Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

10. Đào tạo Giáo thọ sư tại Mỹ

26/02/201218:01(Xem: 8635)
10. Đào tạo Giáo thọ sư tại Mỹ
phattuphuongtay_1
ĐÓNG GÓP CỦA CƯ SĨ

TRONG VIỆC HOẰNG PHÁP TẠI HẢI NGOẠI
(Kỷ Yếu Hội Luận 2011, Hội Phật Học Đuốc Tuệ)

Phần Ba - Bài viết Tham chiếu

ĐÀO TẠO GIÁO THỌ SƯ TẠI MỸ

Thích Trí Hoằng

Tất cả học tăng thuộc Phật Học Viện Trung Phần đều mang ơn sâu xa những bậc ân sư đã dày công giáo dưỡng trong đó nổi bật là nhị vị Hòa Thượng Thích Trí Thủ và Hòa Thượng Thích Đổng Minh là những người đã đem cả cuộc đời mình phụng sự cho Phật Pháp.

Hình ảnh hy sinh của các ngài là ngọn đuốc soi đường cho đàn hậu tấn. Dầu trong hoàn cảnh nào, địa phương nào, hình ảnh đó luôn luôn mang lại niềm tin, nghị lực cho học tăng. Mọi người khi nghĩ đến các Ôn đều khởi lên niềm thương kính vô biên công hạnh của các ngài và ước mong theo bước chân các ngài.

Trong niềm tri ân sâu xa và để đền đáp phần nào công ơn sâu dày đó, bài viết này như một lễ vật khiêm tốn để dâng cúng các ngài trong đó sự thành tựu cá nhân là kết quả của công sức và tâm nguyện của các ngài.

*

Trong ước nguyện giới thiệu Phật Pháp đến với người Mỹ như một nỗ lực nhằm giải tỏa những áp lực vật chất nặng nề trong xã hội phương Tây; khai thông một hướng mới cho sự khủng hoảng tâm linh trầm trọng hiện tại trong bối cảnh suy tàn của tín ngưỡng truyền thống phương Tây; cũng như duy trì văn hóa Việt trong những thế hệ trẻ gốc Việt, lớp học Phật Pháp nhằm đào tạo giáo thọ dành cho người nói tiếng Anh đã được hình thành.

Đây là một chương trình nhằm đào tạo những vị giảng sư cư sĩ Phật Giáotrong sứ mệnh hoằng pháp tại Hoa Kỳ.

Với những trăn trở thường nhật làm thế nào để đạo Phật bắt rễ tại phương Tây trong khi tăng đoàn phương Tây vắng mặt và cuộc sống xuất gia hãy còn xa lạ đối với xã hội Âu Mỹ?

Làm sao những người trí thức Hoa Kỳ có thể đóng góp tích cực trong việc giới thiệu Phật Pháp đến người dân để đáp ứng nhu cầu cấp thiết giúp mọi người tìm thấy sự an lạc trong cuộc sống đầy căng thẳng?

Làm sao để giúp người Tây Phương tìm thấy lại niềm tin từ những đỗ nát của văn hóa truyền thống?

Làm thế nào để những trẻ em gốc Việt tìm lại nguồn cội?

Từ những băn khoăn đó chúng tôi mạo muội tổ chức khóa đào tạo giáo thọ lấy cư sĩ làm nòng cốt với mục đích truyền bá Phật Pháp và văn hóa Việt tại Hoa Kỳ; và trong ước vọng khi Phật Pháp đã thấm nhuần thì các Phật tử Tây Phương sẽ phát tâm xuất gia. Hiện nay đã có hai vị tăng và ni người Mỹ.

Chương trình này được tổ chức tại Tu viện Chuang Yen (Trang Nghiêm) ở Carmel, New York. Đây là ngôi chùa lớn nhất tại Hoa Kỳ do cộng đồng người Hoa thành lập trên khu đất hơn một trăm hectares. Chùa đã hết lòng hỗ trợ thầy Thích Trí Hoằng trong việc tổ chức lớp đào tạo giáo thọ cũng như bảo trợ chương trình Phật Pháp cho tù nhân.

