Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

00. Lời ngỏ

16/05/202017:31(Xem: 2733)
00. Lời ngỏ

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRƯỜNG BỘ KINH
(Dìgha Nikàya)
Tập I
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli
Chuyển thể Thơ: Giới Lạc MAI LẠC HỒNG
NHÀ XUẤT BẢN PHƯƠNG ĐÔNG PL. 2555 - DL 2010



LỜI NGỎ

 

 

-  Namo Sakya Muni Buddhàya.

Nhất tâm đính lễ Đại Giác Thế Tôn Thích Ca Mâu-Ni Phật.

-  Namo Thitasìlo Mahàtheràya.

Kính lễ thượng Giới hạ Nghiêm Bổn Sư Hòa Thượng Giác Linh.

 

 

    -  Ngưỡng bạch Chư Tôn Thạc Đức Tăng Già.

    -  Kính thưa mười phương chư Thiện Hữu Tri Thức.                          

 

      Đức Thế Tôn đã vì đại sự nhân duyên xuất hiện nơi cõi đời, để hướng dẫn chúng sinh Khai, Thị, Ngộ, Nhập Phật tri kiến, nên hàng Phật tử luôn ghi nhớ công ơn độ sinh cao cả của đấng Cha Lành.

 

      Chúng ta do thiếu phước duyên, sinh ra trong thời pháp nhược ma cường, lúc đức Thế Tôn Từ Phụ đã nhập Niết Bàn qua 25 thế kỷ. Như Ngài Huyền Trang khi chiêm bái thánh tích tại Ấn Độ đã xúc cảm nghẹn ngào mà thốt ra lời than áo não :          

  “ Phật tại thế thời ngã trầm luân
Kim đắc nhân thân Phật nhập diệt
 Áo não thử thân đa nghiệp chướng
Bất kiến Như Lai kim sắc thân ”.

 

( Khi Phật còn tại thế thì ta đang đắm chìm trong biển khổ. Nay được thân người thì Phật đã nhập diệt từ lâu. Buồn tủi vì thân này nhiều nghiệp chướng, không thấy được sắc thân quý báu của Như Lai ).

      Dù Phật đã không còn tại thế, nhưng Ánh Đạo Vàng tỏa rạng khắp muôn nơi qua sự hoằng truyền Chánh Pháp của Lịch đại Tổ Sư, để kho tàng Pháp Bảo còn tồn tại cho đến ngày nay, với 6 lần Kết tập Tam Tạng qua nhiều thời đoạn.

 

      Phật Giáo Việt Nam từ xưa vẫn sử dụng Tam Tạng bằng  chữ Hán, nên các nhà sư bắt buộc phải biết  Hán tự  để đọc kinh sách, vì Tam Tạng kinh điển chưa được dịch sang Việt ngữ, ngoại trừ một số Kinh từ Hán Tạng được các vị Dịch sư thực hiện từ sau thời Chấn hưng Phật giáo. Còn Pàli Tạng thì hầu như chưa có.

 

      Nhưng rồi đại duyên lành đã đến từ Hòa Thượng Minh Châu sau khi tốt nghiệp Tiến Sĩ Phật học tại Ấn Độ, đã phát nguyện phiên dịch Tạng Kinh từ Pàli Tạng ra Việt ngữ .Và đến nay Phật Giáo Việt Nam  tự hào đã có Tạng Kinh tiếng Việt trọn đủ 5 bộ : Trường Bộ, Trung Bộ, Tương Ưng Bộ, Tăng Chi Bộ và Tiểu Bộ.

 

      Chúng con hết lòng ngưỡng phục và biết ơn công đức phiên dịch của  Hòa Thượng MINH CHÂU, vì nhờ Ngài mà chúng con mới có thể tiếp cận được những lời dạy thâm thúy và siêu việt của Đức Thế Tôn.

 

      Bản thân chúng con, tài hèn trí kém, cũng không phải là nhà thơ, nhưng cảm nhận được ân đức độ sinh cao cả của đấng Cha Lành và cảm niệm ân giáo hóa của Bổn Sư : cố Hòa Thượng Giới Nghiêm –  nên ý tưởng báo đền ơn Phật, báo ân Thầy Tổ, mong muốn góp một viên gạch cho tòa nhà  Chánh Pháp, giúp đem Pháp nhiệm mầu đến cho nhiều người để cùng được ân triêm pháp nhũ.

 

      Do duyên lành hội đủ, đến nay chúng con mới có cơ hội thực hiện  được ý nguyện qua việc chuyển  Trường  Bộ Kinh sang thể Thơ đặc thù của Việt Nam là song thất lục bát, từ bản dịch Việt ngữ của Hòa Thượng Minh Châu.

 

      Khi Phật còn tại thế, văn tự chưa được sử dụng để ghi chép lời Phật, nên Đức Phật thường dùng lối trùng tụng : Một ý tưởng được Ngài nhắc lại ít nhất 3 lần. Sau khi Phật nhập Niết Bàn 3 tháng,  Tôn-giả  Đại Ca-Diếp ( Mahà Kassapa )    triệu tập Đại Hội Kết Tập Tam Tạng lần đầu, qui tụ 500 vị A-La-Hán ; Tôn-giả Ưu-Ba-Ly ( Upali ) trùng tuyên Luật Tạng,   

 

còn Tôn-giả Ananda (A-Nan ) trùng tuyên Kinh Tạng. Các Ngài vì lòng tôn kính Đức Phật, tôn kính Giáo Pháp nên không dám thay đổi một lời nào và giữ nguyên lối trùng tụng như khi Phật sinh tiền. Mãi đến kỳ Kết Tập Tam Tạng lần thứ 3, Đại Hội mới quyết định dùng lá buôn để ghi chép toàn bộ ba Tạng : Kinh, Luật, Luận ; nhưng vẫn không dám thay đổi ngôn từ.

 

      Do đó chúng con cố gắng chuyển sang thể thơ và giản lược những phần nào có thể.  Thiết nghĩ với lối thơ đặc biệt Việt Nam này, sẽ khiến những lời dạy của Đức Phật trở nên gần gủi , dễ hiểu dễ nhớ hơn.

 

      Sự chuyển đổi từ văn xuôi sang thể thơ không phải là điều đơn giản, có lúc tưởng chừng phải bỏ cuộc vì Ý kinh cao sâu khó diễn tả bằng ngôn ngữ thế gian ; mà còn bị hạn chế trong vần điệu của luật thơ bằng trắc, yêu vận, cước vận, trầm bình thanh, phù bình thanh … Cũng có lúc đã phải vật lộn với chữ nghĩa như ở kinh Potthapàda số 8 vì ở đây nói về sự diệt tận các tăng thượng tưởng ; thô phù ngã chấp, ý sở thành ngã chấp, vô sắc ngã chấp...  khiến sự tìm từ đúng ý để hợp vần không phải là dễ.

