Tây Tạng Tự - Bình Dương
KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG
Người dịch: Thubten Osall Lama - Nhẫn Tế Thiền Sư
PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG
CHƯƠNG IV:KHAI THỊ CÁC ĐỊA VỊ TU CHỨNG
Mục 2: An Lập Các Thánh Vị
IV. THẬP HẠNH
Kinh : “Anan, người thiện nam đó đã thành Phật Tử, đầy đủ Diệu Đức của vô lượng Như Lai, tùy thuận mười phương, gọi là Hoan Hỷ Hạnh.
Thông rằng : Diệu Đức của Như Lai là “Tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên”. Ở chốn trần ai mà chẳng nhiễm nên gọi là Diệu. Đã thành con Phật đầy đủ Diệu Đức. Can gậy tùy thân, gặp trường sân khấu thì làm trò múa men, nên có thể tùy thuận với mười phương, lấy cái vui thích của thiền mà tự vui chơi. Hoan Hỷ Hạnh này tùy thuận với chúng sanh, phương tiện mà tiếp dẫn chính là muốn hiển phát Diệu Đức của Như Lai vậy. Còn cứ một bề nương bám thì Diệu sao được?
Tổ Triệu Châu trên tám mươi tuổi mà vẫn còn hành cước. Một hôm đến chỗ Ngài Vân Cư.
Tổ Cư nói : “Già cả lắm rồi sao chẳng tìm cái chỗ trụ ?”
Tổ Châu nói : “Chỗ nào trụ được ?”
Tổ Cư nói : “Trước núi có cái nền chùa xưa”.
Tổ Châu nói : “Hòa Thượng tự trụ lấy !”
Sau lại đến Ngài Thù Du.
Tổ Thù Du nói : “Già cả lắm rồi sao chẳng tìm cái chỗ trụ ?”
Tổ Châu nói : “Hướng về chỗ nào trụ ?”
Tổ Du : “Già cả lắm rồi mà chỗ trụ cũng chẳng biết !”
Tổ Châu : “Ba mươi năm giỡn đùa cỡi ngựa, hôm nay lại bị lừa đá !”
Ngài Vân Cư Tích nói : “Chỗ nào là chỗ Triệu Châu bị lừa đá ?”
Sau này, có vị tăng từ giã Tổ Triệu Châu.
Tổ hỏi : “Đi đâu vậy ?”
Vị tăng đáp : “Kẻ học nhơn định đến phương Nam học Phật Pháp”.
Tổ Châu dựng đứng cây phất tử, nói : “Chỗ có Phật chẳng được trụ, chỗ không Phật chạy mau qua! Ngoài ba ngàn dặm gặp người, không được đề ra sai quấy !”
Vị tăng nói : “Như vậy thì không đi ư ?”
Tổ Châu nói : “Hái bông Dương (Liễu), hái bông Dương !”
Ngài Thiên Đồng nêu ra rằng : “Đắm không, vướng vết; tay chạm mũi đâm đều chưa phải là chỗ nạp tăng tựu đến. Liền phải: chớ vào hàng quán của người, chớ ngồi giường phản ai khác. CHÁNH chẳng lập huyền, THIÊN chẳng nương vật, mới có thể nắm-ở, buông-đi, có phần tự tại !
Chỉ có Triệu Châu đầy đủ Diệu Đức của vô lượng Như Lai, có phần tự do nên thường hành Hoan Hỷ Hạnh, tuy già mà chẳng mỏi mệt.
Kinh : “Khéo hay lợi ích cho hết thảy chúng sanh, gọi là Nhiêu Ích Hạnh.
Thông rằng : Sự lợi ích cho chúng sanh tuôn ra từ Tâm Từ Bi. Có Tâm Từ Bi thì có khả năng ấy, mà lại khéo làm được. Trí đã soi khắp, Dụng cũng viên dung. Lòng Từ cứu độ chúng sanh mà không có ý. Chẳng kể là tài thí hay pháp thí, chỉ cốt quy về sự lợi ích cho chúng sanh hữu tình mà thôi, nên gọi là Nhiêu Ích Hạnh.
Thiền sư Ngưu Đầu Dung đã được Đức Tứ Tổ thọ ký, từ đó hoằng pháp rất thịnh hành. Vào niên hiệu Vĩnh Huy đời Đường, đồ chúng thiếu lương thực, Ngài sang xứ Đơn Dương quyên gạo, cách núi tám mươi dặm. Tự mình vác bao gạo một thạch tám đấu, sáng đi chiều về cung cấp cho ba trăm vị tăng hai bữa ăn mỗi ngày. Đây thật là hay hành Nhiêu Ích Hạnh vậy.
Kinh : “Tự giác, giác tha, được không-chống-trái, gọi là Vô Sân Hận Hạnh.