1/ Đào tạo giáo thọ (Dharma Teacher Training Course):

Lớp đào tạo giáo thọ là một chương trình nghiên cứu và tu tập Phật Pháp ba năm. Chương trình được thiết kế để cung cấp cho sinh viên một sự hiểu biết chuyên sâu của Phật giáo và thực hành Phật Pháp trong ba truyền thống Nguyên Thủy, Đại Thừa và Kim Cương thừa. Năm đầu tiên của chương trình cung cấp một cái nhìn tổng quan rộng lớn về Phật giáo. Năm thứ hai tập trung vào các kinh điển Phật giáo. Năm thứ ba tập trung vào triết học Phật giáo và các ứng dụng như khoa học, tâm lý học, và tâm lý trị liệu.. .

Trong chương trình học mỗi năm có sáu ngày chuyên tu, ba ngày lẻ và ba ngày liên tục. Trong khóa tu cuối khóa học viên có thì giờ để trình bày kiến giải của mình trong một đề tài tự chọn và mọi người có quyền phát biểu tranh luận về đề tài thuyết trình. Sau khi hoàn tất cả ba năm, sinh viên được cấp bằng tốt nghiệp về Phật Học.

Những sinh viên nào muốn trở thành giáo thọ cần phải học thêm một năm thứ tư nữa. Sinh viên này được vị giáo trưởng dòng tu tuyển chọn và mời tham gia.

Những sinh viên hoàn tất tốt năm thứ tư có thể được thụ phong giáo thọ trong Dòng Tu Giáo Thọ (Dharma Teacher Order). Dòng tu này do thầy Thích Trí Hoằng sáng lập năm 2000.

Từ đó đến nay, những thành viên của Dòng Tu Giáo Thọ đã bắt đầu thành lập những Tăng thân (nhóm Thiền) tại địa phương của mình. Như thế Phật Pháp được lan rộng.

Những thành viên khác dấn thân vào công việc xây dựng Lớp Phật Pháp Hàm Thụ Cho Tù Nhân; hay làm những điều phối viên lớp Thiền cho người Mỹ vào mỗi Chủ Nhật tại Chùa Chuang Yen; hay là tìm nhiều cách sáng tạo khác để sử dụng kiến thức và kinh nghiệm tu tập của họ trong việc truyền bá Phật Pháp tại học đường, bệnh viện, nhà dưỡng lão...

2/ Lớp Phật Pháp Hàm Thụ Cho Tù Nhân (Correspondence course for prison inmates):

Chương trình này tiếp nhận học viên là những tù nhân trên toàn nước Mỹ. Hiện nay có trên 500 người tham dự. Họ học ba năm và được cấp bằng Tốt Nghiệp Phật Học sau khi hoàn tất chương trình. Dưới sự hướng dẫn của thầy Thích Trí Hoằng và sự điều hành của giáo thọ Richard Baksa, tất cả thành viên của Dòng Giáo Thọ và sinh viên Lớp Phật Pháp đã giúp đỡ hữu hiệu các tù nhân trong việc tu học Phật Pháp.

Các tài liệu Phật Pháp được gởi bằng bưu điện đến các tù nhân. Sau khi đọc xong họ trả lời những câu hỏi trong phần bài tập và gởi về cho vị giáo thọ liên hệ. Nếu có những câu hỏi liên quan đến giáo lý hay câu hỏi cá nhân liên quan cuộc sống họ có thể liên hệ với vị giáo thọ này. Nhờ chương trình này, rất nhiều tù nhân đã biết đến Phật Pháp và đã tìm thấy hy vọng trong việc cải tạo cuộc sống. Khi ra tù họ là những Phật tử. Có người tiếp tục học để trở thành giáo thọ giúp đỡ những tù nhân khác. Toàn bộ sách giáo khoa cũng như việc ký gởi đều do Chùa Chuang Yen đảm trách.

Để hiểu rõ thêm về lớp học Phật Pháp cho tù nhân xin vào trang web sau:

http://www.baus.org/baus/programs/PrisonCorrespondenceCourse.html

Về những sinh hoạt và hình ảnh của chương trình giáo thọ xin vào trang web sau:
www.dharmatraining.org

Trên đây là giới thiệu sơ lược về nổ lực hoằng pháp tại Mỹ trong mong ước làm cho đạo Phật bắt rễ tại Hoa Kỳ. Đạo Phật tại Mỹ trong tương lai sẽ có những hình thức sinh hoạt phù hợp với hoàn cảnh tại đó. Tuy nhiên tư tưởng nòng cốt vẫn là tinh thần phóng khoáng hòa hợp của đạo Phật Việt Nam giúp chuyển hóa khổ đau thành hạnh phúc; và Việt Nam cũng là quê hương tâm linh của truyền thống này.