 

      Nhưng khi thực hiện việc chuyển thơ Kinh, chúng con vô cùng hoan hỷ và xúc động trước sự cao cả và lòng đại bi đại trí của đức Thế Tôn, mỗi một kinh có một nội dung phong phú khác nhau, nhưng vô cùng súc tích và thâm thúy.

 

      Khởi soạn vào ngày 09-09-2009 ; với chủ định góp phần để các vị học tăng, học ni và các Phật tử muốn tìm hiểu kinh tạng có thêm tài liệu tham khảo. Việc làm khiêm tốn của chúng tôi đã được sự quan tâm, khuyến khích  của nhiều  bậc

Tôn Túc,  nhất là Đại Lão Hòa Thượng  Thích Tâm Châu  và Hòa Thượng  Thích  Pháp  Nhẫn, dù rất đa đoan  Phật sự  mà

các Ngài  cũng có thư khuyến tấn chân tình.

 

 

      Đến 05-05-2010, chúng con đã hoàn tất cả thảy 12 Kinh đầu .   “ Thi hóa Trường Bộ Kinh - Tập I ” này hình thành từ 12 Kinh nói trên.

 

      Đặc biệt kính xin Quý Ngài và Quý vị nên lưu ý là ở kinh số 1 (Phạm Võng) và kinh số 11 (Kevaddha), đức Phật đã đề cập đến việc hình thành Phạm Cung ở cõi Trời Phạm Thiên và do đâu có vị Phạm Thiên, mà nhiều tôn giáo đã tôn xưng vị này là Thượng Đế, là đấng Sáng Tạo (từ giòng 8 trang 017 đến trang 019 kinh Phạm Võng) và “tài năng” của đấng “toàn năng, toàn trí” Đại Phạm Thiên (từ giòng 15 trang 420 đến cuối trang 426 kinh Kevaddha).

 

      Chúng con thành kính tri ân Chư Tôn Đức Tăng Già nhiều nơi cùng các Thiện Hữu Tri Thức đã chân tình khuyến khích việc làm này ; cũng như công việc chuyển thơ Kinh được thành tựu nhanh chóng nhờ rất nhiều ở sự khích lệ , góp ý của những người thân nhất của chúng con là hiền thê Nghiêm Thủy Ngô thị Nam Phương và hai con : Nghiêm Tịnh Mai Phương Quỳnh và Tâm Hạnh Mai Phương Dung.

 

      Phần  phước  thanh cao này, chúng con xin kính thành hồi hướng đến Ân Sư : Cố Hòa Thượng Giới Nghiêm, nguyện giác linh  Ân Sư  cao đăng thượng phẩm, hồi nhập Ta-Bà để hóa độ chúng sinh và sớm viên thành chí nguyện chứng đạt Vô thượng Bồ đề. Hồi hướng cầu tăng phúc thọ đến Ngài Dịch Sư  Kinh Tạng : Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Minh Châu.

 

      Cầu nguyện chư hương linh : Thân phụ Mai Văn Minh tự Lưu PD Phúc Phương, thân mẫu Nguyễn thị Khanh PD Diệu Khánh, nhạc phụ Ngô Ngọc Của PD Phúc Hải… cùng tất cả thân bằng  quyến  thuộc quá  vãng của  các vị Đạo Tâm hùn phước in quyển “ Thi hóa Trường Bộ Kinh , Tập I ” này, đều    được sinh về cảnh giới An Lạc, bằng như đang ở nơi an vui thì sự an vui càng tăng tiến thêm.

                      

 

  Nguyện hồng ân Tam Bảo thùy từ gia hộ cho các vị Ân nhân

góp phần tạo thành ấn phẩm này  đều được  đầy đủ  năm pháp chúc mừng : Sống lâu, dung sắc tươi đẹp, an vui, sức khỏe dồi dào  và  trí  tuệ  sáng  suốt  ( Ayu, vanno, sukham, palam, paññà ) và sở cầu như nguyện ( Yam yam icchitam, tam tam khippameva samicchatu ).     

 

      Chúng tôi cũng không quên hồi hướng đến hương linh chư vị Gia Trưởng, Huynh Trưởng và Đoàn-sinh quá cố của Gia Đình Phật Tử Việt Nam trong nước và hải ngoại ; nhất là cố HTr. cấp Dũng : Như Tâm Nguyễn Khắc Từ  (UV. Nghiên Huấn BHDTƯ) và cố HTr. cấp Dũng : Nhật Thường Nguyễn Quang Tú (Trưởng BHD/ GĐPT Tỉnh Gia Định) là những bậc đàn anh khả kính đã hết lòng dìu dắt chúng tôi trong Tổ chức GĐPT.  Cầu nguyện chư hương linh đều được vãng sinh về cảnh giới An lạc. 

 

      Rất mong Chư Tôn Thạc Đức Tăng Già ; mười phương chư Thiện Hữu Tri Thức cùng tùy hỷ trong công việc chuyển thơ kinh này, vì không phải cho riêng cá nhân ai, mà là lợi lạc khắp chúng hữu tình, nếu được phần nào thấu hiểu chánh pháp vi diệu của đấng Đại Giác Thế Tôn qua những lời thơ quê mộc mạc được diễn đạt với cả tấm lòng này.

 

      Cũng rất mong Quý Ngài và Quý vị chỉ dẫn những chỗ sai sót , góp ý sửa chữa để lần tái bản sau được thập phần tốt đẹp.

 

      Cuối cùng, xin thành kính nguyện đem chút ít công đức này, hướng về khắp tất cả, đệ tử và chúng sinh, đều trọn thành Phật đạo.

 

California , 09-09-2011  –  năm Tân Mão âm lịch.

 

Với tâm chân thành ,

 

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG

 

 

 

 

* Trích  Lời Giới Thiệu  của Hòa Thượng  THÍCH MINH CHÂU trong Trường Bộ Kinh Tập 3 (1972)

---------------------------------------------

 

        ... Cho dịch và cho in các bản kinh Pàli, tôi không mong muốn gì hơn là để các Phật tử, các Học giả, các Sinh viên được đọc thẳng vào những kinh điển thật sự nguyên thủy hay gần nguyên thủy nhất, và tự mình tìm hiểu những lời dạy thật sự của đức Phật,  khỏi phải qua những lập trường của các bộ phái. Nhất là khỏi phải qua những xuyên tạc của những Học giả và những Phật tử muốn giải thích Đạo Phật theo dục vọng và tà kiến của mình. Muốn chạy theo dục vọng thì giải thích kinh điển một cách dễ hiểu rằng đạo Phật chấp nhận và tha thứ dục vọng. Muốn giết người và muốn binh vực kẻ giết người, đạo Phật được giải thích như là có thể tha thứ và chấp nhận sự giết người. Muốn chạy theo tà giáo và tà kiến, lại giải thích đạo Phật viên dung vô ngại, chấp nhận mọi tà kiến, mọi tà thuyết. Tà kiến nào, tà thuyết nào cũng là Phật giáo được hết ! Muốn tránh những tai nạn trên, cần nhứt là phổ biến những kinh điển thực sự nguyên thủy hay gần nguyên thủy nhất, để Phật tử được đọc thẳng ngay kinh Phật, khỏi qua một ống kính màu nào.