Thông rằng : Tự giác để giác tha. Có Trí thế gian, có Trí xuất thế gian, có Trí xuất thế gian thượng thượng để đem ra nói cho người, được không có sự chống trái, như đá thả xuống nước. Đó là chỗ nói “Gặp rồi nối truyền, cùng đẹp lòng để hiểu rõ”, nên không có sân hận. Cái sân hận này chẳng phải tình phàm có thể so sánh. Hận là hận tất cả chúng sanh đều có Trí Huệ, Đức Tướng của Như Lai mà chẳng tự biết; mà sân là giận rằng ta chưa độ thoát cho hết.
Đức Lục Tổ có đoạn kệ :
“Muốn định hóa độ người
Cần tự có phương tiện
Chớ khiến người có nghi
Tức là Tự Tánh hiện
Phật pháp tại thế gian
Chẳng lìa thế gian Giác
Lìa thế kiếm Bồ Đề
Khác nào tìm sừng thỏ
Chánh Kiến là xuất thế
Tà Kiến là thế gian
Tà, Chánh dẹp hết ráo
Bồ Đề Tánh rõ ràng”.
Thế nên dùng Trí Thế Gian mà giác tha đó là cái nhân Trời, Người; dùng Trí Xuất Thế Gian mà giác tha là nhân Bồ Đề. Độc chỉ cái Vô Thượng Bồ Đề, cả hai đều phá bỏ mới gọi là Thượng Thượng Trí. Dùng cái Trí ấy mà giác tha là cái nhân Đẳng Giác, Diệu Giác vậy.
Kinh : “Theo loài mà sanh ra, cùng tột vị lai, ba đời đều bình đẳng, mười phương đều thông suốt gọi là Vô Tận Hạnh.
Thông rằng : Theo loài mà sanh ra, được Ý Sanh Thân, tùy theo loài mà dạy dỗ, dọc cùng ba đời, ngang khắp mười phương, không đâu chẳng phải là chỗ tự giác, giác tha. Đó là chỗ nói “Hư không có tận, nguyện ta vô cùng” vậy.
Vào đời Thái Bình, niên hiệu Hưng Quốc, ở Kiện Dương có nhà sư tên Biện Thông dạo chơi vùng núi Ngũ Đài. Vị Thượng Tọa chùa này đã già, bị trong chúng khinh rẻ, riêng một mình Biện Thông vẫn cung kính hầu hạ. Khi Biện Thông sắp về kinh sư, vị tăng già đó đưa cho ông một bức thơ, bảo tìm Bộc Hạ ở phía Bắc thành đưa giùm.
Giã từ đi, Ông Thông lén mở ra xem thì không viết gì khác, chỉ có mấy chữ : “Độ chúng sanh xong, gấp gấp trở lại, nếu gượng ở lại sợ rằng tạo nghiệp”. Biện Thông rất kinh hoảng, vội dán thơ lại.
Khi đến xứ Quảng Tế, bên bờ sông nghe trẻ kêu Bộc Hạ.
Ông hỏi : “Bộc Hạ ở đâu ?”
Đứa bé chỉ con heo lớn nằm dưới chân bức tường phía Tây ngã tư đường, cổ có mang cái vòng vàng. Biện Thông hỏi : “Bác đồ tể là ai ?”
Đáp : “Nhà Triệu Sinh”.
Hỏi : “Sao tên là Bộc Hạ?”
Đáp : “Vì chỉ ăn bạc hà nên trẻ trong xóm gọi thế. Mỗi ngày tôi làm thịt cả trăm, ngàn con, heo chạy tứ tán khó bắt, mà hễ con heo này dẫn tới thì ngoan ngỗn chịu chết, nên nuôi đã mười lăm năm nay !”
Ông bèn lấy thơ đưa cho nó, con heo ăn liền rồi bỗng đứng lên như người mà chết.
Do đây mà xét, thì Ứng Thân phân hóa theo loài làm sao mà suy lường được? Giới hạn nào cho cùng? Chúng sanh vô tận, sự độ thoát cũng vô tận, nên gọi là Vô Tận Hạnh.
Kinh : “Tất cả hợp thành đồng nhất, thảy thảy pháp môn đều không sai lầm, gọi là Ly Si Loạn Hạnh.
Thông rằng: Đã đầy đủ Diệu Đức của vô lượng Như Lai, tự giác, giác tha ích lợi cho đời vô tận, nào có đến nỗi si loạn sai lầm ư ? Bởi thảy thảy pháp môn thì có đủ thảy thảy tam muội, nên chẳng đủ con mắt pháp phân biệt thì chẳng thể phân biện. Nay tất cả đều hòa đồng mà dung hội, được sự không sai lầm. Như Khổng Tử đại thành Tập, Thanh, Nhiệm, Hòa mà đúng thời đưa ra, thì vốn lấy cái Trí làm đầu. Trí ví như sự khéo giỏi, chẳng phải là sự gắng sức có thể so sánh, nên không có si loạn, ở ngay sau Vô Tận Hạnh vậy.