Tháng mười Tân Mão (2011)

Môn sinh Thích Trí Hoằng




Chúng đệ tử của Phật gồm hai thành phần chính yếu là người xuất gia và người cư sĩ Phật tử. Không riêng gì người xuất gia, người cư sĩ Phật tử cũng đóng góp một vai trò quan trọng trong đời sống tu học và hộ trì Chánh pháp. Một thời đại Phật pháp hưng thịnh thì số lượng người cư sĩ Phật tử phát triển đông đảo. Một quốc gia được gọi là quốc giáo thì dân số theo đạo Phật quyết định tiêu chuẩn đó.

Đạo Phật là con đường tu học theo hệ thống mở, đối tượng đạo Phật là con người. Mọi người có quyền trở thành một người Phật tử theo tinh thần tự nguyện trở về nương tựa Chánh pháp và thăng hoa đời sống của mình. Vị cư sĩ là người quy y Tam bảo, thành tựu về giới, thành tựu chánh tín, thực hành bố thí và phước tuệ song tu, chứng quả giải thoát, thì đó là người cư sĩ gương mẫu trong đạo Phật.

Vì muốn nhận thức rõ vai trò và mục đích của người cư sĩ, vị cư sĩ tên là Mahànàma, đã mạnh dạn hỏi trực tiếp đến Đức Phật về vấn đề liên quan người cư sĩ như sau: “Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là người cư sĩ? Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là người cư sĩ đầy đủ giới? Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là người cư sĩ đầy đủ tín? Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là người cư sĩ đầy đủ lòng bố thí? Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là người cư sĩ đầy đủ trí tuệ?" Phật dạy:

“Ai quy y Phật, này Mahànàma, quy y Pháp, quy y chúng Tăng. Cho đến như vậy, này Mahànàma, là người cư sĩ.

Này Mahànàma, người cư sĩ từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu. Cho đến như vậy, này Mahànàma, là người cư sĩ đầy đủ giới.

Ở đây, này Mahànàma, người cư sĩ có lòng tin, tin tưởng ở sự giác ngộ của Như Lai: “Đây là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn”. Cho đến như vậy, này Mahànàma, là người cư sĩ đầy đủ tín.

Ở đây, này Mahànàma, người cư sĩ trú ở gia đình, tâm thoát khỏi cấu uế của xan tham, bố thí dễ dàng, bàn tay rộng mở, thích thú từ bỏ, đáp ứng điều yêu cầu, thích thú chia sẻ vật bố thí. Cho đến như vậy, này Mahànàma, là người cư sĩ đầy đủ bố thí.

Ở đây, này Mahànàma, người cư sĩ có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệt (các pháp), trí tuệ các bậc Thánh thể nhập (các pháp), cho đến chân chánh đoạn tận khổ đau. Cho đến như vậy, này Mahànàma, là người cư sĩ đầy đủ trí tuệ.”1

Quy y Tam bảolà khởi đầu cho lộ trình tu học và tiếp nhận khả năng chuyển hóa vận mạng của cả đời người. Vì khi quy y Tam bảo, người cư sĩ có nhiều cơ hội thực hành phương pháp tu dưỡng có hiệu quả. Từ đó, họ cảm nhận sự an lạc và lợi ích lớn trong đời sống bản thân. Nương tựa Phật, Pháp và Tăng là thừa hưởng sức mạnh đạo đức của đại chúng và vận dụng được kinh nghiệm quý báu trong việc tu học. Người cư sĩ đã quy y Tam bảo thực sự là con của Phật, là thành viên trong căn nhà Phật pháp. Do vậy mà một người khi quy y thường có cái tên mới, gọi là Pháp danh. Lâu nay sống ở nhà, tên mình do cha mẹ đặt. Nay trở về với đạo, vị thầy hướng dẫn đặt pháp danh. Pháp danh cũng là tên gọi kể từ khi sinh ra trong giáo pháp của Phật, làm mới đời sống của mình bằng cách thực tập theo lời Phật dạy.

Thành tựu về giới:Người cư sĩ phải thành tựu về giới, tức thực hành Ngũ giới nghiêm túc. Ai không như pháp thọ trì giới thì chướng ngại kết quả tu học. Thọ giới, giữ giới và đắc giới là diễn tiến quá trình tu học tích cực. Giới là khuôn vàng thước ngọc để chúng ta rèn luyện đạo đức cá nhân, gia đình, và xã hội. Ai giữ giới trong sạch thì có đời sống lành mạnh và trí tuệ sáng suốt, mạng chung tâm không sợ hãi, sanh vào cõi lành. Thành tựu giới để thành tựu định và tuệ giải thoát.