 

       Đạo Phật cần những cá nhân Phật tử biết suy tư, biết phân tích, biết tự tìm hiểu, rồi xác nhận sự hiểu biết của mình, ngang qua sự hành trì, kinh nghiệm cá nhân. Đạo Phật không cần đến những đoàn người theo đạo Phật, theo một cách ồ ạt mù quáng, theo một cách thụ động nhắm mắt, hay tự mình bóp méo, xuyên tạc đạo Phật theo tà kiến dục vọng của mình. Chính kinh Đại Bát Niết Bàn, có ghi rằng : dầu chúng ta có nghe vị Tỷ Kheo nào  nói  tự thân nghe  đức  Phật,  tự thân nghe các vị Thượng

 

Tọa, Thủ Chúng… nói như vậy là Pháp, như vậy là Luật  – đức Phật khuyên cũng không được tán thán, đả kích, chấp thuận hay từ bỏ ngay, mà phải so sánh với Kinh, đối chiếu với Luật, có phù hợp mới được chấp nhận, không phù hợp thời phải từ bỏ. Đạo Phật đòi hỏi sự nhận xét, tìm hiểu, suy tư cá nhân rất nhiều. Nhưng chúng ta chỉ có thể nhận xét, tìm hiểu, suy tư khi chúng ta được đọc những lời dạy nguyên thủy nhất hay gần nguyên thủy nhất của đức Phật. Đó là nguyên nhân và động lực khiến tôi phải lo dịch và in bản Trường Bộ Kinh này.    

 

 

* Trích  Lời Giới Thiệu  của Hòa Thượng  THÍCH MINH CHÂU trong Trường Bộ Kinh Tập 4 (1972)

---------------------------------------------

 

       … Phiên dịch Tam Tạng Pàli có một dụng ý khác quan trọng hơn. Trước năm 1952, Việt Nam chúng ta chỉ biết có một số Kinh Đại Thừa căn bản, như kinh Lăng Nghiêm, kinh Pháp Hoa, kinh Bát Nhã, kinh Kim Cang, kinh Di Đà… dầu rằng chúng ta vẫn có Hán Tạng hết sức phong phú, nhưng ít người nghiên cứu. Các Kinh A Hàm, kinh Tứ Thập Nhị Chương, kinh Di Giáo… cũng có được đề cập. Tuy có biết, nhưng không dám học vì theo Tứ Y, cần phải “y liễu nghĩa kinh, bất y bất liễu nghĩa kinh”.

 

       Qua Tích Lan, chúng tôi được biết đến Tam Tạng Pàli, rất là phong phú, rất gần với lời dạy nguyên thủy của đức Phật, lại được phổ biến rộng rãi ở năm châu. Qua Ấn Độ, được biết thêm Tạng Sanskrit, dồi dào và phong  phú hơn cả Tạng Pàli, nhưng nguyên bản gần như mất hết cả, ngoại trừ vài chục bộ mới tìm lại được. Cũng may Tạng Sanskrit được dịch ra  Tạng Tây Tạng và Hán   

 

Tạng, và nhờ vậy hai tạng dịch này là kho tài liệu khá đầy đủ cho nguyên tạng Sanskrit. Nhưng nếu Pàli là Tam Tạng vừa là nguyên thủy, vừa là của học phái Thượng Tọa Bộ (Theravada), Tạng Sanskrit phong phú hơn, là Tam Tạng cũng vừa là nguyên thủy, vừa thuộc nhiều học phái như Nhứt Thế Hữu Bộ, Đại Chúng Bộ, Đàm Vô Đức Bộ, Di Sa Tắc Bộ… và cũng vừa là tạng của Đại Thừa. Giá trị của hai Tạng dịch là như vậy, và Tạng Trung Hoa cũng có dịch một số kinh tạng Pàli, có thể do Ngài Pháp Hiển, thế kỷ thứ VI đem từ Tích Lan về. Nếu chúng ta muốn tìm đến Tạng nào hay Kinh nào có thể đại diện cho nguyên thủy, chúng ta chỉ cần so sánh Kinh Tạng, Luật Tạng Pàli và Kinh Tạng A Hàm và Luật Tạng các Học phái. Những điểm nào giống nhau, thời chúng ta có thể chấp nhận là Tạng Nguyên Thủy. Những điểm dị biệt có thể là do dị biệt lập trường của các Học phái. Cho dịch Trường Bộ Kinh này, chúng tôi không mong gì hơn là giới thiệu Tạng Pàli cho Phật tử và Học giả VN và cũng mở đầu một môn học mới, tức là môn Tỷ Giảo Học giữa Kinh Tạng, Luật Tạng Pàli và Tạng chữ Hán tương đương. Môn Tỷ Giảo Học này sẽ giúp chúng ta hiểu được thế nào là Tạng Nguyên Thủy của Phật Giáo.

 

       Có người sẽ cho, dịch Tạng Pàli  là tuyên truyền cho Tiểu Thừa, phản lại tư tưởng Đại Thừa. Chúng ta nên chấm dứt ngay thái độ ngây thơ và buồn cười này. Đạo Phật không có Đại thừa, Tiểu thừa, không có Nam Tông, Bắc Tông. Đạo Phật gồm có một số giáo lý căn bản mà học phái nào cũng phải tôn trọng, một số pháp môn thiết yếu mà đệ tử Phật tử  nào cũng phải y cứ để tu hành, nếu không muốn lạc vào tà giáo, ngoại đạo.    Cho dịch Tạng Pàli là chúng tôi muốn giới thiệu và  tìm hiểu  số giáo lý   

 

căn bản ấy và số pháp môn thiết yếu ấy. Những danh từ Đại thừa, Tiểu thừa, Nam Tông, Bắc Tông là những danh từ đẻ ra sau này để phân biệt các học phái, và một học phái chỉ được gọi là học phái Phật Giáo khi nào học phái ấy tôn trọng và trung thực với số giáo lý, số pháp môn căn bản ấy.