Tướng Quốc Bùi Hưu đề tựa cho cuốn thiền Nguyên Chư Thuyên Đô Tập của Ngài Khuê Phong Tông Mật rằng: “Những môn hạ trong các tông đều có người thấu đạt, nhưng mỗi tông đều theo chỗ tu tập của mình nên dung thông thì ít mà hạn cục thì nhiều, nên mấy mươi năm nay pháp Tổ càng băng hoại. Lấy chỗ học được làm cửa nẻo, mỗi mỗi tự khai trương, lấy kinh luận làm giáo mác công kích lẫn nhau. Tình theo cung tên mà biến cải. Pháp vào nhân ngã mà thấp cao. Phải quấy lăng xăng chẳng thể nào phân biện. Nếu các tông phái mà tranh luận nhau thì người hậu học càng tăng thêm bệnh phiền não, nào có lợi ích chi đâu !
“Đại sư Khuê Phong đã lâu than rằng : “Tôi ở thời này không thể làm thinh vậy !”
“Ngài bèn lấy ba thứ giáo nghĩa của Như Lai để ấn chứng cho ba loại pháp môn của thiền tông. Nung chảy thau, mâm, vòng thành độc một thứ vàng ròng, khuấy tô lạc, đề hồ thành một vị. Nắm giềng lưới đưa lên thì mọi chỗ đều thuận theo. Căn cứ vào yếu lý dung hội thì người đến cùng theo. Còn sợ hàng học giả khó minh bạch nên lại chỉ thẳng gốc ngọn của nguồn thiền, chỗ hòa hợp của chân vọng, chỗ ẩn hiển của Không Tánh, chỗ sai khác của giáo nghĩa, chỗ khác của đốn tiệm, chỗ hỗ tương đắp đổi của che đậy và bày tỏ, chỗ sâu cạn của quyền thực, chỗ phải quấy của hạn cuộc và dung thông.
“Như Thầy tôi (Khuê Phong) quả là nâng mặt trời Phật mà soi chiếu mọi ngóc ngách thì các nghi ngờ, che khuất đều trừ sạch. Thuận tâm Phật mà ban rải Đại Bi, tột kiếp đều được lợi ích. Vậy thì Đức Thế Tôn là giáo chủ khai mở giáo pháp, Thầy tôi là người dung hội giáo pháp, gốc ngọn phù hợp nhau, xa gần soi rọi nhau. Có thể nói là “Hoàn tất cái công việc một đời truyền giáo của Như Lai” vậy.
“Hoặc có người hỏi : “Từ Đức Như Lai chưa hề có tổng hợp mà thông suốt, nay một phen làm trái với tông thú mà chẳng chịu giữ, bỏ sự quan phòng mà chẳng chịu trông nom thì há chẳng trái với Đạo bí tàng thầm hợp ư?”
“Xin đáp rằng : “Đức Như Lai tuy ban đầu nói riêng ba thừa, về sau mới thông thành một Đạo. Bởi thế trong kinh Niết bàn, Bồ Tát Ca Diếp thưa: “Chư Phật có mật ngữ, không có chỗ chứa giấu bí mật !” Đức Thế Tôn mới khen rằng : “Lời nói của Như Lai mở tỏ rõ ràng, thanh tịnh không che lấp. Người ngu chẳng hiểu, gọi đó là bí mật chứa giấu. Người trí rõ thông thì chẳng gọi là chứa dấu”. Đây là chứng cớ vậy. Bởi thế Vương Đạo hưng thịnh, thì cửa nẻo chẳng phải đóng, chỉ cần giữ chốn biên cương. Phật đạo đầy đủ thì các pháp tự tổng trì mà chỉ đề phòng ma ngoài. Chẳng nên giữ lấy tình chấp, mà tranh cãi lẫn nhau vậy”.
Như Ông Bùi Hưu, đắc pháp nơi Tổ Hoàng Bá, rõ việc hướng thượng mà lại không bỏ một lối cát đằng của Ngài Khuê Phong quả có thể nói là “tất cả hòa đồng, được không sai lầm” vậy. Là người sanh trở lại ư?
Kinh : “Ở ngay trong cái Đồng mà hiện ra các cái Khác. Mỗi mỗi Tướng Khác đều mỗi mỗi thấy Đồng, gọi là Thiện Hiện Hạnh.
