hai (Bất nhị), cùng khắp nên nói chẳng ở trong mà cũng chẳng ở ngoài; còn nói ở giữa thì khó mà xác định nơi chỗ, vì vậy:

     Đức Phật nêu câu hỏi rằng: “Ông nói "ở giữa" thì cái chính giữa ấy phải rõ ràng, chẳng phải không chỗ; theo ông suy xét, ở giữa là chỗ nào? Ở nơi xứ hay ở nơi thân?” Nghĩa là phải xác định ở giữa là ở nơi căn mắt tai… hay ở nơi trần sắc thanh… hay ở nơi thân?

     Ngài lý luận rằng: “Nếu ở nơi thân nơi ngoài da thì chẳng phải là giữa, ở giữa thì đồng như ở trong; nếu ở nơi chỗ (xứ), là có thể nêu ra hay chẳng thể nêu ra (?); nếu chẳng thể nêu ra thì đồng như không có, nếu có thể nêu ra lại chẳng định được chỗ nào, tại sao? Ví như có người cắm cây nêu làm chính giữa, nhìn từ phương Đông thì cho cây nêu ở phương Tây, nhìn từ phương Nam thì cho cây nêu ở phương Bắc, cái thể giữa được nêu ra đã lẫn lộn thì tâm cũng thành rối loạn, chẳng rõ ở đâu”. Ở đây Đức Phật nêu ra lý lẽ khó mà xác định được vi trí khi cho là tâm ở giữa.

     Tôn giả A Nan Đà thưa: “Con nói "chính giữa" chẳng phải hai thứ này. Như Thế Tôn nói: “Nhãn căn và sắc trần duyên nhau sinh ra nhãn thức. Nhãn căn phân biệt, sắc trần vô tri, thức sinh nơi giữa”, tức là tâm vậy”.

     Đức Phật giảng và phá chấp rằng: “Nếu tâm ông ở giữa nhãn căn và sắc trần, vậy cái tâm giữa ấy có gồm cả hai hay không gồm cả hai? Nếu gồm cả hai thì vật và tâm xen lộn lẫn nhau, còn biết cái gì là tâm cái gì là vật? Khi đã lẫn lộn với nhau thì không có cái giữa, còn như không gồm cả hai bên thì là một, đã là một bên thì cái chặng giữa chẳng biết chỗ đặt, nên nói "Tâm ở chính giữa" là chẳng đúng”. Ở đây, Đức Phật biện giảirằngkhông thể chỉ ra chỗ giữa để phá chấp chỗ giữa.


7). PHÁ CHẤP KHÔNG

     DÍNH MẮC LÀ TÂM

- Bạch Thế Tôn! Khi xưa con thấy Phật với bốn đại đệ tử (Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề, Phú Lâu Na và Xá Lợi Phất) cùng chuyển pháp luân, thường nói "cái tâm giác tri chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở giữa, chẳng ở chỗ nào cả, tất cả vô trước (1) gọi là tâm". Vậy con vô trước, được gọi là tâm chăng?
     Phật bảo A Nan:
- Ông nói cái tâm giác tri chẳng ở chỗ nào cả, vậy như các loài bay trên hư không, ở dưới nước và trên bờ, gọi là tất cả vật tượng nơi thế gian mà ông vô trước đó, là có hay không? Không thì đồng như lông rùa sừng thỏ (2), nói gì vô trước? Nếu có sự vô trước thì chẳng thể gọi là không. Không tướng mới không, chẳng không thì có tướng, tâm đã chấp có tướng, thì còn nói gì vô trước? Nên biết, nói "Tất cả vô trước gọi là tâm giác tri" là chẳng đúng.

 

GIẢI NGHĨA:

(1)Vô trước:Không dính mắc, không bị lôi kéo.

(2) Lông rùa sừng thỏ: Ý nói những vật không thể có trên thế gian này, ám chỉ những điều không thể xảy ra.

     Lần thứ bảy, Tôn giả A Nan Đà thưa rằng: “Khi xưa con thấy Phật với bốn đại đệ tử Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề, Phú Lâu Na và Xá Lợi Phất cùng chuyển pháp luân, thường nói "cái tâm giác tri chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở giữa, chẳng ở chỗ nào cả, tất cả vô trước gọi là tâm". Vậy con vô trước, được gọi là tâm chăng?” Tới đây chúng ta thấy Tôn giả A Nan Đà lúc ấy là biểu trưng đại diện cho hàng phàm phu, vì được nghe nói cái tâm chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở giữa, chẳng ở chỗ nào cả, tất cả không dính mắc gọi là tâm, nên lại chấp chặt vào những điều này.

     Đức Phật giảng và phá chấp rằng: “Nếu nói cái tâm giác tri chẳng ở chỗ nào cả, vậy như các loài bay trên hư không, ở dưới nước và trên bờ, gọi là tất cả vật tượng nơi thế gian mà ông vô trước (không dính mắc) đó, là có hay không? Không có thì giống như lông rùa sừng thỏ, nếu có sự dính mắc thì chẳng thể gọi là không, vì không tướng mới gọi là không, chẳng không thì phải có tướng; tâm đã chấp có tướng, thì chẳng thể nói vô trước? Ở đây Đức Phật giảng giải khi có tướng là có dính mắc, khi không tướng thì không có, để bác quan điểm nói rằng không dính mắc (vô trước) gọi là tâm biết.Vì vậy cho nên Đức Phật nói: "Tất cả vô trước gọi là tâm giác tri" là chẳng đúng”.

     Để tóm tắt cho 7 lần chấp tâm của Tôn giả A Nan Đà, mà cũng là đại diện cho ý nghĩ của chúng sinh, chúng ta kết luận cho phần này như sau:

     Ở đây nêu ra bảy chỗ gạn hỏi, ý Phật là muốn đưa Tôn giả A Nan Đà thẳng đến chỗ tự ngộ, lời Phật chẳng phải chân lý, mà chỉ là phương tiện như thầy thuốc trị bệnh; Phật chỉ dùng thuốc giả để trị bịnh giả của Tôn giả A Nan Đà, tại sao nói là bệnh giả? Vì những kiến chấp của Tôn giả A Nan Đà vốn chẳng thật, tại sao nói thuốc giả? Vì lời phá chấp của Phật cũng chẳng thật.

     Cũng như Tôn giả A Nan Đà nói tâm ở trong thân, ở ngoài thân, cho đến nói không dính mắc (vô trước) là tâm, kỳ thật không phải có chỗ chẳng đúng hay chẳng sai, vì chấp nhất định ở một chỗ, nên Phật nói “chẳng đúng”. Nếu bệnh chấp chưa hết thì có thể nêu ra vô số chỗ, chứ đâu phải chỉ có bảy chỗ, nếu bệnh chấp đã hết thì một chỗ cũng chẳng có, nói chi đến bảy chỗ!


     Tự tính hay Phật tính vốn KHÔNG HAI (bất nhị), nếu chấp cho "tâm thật chẳng ở trong" là Hai (nhị), cho "tâm thật chẳng ở ngoài" cũng là HAI, cho đến chấp tâm ở bất cứ một chỗ nào, hay chẳng ở một chỗ nào đều là HAI; tại sao? Vì nếu có ở một chỗ này thì những chỗ kia không có, chỗ có chỗ không tức là HAI. Nên Phật nói: “Phàm hữu ngôn thuyết, giai phi thật nghĩa” (Phàm có lời nói đều chẳng phải nghĩa thật) là vậy.

(Còn tiếp)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567