 

       Ngày nay, một nhà nghiên cứu Phật Giáo, phải biết đến Phật giáo Nguyên Thủy, phải biết đến Phật Giáo các Học phái và phải biết đến Phật giáo Đại Thừa, mới có thể có một cái nhìn đại thể về lịch sử tư tưởng Phật Giáo. Sau khi nắm được cái nhìn đại thể, vị ấy có thể chọn lấy một ngành nào, hay một pháp môn nào làm ngành chuyên môn của mình. Cho dịch Kinh Tạng Pàli, chúng tôi muốn giúp phần tài liệu nghiên cứu cho các nhà Học giả ấy để có thể biết đến Phật Giáo Nguyên Thủy và biết đến Học phái Thượng Tọa Bộ, một học phái có tiếng là bảo thủ nhất, trung thành với tư tưởng và lối sống Phật giáo Nguyên Thủy nhất, và là học phái duy nhất gìn giữ được gần như trọn vẹn cả ba Tạng giáo điển.

 

       Hơn thế nữa, ngày nay chúng ta nhận thấy một chiều hướng mới đã bắt đầu sống dậy trong những nhà tìm hiểu tư tưởng Phật Giáo, một chiều hướng đi ngược lên Phật Giáo Nguyên Thủy, tìm hiểu những căn bản giáo lý mà phần lớn các học phái chấp nhận, giới thiệu một lối sống đích thực, đức Phật muốn giảng dạy cho các đệ tử để sống ngay với đời sống hiện tại, khỏi phải qua những phân ly các học phái, hay những mê tín, dị đoan, cuồng tín… đã dần dần xâm nhập vào Đạo Phật, làm mất bản chất thuần túy của Đạo Phật nghìn xưa. Hơn nữa, ngày nay người ta dần dần ý thức rằng chỉ có Đạo Phật Nguyên Thủy mới  đáp ứng được  những đòi hỏi của một thế giới khoa học hiện tại. Một tôn giáo muốn được giới  

 

trí thức trẻ hiện tại chấp nhận, vừa phải không mâu thuẩn với những phát minh khoa học mới mẻ nhất, vừa phải giải quyết được những vấn đề thuộc phạm vi con người của con người ở thế kỷ thứ 20, 21 này. Chỉ có Đạo Phật Nguyên Thủy mới may ra đáp ứng được những đòi hỏi trên, và cho dịch tập Trường Bộ Kinh này, chúng tôi nuôi dưỡng một hy vọng rất khiêm tốn, là giới thiệu được tới tay các Học giả và các Phật tử, một phần nào những lời dạy thật sự nguyên thủy hay gần nguyên thủy nhất của Đạo Phật.

 

 

* Trích lời dịch của  Hòa Thượng  MINH CHÂU trong Tập “ ĐẠI THỪA và sự liên hệ với TIỂU THỪA   ( Aspects of Mahàyana Buddhism and its relation to Hìnayàna Buddhism của Nalinaksha Dutt )  

ấn hành năm 1971 ( Tái bản năm 1999 ).

---------------------------------------------

 

       … Đọc kỹ tiến trình tư tưởng Phật giáo, chúng ta sẽ thấy các Luận sư  không vị nào là không muốn diễn đạt cho thật sự  trung thành giáo nghĩa nguyên thủy của Đức Từ Phụ. Dầu cho sự diễn đạt đặt dưới nhiều quan điểm và khía cạnh sai khác, lồng vào những bối cảnh có thể nói là mâu thuẩn, nhưng chúng ta vẫn nhận thấy những sóng ngầm đồng nhất, thật sự nguyên thủy trong sự cố gắng trung thành của các nhà Luận sư. Cho nên quan điểm của một số học giả Pàli cho rằng những gì ngoài ba Tạng Pàli là ngụy tạo  – vừa nguy hiểm, vừa nông nổi nếu không phải là lạc hậu. Nguy hiểm vì tự mình phủ nhận những cố gắng trung thành với đạo Phật nguyên    thủy của các nhà Luận sư, như chúng ta đã thấy  quá rõ ràng trong tập sách này .    Nguy hiểm hơn nữa là chúng   

 

ta phủ nhận luôn những tinh hoa đạo Phật nguyên thủy do chính các nhà Luận sư khai thác và diễn đạt. Nông nổi và lạc hậu, vì ngày nay các nhà học giả Phật giáo phần lớn đều chấp nhận một số tư tưởng Đại thừa là những tư tưởng của đạo Phật nguyên thủy và xác nhận chính trong Tam tạng Pàli, được kiết tập trong một thời gian một vài thế kỷ. lẽ dĩ nhiên phải có những đoạn phi nguyên thủy xen kẽ vào. Nếu có nhà học giả nào chịu khó so sánh bốn tập A Hàm (Trung Hoa) với các tập Pàli Nikàya tương đương, các vị ấy sẽ thấy có nhiều đoạn văn A Hàm Trung Hoa lại nguyên thủy hơn các đoạn văn Pàli.

 

       Thái độ của một số Phật tử Đại thừa ngược lại xem những gì Tiểu thừa là thiển cận, nhỏ hẹp, không đáng học hỏi cũng là một thái độ nguy hiểm, nông nổi, nếu không phải là ngây thơ, phản trí thức. Nguy hiểm vì tự nhiên phủ nhận ba Tạng Pàli, bốn bộ A Hàm và các Luật tạng, những tinh hoa tốt đẹp nhất và nguyên thủy nhất của lời Phật dạy. Và làm vậy chúng ta mắc mưu các nhà Bà-La-Môn Giáo đã khôn khéo loại bỏ ra ngoài Phật giáo những tinh hoa của lời Phật dạy, bằng cách gán cho danh từ  “Tiểu Thừa”. Nông nổi và ngây thơ, vì thật sự danh từ Tiểu thừa và Đại thừa không được tìm trong ba tạng Pàli và bốn bộ A Hàm và chỉ là những danh từ được tạo ra về sau. Hơn nữa, tìm hiểu quá trình lịch sử tư tưởng Phật giáo, chúng ta chỉ có thể hiểu được tư tưởng Đại thừa sau khi chúng ta tìm hiểu được tư tưởng nguyên thủy. Loại bỏ tư tưởng nguyên thủy để tìm hiểu tư tưởng Đại thừa cũng như thả mồi bắt bóng, và bắt bóng ở đây là bắt bóng tà ma ngoại đạo, mới thật sự nguy hiểm hơn.

 

      Các nhà gọi là  Đại thừa  cần phải  xác nhận  một sự   thật lịch sử, là các nước Tiểu Thừa chống giữ sự xâm nhập của ngoại đạo tà giáo kiên trì và hữu hiệu hơn các nước Đại Thừa. Lý do chính là tư tưởng Đại thừa và tà giáo ngoại đạo nhiều khi cách xa chỉ có gang tấc, và nhiều nhà tự cho là Đại thừa lại sẵn sàng bước qua biên giới ấy.