Thông rằng : Đã lìa Si Loạn ắt Lý Sự vô ngại. Tức Lý, tức Sự ắt Đồng chẳng ngại Khác vậy. Tức Sự, tức Lý ắt Khác chẳng ngại Đồng. Ở trong thể hòa đồng, chẳng ngại hiển ra cái Khác. Ở trong chỗ khác tướng, lại mỗi mỗi thấy Đồng. Hiện Đồng, hiện Khác cả hai đều chẳng ngăn ngại nhau. Đó chỉ vì không si loạn, tách bạch rõ ràng cùng cực mảy tơ mới có thể biến hiện như thế, nên gọi là Thiện Hiện Hạnh.
Tổ Quy Sơn đang cho quạ ăn, quay đầu thấy Ngài Ngưỡng Sơn, bèn nói: “Hôm nay vì nó mà thượng đường một phen”.
Ngưỡng Sơn : “Con cũng tùy lệ được nghe!”
Tổ Quy : “Nghe việc ấy thế nào?”
Ngưỡng Sơn : “Quạ kêu tiếng quạ, bồ cắt kêu tiếng bồ cắt!”
Tổ Quy : “Sao lại còn thanh sắc?”
Ngưỡng Sơn : “Hòa Thượng mới nói gì thế?”
Tổ Quy : “Ta chỉ nói vì nó mà thượng đường một phen”.
Ngưỡng Sơn : “Vì sao lại gọi là thanh sắc ?”
Tổ Quy : “Tuy nhiên như thế, nghiệm suốt qua rồi thì không ngại”.
Ngưỡng Sơn : “Đại sự nhân duyên nghiệm ra làm sao?”
Tổ Quy đưa nắm tay lên.
Ngưỡng Sơn : “Rốt cũng chỉ Đông vẽ Tây”.
Tổ Quy : “Ông vừa hỏi cái gì thế?”
Ngưỡng Sơn : “Hỏi Hòa Thượng đại sự nhân duyên”.
Tổ Quy : “Vì sao lại gọi là chỉ Đông vẽ Tây?”
Ngưỡng Sơn : “Vì vướng nơi thanh sắc nên con mới hỏi qua”.
Tổ Quy : “Thật chưa hiểu rõ chuyện này”.
Ngưỡng Sơn : “Như sao là được hiểu rõ chuyện này ?”
Tổ Quy : “Huệ Tịch thanh sắc, lão tăng Đông Tây”.
Ngưỡng Sơn : “Một mặt trăng ngàn con sông, Thể chẳng phân theo nước !”
Tổ Quy : “Vậy nên thế nào mới được?”
Ngưỡng Sơn : “Như vàng với vàng rốt không khác sắc, huống có khác tên?”
Tổ Quy : “Vậy thì cái đạo lý không có khác tên là thế nào?”
Ngưỡng Sơn : “Thoi, mâm, trâm, vòng làm quách cái chậu bồn”.
Tổ Quy : “Huệ Tịch nói thiền như sư tử rống, làm các loài chồn cáo, giả can kinh hoảng tứ tán”.
Xem cha con Quy Ngưỡng tơ lại sợi qua, trong Đồng hiện Khác, trong Khác hiện Đồng, nói Đồng nói Khác như hạt châu lăn trên mâm. Đó là chơn đắc Thiện Hiện Hạnh bí mật tạng. Chẳng phải là bậc mắt sáng thì có ai biết nỗi !
Kinh : “Như thế cho đến mười phương hư không đầy khắp vi trần, trong mỗi mỗi vi trần hiện mười phương thế giới. Hiện vi trần, hiện thế giới, không ngăn ngại nhau, gọi là Vô Trước Hạnh.
Thông rằng : Đây là từ Thiện Hiện Hạnh mà mở rộng ra. Không những Đồng, Khác hỗ tương hiển lộ mà Một, Nhiều cũng hỗ tương dung thông, hiện vi trần, hiện thế giới, trong mười phương giao thiệp lẫn nhau. Trong một vi trần hiện bày mười phương cõi, gọi là hiện thế giới. Ngay chỗ hiện ra cõi không phá hoại hình tướng vi trần, gọi là hiện vi trần. Tương tự lưới ngọc Đế Thích trùng trùng, cảnh tượng của sự sự vô ngại. Mới bắt đầu vào cảnh giới này, nên chỉ gần với Vô Trước, chứ chưa đến chỗ nhiệm mầu của tất cả thần hóa giải thoát thuần ròng chẳng thể nghĩ bàn. Hạnh Vô Trước này thì Vô Trước cũng không, nên so với cái Vô Trước ở đoạn Bảy Chỗ Trưng Tâm hoàn toàn khác hẳn. Nếu có chút tơ hào cái chẳng bám trước chưa hết sạch thì không thể gọi là Vô, vì đã có đối đãi làm sao khỏi ngăn ngại nhau ư?
Ngày khai đường, có vị tăng hỏi thiền sư Đại Huệ Tông Cảo : “Trời, người tụ hội, trường tuyển Phật mở, Tổ lệnh đang hành, rao bảo thế nào?”
Tổ Cảo nói : “Chim ngu bay ngược gió”.
Vị tăng hỏi : “Khắp cõi còn không nơi tìm thấy. Rõ ràng một điểm giữa tòa viên”.
Tổ Cảo nói : “Nhơn gian muôn nước chảy về Đông !”
Lại có vị tăng giành bước ra, Tổ Cảo ngăn đứng lại mà nói: “Giả sử nghiền nát trái đất thành vi trần, mỗi mỗi hạt bụi có một cái miệng. Mỗi mỗi miệng đầy đủ tướng lưỡi rộng dài vô ngại, phát ra vô lượng sai biệt ngôn từ. Mỗi mỗi ngôn từ có vô lượng sai biệt diệu nghĩa. Hàng nạp tăng nhiều như số vi trần trên, mỗi vị đều đầy đủ miệng như thế, lưỡi như thế, âm thanh như thế, ngôn từ như thế, diệu nghĩa như thế, cùng lúc đưa ra trăm ngàn vấn nạn, mỗi mỗi vấn nạn khác nhau, chỉ như một tiếng ho hen của lão tăng là đáp xong hết một lượt. Thừa khi ở tại giữa ấy, làm vô lượng vô biên Phật sự rộng lớn cùng khắp pháp giới. Đó là chỗ nói “Trong một mảy lông hiện thần biến, tất cả Phật cùng thuyết, trải khắp vô lượng kiếp không cùng ngằn mé”. Bèn như thế là xong.
“Còn làm náo nhiệt trong môn đình, đứng trong chánh nhãn mà xem, đó chính là nghiệp thức mang mang không gốc rễ. Môn hạ của Tổ Sư một điểm cũng chẳng có dùng, huống là gai góc cú chương, đối đáp giỡn đùa. Chẳng những làm mai một tông thừa từ xưa, mà còn cười giỡn lỗ mũi nạp tăng. Bởi thế mà nói “Tơ hào vướng niệm, là nhân nghiệp của ba đường. Thoáng chút sanh tình là muôn năm bị trói buộc”. Danh Thánh, hiệu phàm đều là tiếng tăm giả dối. Tướng tốt, hình hèn đều là huyễn sắc. Các ông cầu theo đó làm sao khỏi mang lụy? Mà chán bỏ đi lại càng đại hoạn. Hãy xem Thánh xưa bảo dạy như vầy: “Như binh khí quốc gia, bất đắc dĩ mới dùng”. Trên “Việc bổn phận”, không làm gì có chuyện ấy.
“Hôm nay sơn tăng rao bày như vậy, thật cũng giống như không mộng mà nói mộng, da thịt lành mà khoét cho thành ghẻ. Bậc hiểu biết mà đến thì quả đáng ăn gậy. Chỉ vì nay không có tay hạ được độc thủ ư ? Nếu có thì có thể báo đáp cái ân không thể báo đáp, cùng chung hoằng hóa vô vi. Như không làm ngược lệnh này, tốt rồi vậy.”
Bổng đưa cây gậy lên, nói : “Đưa ngang kiếm thần toàn chánh lệnh. Thái bình hoàn vũ, chém si ngoan!”
Dộng gậy một cái, hét một hét, liền xuống tòa.
Theo chỗ thấy của Ngài Đại Huệ thì hiện vi trần, hiện thế giới cũng chưa là kỳ đặc. Đáng nói là “Vô Trước cũng không”.
Kinh : “Mọi thứ trước mắt đều là Đệ Nhất Ba La Mật Đa, gọi là Tôn Trọng Hạnh.
Thông rằng : Hiện vi trần, hiện thế giới, hiện thân thể, hiện thuyết pháp đều chẳng ngăn ngại nhau, đều từ trong Tâm Bát Nhã tuôn ra. Sáu Ba La Mật gọi là Đáo Bỉ Ngạn (18), chỉ có Bát Nhã là tối cao Đệ Nhất. Bát Nhã là Đại Trí Huệ, vượt tất cả những gì tôn quý nhất nên gọi là Tôn Trọng Hạnh. Nếu chỉ nhận thấy, nghe, hay, biết, đuổi theo trần trôi lăn mà cho là diệu dụng, đó là việc phía “Con tôi cái tớ”, “Trước lừa sau ngựa”, chẳng có gì là tôn quý.