 

       Ngày nay, với sự  tiến triển của khoa Phật học và ngôn ngữ học, các sinh viên Phật khoa cũng như những ai muốn thật sự tìm hiểu thế nào là nguyên thủy Phật giáo, cần phải có một căn bản Phật học toàn diện các học phái, kể cả Nguyên thủy, Tiểu thừa và Đại thừa, cũng như cần phải hiểu biết các cổ ngữ Sanskrit, Pàli, Tây Tạng ngữ. Hán ngữ – nếu không muốn nói đến các sinh ngữ Anh, Pháp, Đức, Nhật…   

 

 

                   Vạn Hạnh, ngày mùng 3 tháng 2 năm 1971

                  Người dịch :  Tỷ Kheo THÍCH MINH CHÂU

              Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon.    

 

 

___________________________________

 

 

 

 

* Chúng tôi đang tiếp tục chuyển thơ Kinh TRUNG BỘ. Bộ này gồm các Kinh ngắn, tất cả có 152 Kinh, nên chúng tôi sẽ post lên mạng để phổ biến đến các vị muốn tham khảo Tạng Kinh. Xin Quý Ngài và Quý vị hoan hỷ.

 * Cả 34 Thơ Kinh ( 3 Tập) cũng đã được post lên các Trang Mạng PG : “Thư Viện Hoa Sen” (Mỹ), “Trang Nhà Quảng Đức” (Úc) và “Đạo Phật Ngày Nay” (VN).

 Truong-Kinh-Bo-Thi-Hóa-tập-1-loi-ngo-01

 

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRÊN THẾ GIỚI

WORLD VIETNAMESE BUDDHIST ORDER

ORDRE BOUDDHIQUE VIETNAMIEN MONDIAL

1978 Rue Parthenais, Montréal QC. H2K 3S3 Canada .Tel: (514)525.8122

-----------------------------------------------------------------------------------------         

                    Tổ Đình Từ Quang , ngày 5 tháng 2 năm 2010

 

         Thư gửi : Đạo-hữu Mai-Lạc-Hồng   

                         Garden Grove , California  USA

Thưa Đạo-Hữu,

 

       Từ tháng 11.2009 cho tới ngày 25.1.2010 , tôi đi chiêm bái Phật tích tại Ấn-Độ và hoằng pháp tại Úc , nên vắng mặt tại Tổ-Đình Từ-Quang .

       Về Tổ-Đình Từ-Quang, tôi mở phong thư của Đạo -hữu gửi, gồm một lá thư và bản thảo, chuyển thơ về ba kinh trong Trường Bộ Kinh .

       Tôi xem thư và xem một số đoạn thơ song thất lục bát trong bản thảo. Tôi vô cùng cảm động và tán thán công hạnh của Đạo-hữu.

       Đạo-hữu luôn nhớ tưởng đến công ơn thị-hiện độ sinh của đức Từ-Phụ và không quên công-đức hoằng-hóa, giáo-dưỡng của chư vị Tôn Túc. Đạo-hữu không e ngại về hoàn cảnh, khả năng, cố gắng chuyển văn kinh thành văn thơ dân-tộc Việt, cho người Việt dễ đọc và dễ nhớ !

       Chuyển văn kinh theo văn-hệ Pali sang văn thơ vần Việt, rất khó trong những sự khó ! Khó ấy, Đạo-hữu đã dấn thân tạo thành, tôi mong mỏi và cầu nguyện Đạo-hữu sớm hoàn-thành chí nguyện !

       Xuân Canh Dần sắp tới, cầu nguyện Tam Bảo từ-bi gia-hộ Đạo-hữu đầy đủ sức khỏe, nghị-lực trong lý-tưởng của mình và cầu cho gia-đình Đạo-hữu được an vui, nhiều điều tốt đẹp như ý .

 

                                                       Nay thư

( 016 B )                     Hòa-Thượng Thích-Tâm-Châu

 

 Truong-Kinh-Bo-Thi-Hóa-tập-1-loi-ngo-02

 

 

GIÁO HỘI TĂNG GIÁ NGUYÊN THỦY VIỆT NAM HẢI NGOẠI

LIÊN HOA TỰ VIỆN

2014  Rose  StIrving , Texas 75061

__________________________________________

 

              Anh chị Mai Lạc Hồng quý mến,

 

       Nhân dịp Đại lễ Phật Đản 2634 , Thầy thành tâm cầu nguyện Đức Phật Tổ gia hộ cho Anh chị và các cháu được vạn sự an lành, may mắn và tinh tấn mãi .

 

       Thầy rất tán dương công đức Anh chị đã nhiệt tâm thi hóa Kinh Trường Bộ mà Hòa Thượng Minh Châu đã dịch . Đây là một việc làm khó khăn cả vần thơ, chữ Đạo và giáo lý . Thi hóa Kinh của Anh ngắn gọn và nếu đem tụng Kinh Bộ thì rất lợi lạc .    

 

       Sở dĩ Thầy hồi đáp thư cho Anh chậm vì Thầy đang lo 7 mẫu đất ở thành phố Arlington để xây Tu Viện Giới Nghiêm (Thitasilo MahàVihara). Hiện Tự Viện Liên Hoa đang làm chủ miếng đất đó và đang lo thủ tục xin phép để xây dựng .   Anh chị cầu nguyện cho Phật sự này sớm được thành tựu . 

 

       Vài hàng thăm Anh chị, chúc Anh chị và bửu quyến được nhiều an vui, hạnh phúc .

 

                                           Thích Pháp Nhẫn

                                        

                                             18 / 5 / 10 

 

        

Chú thích

 

Trang trước là Thủ bút của Hòa Thượng THÍCH PHÁP NHẪN ,

     Viện Chủ Liên Hoa Tự Viện  ( Irving, Texas ), Tiến-Sĩ Phật Học

Đại Học Ấn Độ  - Phó Tăng Thống đặc trách Điều Hành

Giáo Hội Tăng-Già Nguyên Thủy Việt Nam tại Hải Ngoại .

 

Ngài cũng là Trưởng đệ tử của Cố Hòa Thượng Giới Nghiêm 

(Đệ Tam Tăng Thống Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam)

 

 

 

 

XIN LƯU Ý

 

  VỀ VIỆC PHIÊN ÂM PHẠN NGỮ  PALÌ   

 

             

- Kính bạch Quý Ngài.  - Kính thưa Quý vị.

 

     Theo ngu ý của chúng tôi, trong văn phạm Palì, những mẫu tự cuối của từ nguyên mẫu gồm : A, À, U, Ù , I, Ì, E, O  thì những mẫu tự  không có ký hiệu dấu ngang (giống như dấu huyền) đều đọc giọng ngắn và như có dấu sắc : á , ú , í . Còn à , ù , ì , e , o được đọc giọng dài và phát âm như  a , u , i , ê , ô … của tiếng Việt, nên chúng tôi xin mạn phép sử dụng phiên âm tùy chỗ, khi dùng như có dấu sắc, khi dùng như không dấu.