Tổ Cư nói : “Như người nơi mỗi thứ đều rõ. Nơi mỗi vật đều thông thì chỉ gọi là người rõ chuyện, rốt cuộc chẳng thể gọi là Tôn Quý. Hãy biết Tôn Quý là một đường tự khác. Tức đó là vật cực quý cực trọng, chẳng được rồi đem hướng về phía Tôn Quý. Hãy biết cái đó chẳng thể nghĩ bàn, chẳng đợi tâm mong. Bởi thế, người xưa nói: “Giống như hai tấm gương, ánh sáng mỗi bên đối nhau, quang minh cùng chiếu, chẳng hề thêm bớt há chẳng phải là một thứ sao?” Còn gọi là chuyện phía bên ảnh tượng. Như mặt trời mọc, chiếu sáng thế gian, một phần là sáng tỏ còn phần nửa kia gọi là gì? Như nay người chưa rõ được bóng sáng ở nơi đầu cửa, là chuyện nông cạn bên ngoài, mà cho là chuyện trong nhà thì sao được?”
Vị tăng hỏi Tổ Vân Cư : “Như sao là chỗ tôn trọng của Sa Môn?”
Tổ Cư nói : “Chỗ tâm thức chẳng đến”.
Có vị tăng hỏi thiền sư Quảng Lợi Dung : “Ngàn đường bặt nẻo, nghĩ nói chẳng thấu thì thế nào?”
Đáp rằng : “Vẫn còn là kẻ dưới thềm”.
Hỏi : “Như sao là người trên thềm?”
Đáp rằng : “Lầu rồng chẳng giở tay”.
Rồi nói : “Thế nào là người tôn quý ấy? Thử nói xem! Chớ có ngồi mãi trên thiền sàng, gặp người khác thì chẳng chịu đâu. Bỗng bị bậc sáng mắt bức bách liền hướng về trong núi Thiết Vi ẩn mình. Nếu đến cửa Quảng Lợi này phải nói cho được Đệ Nhất Cú, liền mở một mối Đạo, cùng huynh đệ thương lượng”.
Khi ấy có một vị tăng bước ra lễ bái.
Ngài nói : “Sắp nói ấy là chủ tàu bè nước khác, nào hay là người buôn bán xứ này !”
Chỗ này mà chẳng thấu rõ Đệ Nhất Ba La Mật Đa thì quả khó mà thấy suốt một đường Tôn Trọng rõ ràng như lằn chỉ tay.
Kinh : “Như thế viên dung, thành tựu Quy Tắc của mười phương Chư Phật, gọi là Thiện Pháp Hành.
Thông rằng : Ở địa vị trước hiện vi trần hiện thế giới, mọi thứ diệu dụng đều là Đệ Nhất Ba La Mật Đa từ trong chỗ Bất Tư Nghì tuôn ra, nên viên dung vô ngại, thành tựu Quy Tắc lợi sanh của mười phương Chư Phật. Quy Tắc ấy là Pháp vậy. Viên dung không dấu vết, đó là Thiện Pháp. Chẳng phải Thiện Pháp thì không thể độ chúng sanh. Hạnh này đã viên mãn, dần dần hướng về Bi Nguyện vậy.
Thiền sư Đại Huệ Tông Cảo thượng đường : “Muốn rõ nghĩa Phật Tánh phải xem thời tiết nhân duyên. Thời tiết đến, Lý ấy tự sáng”.
Ngài dựng đứng cây phất tử mà nói : “Có thấy không?”
Gõ thiền sáng nói : “Có nghe không? Thấy, nghe rõ ràng là cái gì thế? Như hướng vào trong ấy đưa ra được thì ơn vua ơn Phật một lúc đền xong. Nếu chưa như thế thì Kính Sơn(19) phá dây leo cho”.
Lại đưa cây phất tử lên mà nói : “Xem đây, xem đây ! Phật Vô Lượng Thọ trên đầu cây phất tử của Kính Sơn, phóng đại quang minh chiếu soi không thể nói, không thể nói, lại ở nơi cõi Phật số vi trần thế giới không nói hết chuyển đại pháp luân, làm vô lượng vô biên Phật sự rộng lớn.
Trong đó, dầu phàm dầu Thánh, dầu chánh dầu tà, dầu cỏ dầu cây, dầu hữu tình dầu vô tình gặp ánh sáng ấy đều đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề. Do đó, Chư Phật ở đây mà đắc thì đầy đủ Nhất Thiết Chủng Trí. Chư Đại Bồ Tát ở đây mà đắc thì thành tựu hết các Ba La Mật. Bậc Bích Chi, Độc Giác ở đây mà đắc, ra đời không có Phật, hiện thần thông quang minh. Các vị chúng Thanh Văn kịp tới nghinh đón năm trăm vị A La Hán, ở đây mà đắc, được tám Giải Thoát, đủ sáu Thần Thông. Trời, Người ở đây mà đắc thì tăng trưởng Thập Thiện. Tu La ở đây mà đắc thì trừ bỏ kiêu mạn. Địa ngục ở đây mà đắc thì đốn siêu Thập Địa. Ngạ quỷ, bàng sanh cùng bốn loại sanh, chín cách sanh, tất cả hữu tình ở đây mà đắc thì tùy theo căn tánh đều được thọ dụng.