 

     Ví dụ : Chữ Magadha, đọc theo lối bình  thường là : Ma-ga-tha, nhưng theo đúng văn phạm Palì phải đọc Má-gá-thá  (giọng ngắn).

 

     Do đó xin quý Ngài và quý vị không ngạc nhiên khi thấy tại sao một danh từ lúc ghi có dấu sắc, lúc lại không có dấu cho hợp vần. Ví dụ như trong phần mở đầu kinh Phạm Võng, tên thanh niên ngoại đạo Brahmadatta có khi được phiên âm là Bram-Ma-Đát-Tá, có đoạn lại ghi là Bram-Má-Đát-Ta.    

 

[ Cũng theo văn phạm Palì, không những động từ phải chia, mà danh từ cũng được chia theo 8 cách ( thay vì phải dùng  mạo từ  như  trong  văn phạm  Pháp-văn  hay       

 

Anh-ngữ), mỗi từ nguyên mẫu gọi là  karanta được chia

theo một bảng khác nhau.      

     Ví dụ các danh từ nguyên mẫu : magga ( con đường – thuộc á  karanta ), hatthi (con voi – í  karanta ), bhikkhu (vị Tỳ-khưu hay Tỷ-Kheo – ú  karanta) … đều được chia với số ít (ekavacana) hay số nhiều (bahuvacana) theo 8 cách như : Chủ cách, đối cách, sở hữu cách, sở dụng cách, xuất xứ cách, hô cách . . .

    Một ví dụ khác : Từ nguyên mẫu Bhikkhu, trong Tạng  Palì  thường thấy từ : Bhikkhave !  ( Này các Tỷ Kheo !) đây là thể hô cách ].    

 

     Ngưỡng mong chư Tôn Đức và chư Thiện-hữu Tri-thức hoan hỷ thể tất cho những lỗi lầm nếu có.              

 

                                                    Kính ghi,

 

 

                      

Vì nội dung Kinh thứ  7 – JALIYA giống

Kinh Mahàli, nên Ngài Hòa Thượng 

Minh Châu không dịch kinh này.  

Do đó kế tiếp Kinh Mahàli số 6 là Kinh KASSAPA mang số 8, cho đến Kinh

TEVIJJÀ  ( Tam Minh ) mang số 13

 tuy tất cả chỉ có 12 Kinh.

 

                  

NGUYỆN VĂN

 

    -  Kính lạy đấng Tam giới Đạo Sư, Tứ sinh Từ Phụ, Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn.

 

     Đệ tử chí thành đảnh lễ ba ngôi Tam Bảo : Vô thượng Tôn Phật, Vi diệu Chánh Pháp, Thanh tịnh Tăng-Già.

 

     Đệ tử lâu đời lâu kiếp, nghiệp chướng nặng nề, tham giận kiêu căng, si mê lầm lạc, nên mãi trôi lăn trong vòng sinh tử.  Nhưng có được chút duyên lành gặp được Chánh Pháp vi diệu nhiệm mầu do đấng Thiên Nhân Sư Đại Giác Thích Ca Mâu Ni giáo truyền. Lại gặp được Minh sư dẫn dắt để biết đường ra khỏi rừng mê.

 

     Nay đệ tử đem hết lòng thành hướng về đấng Thích Tôn Từ Phụ cùng mười phương chư vị Thánh Hiền Tăng, khẩn cầu sám hối tất cả tội lỗi kể từ vô thỉ cho đến ngày nay, do thân, khẩu, ý mê lầm tạo tác.

 

     Đệ tử không ngại tài hèn trí mỏng, phát nguyện chuyển thơ Kinh Trường Bộ, không khỏi lo âu vì sợ ngôn từ thô vụng, ý cạn lời quê có thể lầm sai thánh ý, sai lạc Phật ngôn. Nhưng với tâm chí thành tha thiết, hướng về đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn - với niềm tôn kính vô biên, với sự biết ơn vô hạn trước công đức độ sinh cao cả của Ngài, cầu mong thiện sự này sẽ được viên thành mỹ mãn.

 

     Đệ tử nguyện đem chút ít công đức này, chí thành hồi hướng đến chư vị Tổ Sư Hòa Thượng tiền bối hữu công trong việc hoằng truyền Chánh Pháp ; đến Ân Sư và cha mẹ. Cùng hồi hướng đến khắp pháp giới chúng sinh đều được ân triêm hồng ân Tam Bảo để được vô lượng an lành và trọn thành Phật đạo.

 

Nam mô thập phương thường trụ Tam Bảo

tác đại chứng minh.

 

 

TÁN THÁN TAM BẢO :

 

PHẬT là đấng Toàn Tri Diệu Giác

PHÁP lưu truyền lợi lạc Nhân Thiên

TĂNG Già hòa hiệp, tịnh thiền

Quay về nương tựa, cần chuyên tu trì.

 

NHẤT TÂM ĐÍNH LỄ :

 

1.  Namo   Buddhàya :

Kính lễ mười phương ba đời hết thảy chư Phật.

 

2.  Namo Dhammàya :

Kính lễ mười phương ba đời hết thảy Tôn Pháp.

 

3.  Namo   Sanghàya :

Kính lễ 10 phương ba đời hết thảy Hiền Thánh Tăng.

 

4.  Namo Dìpamkaram Buddhàya :

Kính lễ Quá khứ  Nhiên Đăng Phật.

 

5.  Namo Vipassì  Buddhàya : Kính lễ Tỳ-Bà-Thi Phật.

 

6.  Namo Sìkhi Buddhàya  :  Kính lễ Thi Khí Phật.  

 

7.  Namo Vessabhù Buddhàya: Kính lễ Tỳ-Xá-Phù Phật

 

8.  Namo Kakusandham Buddhàya :

Kính lễ Câu-Lưu-Tôn Phật.

 

9.  Namo Konàgamanam Buddhàya  : 

Kính lễ Câu-Na-Hàm Mâu-Ni Phật.

 

10.  Namo Kassapam Buddhàya : Kính lễ Ca-Diếp Phật.

 

11.  Namo Sakya Muni Buddhàya  :

Kính lễ Hiện tại giáo truyền Thích Ca Mâu-Ni Phật.   

 

12.  Namo Metteya Bodhisattwa  : 

Kính lễ Vị Lai Phật  Di-Lặc Bồ-tát.

*

13.  Namo Aññà Kondaññam Sàvakàya : Kính lễ

Đệ nhất Hạ Lạp A-Nhã Kiều-Trần-Như  Tôn Giả.

 

14.  Namo Mahà Sariputtam Sàvakàya : 

Kính lễ  Đệ nhất Trí Tuệ  Xá-Lợi-Phất Tôn Giả.