“Phật Vô Lượng Thọ phóng đại quang minh, làm xong các Phật sự, sau đó dùng nuớc bốn biển lớn rưới lên đỉnh đầu Đức Phật Di Lặc mà thọ ký A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, sẽ nơi ngôi Bổ Xứ làm đại Phật sự.
“Phật Vô Lượng Thọ có thần thông như thế, có tự tại như thế, có oai thần như thế, vào trong ấy, còn có biết ân, báo ân hay chăng? Nếu có, đưa ra cho Kính Sơn này cùng xem. Nếu không, hãy nghe lấy một bài tụng :
“Pháp giới mười phương trong miệng người
Cả thảy pháp giới tức cái lưỡi
Chỉ nhờ chót lưỡi với miệng này
Chúc tôi, ông thọ không hở sót
Đây ức vạn năm nhuần nguồn phước
Như biển rộng sâu đời không cạn
Sư tử hang, sanh sư tử con
Phụng hoàng hẳn xuất Đơn Sơn động
Là tốt là lành khắp chín trời
Cây cỏ côn trùng trọn đẹp vui
Đảnh lễ Bất Khả Tư Nghì Phật
Như bầy sao chầu mặt trăng soi
Khiến được rao bày vi diệu kệ
Trong Đệ Nhất Nghĩa nói Thật Chân”.
Đoạn cát đằng dây leo này của Ngài Đại Huệ hiển bày đầy đủ quy tắc của mười phương Chư Phật, đủ làm nghi thức Thiện Pháp cho khắp nơi. Chỉ tiếc là lúc ấy không có một tri âm tương kiến để liền lật ngược thiền sàng, xem coi Ngài còn lời nào chỉ dạy!
Kinh : “Mỗi mỗi đều là Nhất Chân vô vi thanh tịnh vô lậu, vì Tánh Bổn Nhiên là như thế, gọi là Chân Thật Hạnh.
Thông rằng: Toàn Tánh là Tu, nên thành Quy Tắc. Toàn Tu là Tánh, nên vốn Vô Vi. Rõ được Tánh vốn Vô Vi bèn chẳng hướng đến Bồ Đề, vì vốn tự trong sạch. Chẳng trừ phiền não, vì vốn tự Vô Lậu. Nhậm vận liền liền, trọn gọi là Thật Hạnh. Nếu một niệm dính vào hữu vi thì trọn chẳng phải Chân vậy. Hữu vi thuộc về tạo tác, làm sao được là Bổn Nhiên.
Đức Mã Tổ khai thị cho đại chúng rằng : “Đạo chẳng dùng tu, chỉ không ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? Hễ có tâm sanh tử tạo tác hướng theo đều là ô nhiễm. Như muốn hội thẳng vào Đạo thì bình thường tâm là Đạo. Sao là bình thường tâm? Không tạo tác, không thị phi, không nắm bỏ, không đoạn thường, không phàm không Thánh. Kinh nói “Chẳng phải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh Thánh Hiền đó là hạnh Bồ Tát”.
“Chỉ như nay đi, đứng, nằm, ngồi, ứng cơ tiếp vật trọn hết là Đạo. Đạo chính là Pháp Giới, cho đến hằng sa diệu dụng chẳng lọt ra ngoài Pháp Giới. Nếu chẳng như thế sao nói được là Tâm Địa pháp môn? Sao nói là Vô Tận Đăng? Tất cả pháp đều là tâm pháp. Tất cả danh đều là tâm danh. Muôn pháp đều từ tâm sanh. Tâm là nguồn gốc của vạn pháp. Kinh nói “Rõ Tâm, thấu suốt nguồn gốc, nên gọi là Sa Môn”.
“Danh bình đẳng, nghĩa bình đẳng, tất cả các pháp đều bình đẳng thuần nhất không tạp. Nếu ở trong giáo môn được tùy thời tự tại, kiến lập pháp giới thì trọn cả là pháp giới, nếu lập Chân Như thì trọn cả là Chân Như, nếu lập Lý thì tất cả pháp trọn là Lý, nếu lập Sự thì tất cả pháp trọn là Sự. Đưa lên thì một thì ngàn theo, Lý-Sự không khác, trọn hết thảy là diệu dụng, không còn Lý nào khác, tất cả đều do sự xoay chuyển ứng dụng của Tâm. Thí như bóng trăng có biết bao nhiêu mà mặt trăng chỉ là một cái. Các loại nước có biết bao nhiêu mà Tánh nước vốn là một. Mọi thứ lập thành đều do Nhất Tâm vậy. Kiến lập cũng được, quét sạch cũng được, trọn cả là diệu dụng, đều là nhà mình, chẳng có lìa Chân Như mà có được chỗ lập. Chỗ kiến lập tức Chân, trọn cả là Chân Thể của nhà mình. Nếu chẳng như thế lại là ai khác? Tất cả pháp đều là Phật Pháp. Hết thảy các pháp, đó là giải thoát. Giải thoát tức là Chân Như. Các pháp chẳng ra ngoài Chân Như. Đi, đứng, nằm, ngồi chính là hoạt dụng Bất Khả Tư Nghì, nào đợi thời tiết. Kinh nói “Chốn chốn, nơi nơi ắt đều có Phật”.
“Phật là Năng Nhân, tròn trí huệ, khéo cơ quyền, hay phá trừ lưới nghi của hết thảy chúng sanh, khỏi ngoài trói buộc của hữu, vô, tình phàm Thánh hết tận, Nhân-Pháp đều Không, chuyển pháp luân vô đẳng, siêu vượt số lượng, chỗ làm không ngại, Sự-Lý suốt thông. Như trời nổi mây, thoạt có liền không, chẳng lưu dấu ngại. Cũng như vẽ nước thành chữ, chẳng sanh chẳng diệt. Đó là Đại Tịch Diệt.
“Trong trói buộc(20) có tên là Như Lai Tạng. Khỏi trói buộc(21) gọi là Thanh Tịnh Thân. Pháp Thân vô cùng, thể không tăng giảm, lớn được nhỏ được, vuông được tròn được. Ứng vật hiện hình, như trăng trong nước, làu làu vận dụng chẳng gieo mầm rễ. Chẳng hết hữu vi, chẳng trụ vô vi. Hữu vi là cái thường dùng của vô vi. Vô vi là chỗ nương của hữu vi. Không trụ vào chỗ nương nên gọi là Như Không Vô Sở Y.
“Nghĩa tâm sanh diệt cũng là nghĩa Tâm Chân Như. Tâm Chân Như là như gương sáng soi hình tượng. Gương ví dụ cho Tâm, hình tượng ví dụ cho các Pháp. Nếu tâm bám nắm Pháp tức là dính líu với nhân duyên ở ngoài, đó là nghĩa sanh diệt. Chẳng bám nắm các Pháp đó là nghĩa Chân Như.
“Thanh Văn thì nghe thấy Phật Tánh; Bồ Tát thì mắt thấy Phật Tánh. Rõ thấu Vô Nhị gọi là Tánh Bình Đẳng. Tánh nào có khác nhau, Dụng thì chẳng đồng. Ở mê là Thức, ở ngộ là Trí. Thuận với Lý là ngộ, thuận với sự là mê. Mê tức là mê Bổn Tâm chính mình. Ngộ tức là ngộ Bản Tánh chính mình. Liền ngộ thì vĩnh viễn là ngộ, chẳng trở lại mê. Như mặt trời mọc chẳng hợp với tối. Mặt trời Trí Huệ hiện ra thì chẳng còn tối tăm phiền não.
“Tỏ suốt tâm cùng cảnh giới, vọng tưởng liền chẳng sanh. Vọng tưởng đã chẳng sanh đó là Vô Sanh Pháp Nhẫn. Xưa có, nay có, chẳng mượn tu Đạo, tọa thiền. Không tu, không tọa đó là Như Lai Thanh Tịnh Thiền.
“Như nay mà thấy lý chân chánh này thì chẳng tạo các nghiệp, tùy phận qua một đời, một thân một áo, ngồi đứng có nhau, Giới Hạnh tăng huân chứa trong nghiệp sạch. Chỉ là như thế, lo gì chẳng thông. Các người đứng đã lâu. Trân trọng !”
Đại sư Mã Tổ nói về cái Bản Lai Chân Thật, không mượn tu làm, mà lại không phế bỏ Giới Hạnh tăng huân chứa trong nghiệp sạch. Quả là đắc pháp yếu Viên Đốn.
Mười Hạnh như vậy chẳng rời Mười Trụ ở trước, tùy theo địa vị tiến tới thêm, không Hạnh nào mà chẳng khai thác Tánh Giác, đó là thành thục quả Phật mà thôi.
Trụ, tiếp theo đó là Hạnh chính là muốn chẳng trụ vào chỗ nương-y mà hành Bồ Tát Hạnh, rõ ràng như Đại Sư Mã Tổ chỉ bày. Đó mới là một vị (mùi) Chân Thật Hạnh vậy.