 

15.  Namo Mahà Moggallana  Sàvakàya :  Kính lễ

Đệ nhất Thần Thông Ma-Ha Mục-Kiền-Liên Tôn Giả.

 

16.  Namo Puññà  Mantaniputtam Sàvakàya :  Kính lễ Đệ nhất Thuyết Giáo Phú-Lâu-Na (Mãn-Từ-Tử) Tôn Giả.

 

17.  Namo Upalì Sàvakàya :

Kính lễ Đệ nhất Trì luật Ưu-Ba-Li Tôn Giả.

 

18.  Namo Mahà Kassapam Sàvakàya :

Kính lễ Đệ nhất Đầu Đà Ma-Ha Ca-Diếp Tôn Giả.

 

19.  Namo Mahà Kaccayànam Sàvakàya :  Kính lễ

Đệ nhất Luận Nghị Ma-Ha Ca-Chiên-Diên Tôn Giả.

 

20.  Namo Anuruddham Sàvakàya :   Kính lễ

Đệ nhất Thiên Nhãn A-Nậu-Lâu-Đà Tôn Giả.

 

21.  Namo Anandam Sàvakàya :

Kính lễ Đệ nhất Đa Văn A-Nan-Đa Tôn Giả.

 

22.  Namo Rahulam Sàvakàya :

Kính lễ Đệ nhất Mật Hạnh La-Hầu-La Tôn Giả.

 

23.  Namo Subhuti Sàvakàya :

Kính lễ Đệ nhất Giải Không Tu-Bồ-Đề Tôn Giả.

 

24.  Namo Revatam Sàvakàya :

Kính lễ Đệ nhất Thiền Định Ly-Bà-Đa Tôn Giả.

 

25.  Namo Sivali Sàvakàya :

Kính lễ Đệ nhất Phước Đức Si-Va-Li Tôn Giả.

 

26.  Namo Cùla Panthakam Sàvakàya :   Kính lễ

Đệ nhất Giải Thoát Chu-Lị Bàn-Đà-Già Tôn Giả.

 

27.  Namo Mahà Kotthitam Sàvakàya :   Kính lễ

Đệ nhất Đắc Giải Ma-Ha Câu-Hy-La Tôn Giả.

 

 

28.  Namo Uruvela Kassapam Sàvakàya :      Kính lễ

Đệ nhất Lãnh Chúng Ưu-Lâu-Tần-Loa Ca-Diếp Tôn Giả

 

29.  Namo Mahà Kappinam Sàvakàya : Kính lễ

     Đệ nhất Giáo Giới Ma-Ha Kiếp-Tân-Na Tôn Giả.  

 

30.  Namo Pindola Bhàradvàjam Sàvakàya :   Kính lễ 

Đệ nhất Sư-Tử-Hống Tân-Đầu-Lô Phả-La-Đọa Tôn Giả. 

 

31.  Namo Lakuntaka Bhaddiyam Sàvakàya –  Kính lễ

Đệ nhất Pháp Âm Kiều-Phạm Ba-Đề Tôn Giả.

 

32.  Namo Nandam Sàvakàya –

Kính lễ Đệ nhất Tiết Chế Nan-Đà Tôn Giả.

 

33.  Namo Radham Sàvakàya –

Kính lễ Đệ nhất Biện Tài La-Đà Tôn Giả.

 

34.  Namo Veluvanavihàrà Sabba Sàvakàya  –

Nam-mô Trúc Lâm hội thượng chư  Hiền ThánhTăng 

 

35.  Namo Jetavanavihàrà Sabba Sàvakàya  –

Nam-mô Kỳ Viên hội thượng chư Hiền Thánh Tăng.

 

36.  Namo Gijjhakutavihàrà Sabba Sàvakàya  –

Nam-mô Linh Sơn hội thượng chư Hiền Thánh Tăng.

 

37.  Nam-mô Lịch đại Hoằng truyền Chánh Pháp

chư Hiền Thánh Tăng.

------------------------

38.  Namo Mahà Pajàpati Gotami Sàvakàya : Kính lễ    

   Đệ nhất Hạ lạp Đại Ái Đạo Kiều-Đàm-Di Thánh Ni.

 

 39.  Namo Khemà Sàvakàya :

Kính lễ Đệ nhất Trí Tuệ Khê-Ma Thánh Ni.

 

40.  Namo Uppalavannà Sàvakàya :

Kính lễ Đệ nhất Thần Thông Liên-Hoa-Sắc Thánh Ni.

41.  Namo Yasodhara Sàvakàya :

Kính lễ Đại Thần Thông Da-Du-Đà-La Thánh Ni.

 

 

  42.  Namo Dhammadinnà Sàvakàya.  Kính lễ Đệ nhất

         Thuyết Giáo Đam-Ma-Đin-Na Thánh Ni.

 

43.  Namo Pàtàcarà Sàvakàya :  Kính lễ                         
Đệ nhất Trì Luật Pa-Ta-Cha-Ra Thánh Ni.

 

44.  Namo Bhaddà  Kàpilàni Sàvakàya : Kính lễ

Đệ nhất Chú Giải  Phách-Đa Ka-Pi-La-Ni Thánh Ni.

 

  45.  Namo Bhaddà Kundalakesà Sàvakàya : Kính lễ Đệ   

 nhất Luận Nghị Phách-Đa Kun-Đa-La-Kê-Sa Thánh Ni.

 

46.  Namo Kisà Gotami Sàvakàya :   Kính lễ

Đệ nhất  Đầu Đà Ki-Sa Gô-Ta-Mi  Thánh Ni.

 

47.  Namo Sundari Nandà Sàvakàya :   Kính lễ

Đệ nhất Thiền Định Sanh-Đa-Ri-Nan-Đa Thánh Ni.

 

48. Nam mô Thập Phương Thường Trú Tam Bảo.

 

SÁM NGUYỆN :

 

Đệ tử chúng con từ vô thỉ

Gây bao tội ác bởi lầm mê

Đắm trong sinh tử đã bao lần

Nay đến trước đài Vô Thượng Giác

 

Biển trần khổ lâu đời luân lạc

Với sinh linh vô số điêu tàn

Sống u hoài trong kiếp lầm than

Con lạc lõng không nhìn phương hướng

Đoàn con dại từ lâu vất vưởng

Hôm nay trông thấy Đạo huy hoàng

Xin hướng về núp bóng Từ quang

Lạy Phật Tổ soi đàng dẫn bước

 

Bao tội khổ trong đường ác trược

Vì tham, sân, si, mạn  gây nên

Thì hôm nay giữ trọn lời nguyền

Xin sám hối để lòng thanh thoát.

 

Trí Phật quang minh như nhật nguyệt

Từ bi vô lượng cứu quần sinh

Ôi ! từ lâu ba chốn ngục hình

Giam giữ mãi, con nguyền ra khỏi.

Theo gót Ngài vượt qua khổ hải

Nương thuyền từ vượt khỏi Ái hà.

Nhớ lời Ngài : Bờ Giác không xa

Hành Thập Thiện cho đời tươi sáng

Bỏ việc Ác để đời quang đãng

Đem pháp lành gieo rắc phàm nhân

Lời ngọc vàng ghi mãi bên lòng

Con nguyện được sống đời rộng rãi

Con niệm Phật để lòng nhớ mãi

Hình bóng Người cứu khổ chúng sanh

Để theo Ngài trên bước đường lành

 

Chúng con khổ, nguyền xin cứu khổ

Chúng con khổ, nguyền xin tự độ

Ngoài tham lam, sân hận ngập trời

Phá si mê, trí tuệ tuyệt vời

Lời Phật dạy đời đời ghi tạc :

 

Nguyện tinh tấn diệt trừ điều Ác

Cố gắng làm tất cả việc Lành

Giữ tâm hồn trong sạch, tinh anh

Nương Pháp Phật tu hành tự độ

Tứ Diệu Đế chuyển mê khai ngộ

Trợ Bồ Đề băm bảy pháp tu :

 

- Tứ Chánh Cần nổ lực công phu

- Tứ Niệm Xứ thường hằng niệm tưởng

- Tứ Thần Túc xuất trần cao thượng

- Ngũ Căn cùng Ngũ Lực trợ duyên

- Thất Giác Chi bảy pháp tinh chuyên

- Bát Chánh Đạo thực hành rốt ráo.

 

Ba Mươi Bảy Pháp lành Trợ Đạo

Là con đường duy nhất cho ta

Giải thoát ra khổ cảnh Ta-Bà

Chứng đạo quả Vô Sinh Bất Diệt.

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ( 3 L )

*   *   *

TỪ BI NGUYỆN :

Nguyện cầu tám hướng mười phương

Chúng sinh muôn loại hãy thường an vui

Dứt trừ  oan trái  nhiều đời

Bao nhiêu đau khổ đến hồi duyên tan

Hại nhau chỉ chuốc lầm than

Mê si điên đảo vô vàn lệ châu

Nguyện cho vô bệnh, sống lâu

Nguyện cho thành tựu, phước sâu đức dày

Nguyện cho an lạc từ đây

Dứt trừ thống khổ, đắng cay, oán hờn

Dứt trừ kinh sợ, tai ương

Bao nhiêu phiền não, đoạn trường vĩnh ly

Nguyện cầu Tam Bảo chứng tri

Sống đời thanh tịnh, từ bi vẹn toàn.

 

HỒI HƯỚNG  :

Con xin  hồi hướng phước này

Thấu đến quyến thuộc đâu đây cho tường

Cùng là thân thích tha phương

Hoặc đã quá vãng, hoặc thường hiện nay

Chúng sinh ba giới, bốn loài

Vô tưởng, hữu tưởng, chẳng nài đâu đâu

Nghe lời thành thực thỉnh cầu

Xin mau tựu hội lãnh thâu phước này

Bằng ai xa cách chưa hay

Cầu xin Thiên Chúng báo ngay hiện tiền

Thảy đều thọ lãnh phước duyên

             Dứt trừ tội lỗi, thoát liền nạn tai

Nguyện nhiều Tăng Chúng đức tài

Đạt thành Thánh quả, hoằng khai đạo lành

Nguyện cho Phật Pháp thịnh hành

Năm nghìn năm chẵn, phước lành thế gian.

 

PHỤC NGUYỆN :

 

 –  Namo Buddhàya  –  Namo Dhammàya ;

–  Namo Sanghàya. 

 –  Namo Sakya Muni Buddhàya.

 

           Do thiện sự mà chúng con đã làm, có được chút ít phước duyên nào, xin thành tâm hồi hướng đến Chư Thiên, chư Thiện thần Hộ Pháp trong mười muôn triệu thế giới Sa-Bà, nhất là Chư Thiên, Thiện Thần tại Việt Nam và Mỹ Quốc – xin các ngài hoan hỷ thọ nhận và tiếp tục hộ trì Chánh Pháp.

           Phổ nguyện : Ánh sáng Giác ngộ rực rỡ, Bánh xe Chánh pháp thường quay, Mưa hòa gió thuận, Thế giới hòa bình, Đất nước mạnh giàu, người người no ấm.

      Cửa Thiền thanh tịnh, Bốn Chúng an hòa. Ân sâu Thầy Tổ  &  Cha Mẹ dưỡng sinh – nguyện cho các ngài : càng tăng ruộng phước. Trời, Người ba cõi đều được lợi lạc vô biên.

           Thứ nguyện : Âm siêu dương thạnh, biển lặng mây trong. Noản, thai, thấp, hóa - bốn loại chúng sinh, nương theo Phật Pháp tu hành, đều trọn thành Phật Đạo.

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

 

HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC  :

 

Nguyện đem công đức này     

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử và chúng sinh           

Đều trọn thành Phật đạo.

*  *  *

 

 

 

Namo tassa Bhagavato Arahato Sammàsambuddhassa

 

Kính lạy Thế Tôn muôn đời

Là bậc Ứng Cúng – Trời Người quy y

Chứng đắc quả Chánh Biến Tri 

Tự Ngài giác ngộ, không thầy dạy cho.

 

 

*

**

 

      Con xin thành kính đảnh lễ đức Thế Tôn. Ngài là đấng Toàn Tri Diệu Giác, vô lượng Từ Bi. Ngài đã bẻ gãy bánh xe sinh tử luân hồi, đã diệt tận Vô Minh phiền não, là bậc Thầy của cả Chư Thiên và Nhân Loại.

 

      Con xin thành kính đảnh lễ Pháp Bảo, là những phương lương dược, có công năng cứu chữa căn bệnh trầm kha sinh tử của chúng sinh.

 

      Con xin thành kính đảnh lễ Tăng Bảo, là những bậc thừa hành Chánh Giáo, bên ngoài có Y Bát chân truyền, bên trong có Giới Định Tuệ làm căn bản ; dù đã đắc quả thánh (Thánh Tăng) hay còn phàm (Thanh tịnh Tăng) đều gọi là Phước Điền của Chư Thiên và Nhân Loại.

 

 

Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp

Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ

Ngã kim kiến văn đắc thọ trì

Nguyện đắc Như Lai chân thiệt nghĩa.

 

 

Pháp Phật diệu huyền rất cao sâu

Trăm nghìn muôn kiếp khó tìm cầu

Con nay nghe, thấy chuyên trì tụng

Nguyện giải Như Lai nghĩa nhiệm mầu.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com