Thành tựu chánh tín:một yếu tố quan trọng trong phụng sự Tam bảo của người cư sĩ Phật tử là niềm tin. Niềm tin là sự tịnh tín với Phật, Pháp và Tăng. Niềm tin phát khởi thì có sự tu học tinh tấn. Phật tử luôn tư duy ân đức của Tam bảo mà khởi tâm gìn giữ căn nhà Phật pháp. Vì lý do nào đó mà có người làm tổn hại đến Tam bảo, người cư sĩ tịnh tín cảm nhận được sự đau xót giống như trăm ngàn mũi kim đâm vào thân mình. Đó là nỗi đau của người biết tôn trọng chân lý và lợi ích đời sống tha nhân. Phát huy đạo Phật cần có những người Phật tử tịnh tín như vậy. Phật dạy: “Ví như, này các Tỳ kheo, trên khoảnh đất tốt, tại ngã tư đường, có cây bàng to lớn là chỗ nương tựa cho các loài chim. Cũng vậy, này các Tỳ kheo, các thiện nam tử có lòng tin là chỗ nương tựa cho quần chúng, cho các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cho nam và nữ cư sĩ”2. Người cư sĩ Phật tử phải khẳng định mình là chỗ nương tựa cho những đệ tử Phật hành đạo, ví như cây bàng cho các loài chim nương tựa và sinh sống. Đạo Phật từ bao đời nay tồn tại và phát triển tốt đẹp trong xã hội là nhờ lòng tịnh tín của người cư sĩ Phật tử.

Thực hành bố thí:Bố thí có nghĩa là cho ra bằng tình thương, bằng trí tuệ. Bố thí không chỉ dựa trên giá trị vật chất mà còn nhiều giá trị khác. Tục ngữ có câu: “Cách cho hơn đem của cho”. Người cho với tấm lòng vui vẻ, dù của cải (vật bố thí) ít nhưng người thọ nhận cảm thấy an lạc. Kinh Phật dạy: Bố thí có ba phương diện, đó là: Tài thí, Pháp thí và Vô úy thí.

Tài thí là dùng tiền tài, phẩm vật bố thí, như cúng dường Tam bảo, cúng dường cha mẹ, giúp đỡ người nghèo khó và tham gia làm từ thiện. Khi cúng dường hay bố thí, quan trọng với tâm rộng mở, không bị trói buộc. Không dùng tiền của bố thí mà sanh lòng tự cao, ỷ lại hay khoe khoang theo thói hư danh. Dù tài vật nhiều hay ít nhưng cho ra với tâm giải thoát. Phật dạy: “Nhưng ở đây, này Sàriputta, có người bố thí với tâm không mong cầu, bố thí với tâm không trói buộc, bố thí không với ý nghĩ “ta sẽ hưởng thọ cái này ở đời sau”, chỉ bố thí với ý nghĩ “lành thay sự bố thí”. Vị ấy bố thí để trang nghiêm tâm. Do bố thí như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên ở cõi trời Phạm Chúng. Khi nghiệp lực đoạn tận, thần lực, danh tiếng và uy quyền đoạn tận, vị ấy trở thành vị Bất lai, không trở lui lại trạng thái này”3. Bố thí để trang nghiêm tâm, dù người nghèo hay giàu, bố thí với tấm lòng vô ngã vị tha thì có phước báo to lớn.

Bố thí pháp là học giáo lý từ bi trí tuệ của Phật để chia sẻ cho mọi người biết vận dụng tu học và sống có ý nghĩa. Đạo Phật là đạo chung cho người đã đến tu học, chung cho người đang đến tu học, chung cho những ai sẽ đến tu học. Đức Phật vì chúng sanh và nhân loại mà truyền bá giáo lý giải thoát. Do vậy, dù tu sĩ hay cư sĩ đều có trách nhiệm chung về việc hoằng dương Phật pháp. Người cư sĩ Phật tử tùy duyên bố thí pháp, như cúng dường ấn tống kinh sách, báo chí Phật giáo để mong mọi người hiểu rõ giáo lý của Phật thì đó là một cách bố thí pháp.

Vô úy thí là giúp người vượt qua sợ hãi. Người con Phật, luôn kiên trì nhẫn nại truyền bá Chánh pháp vào dòng đời khổ đau thì cần có đức vô úy. Chúng ta đang thực hành chân lý tự do và giải thoát trên đời, những người đau khổ cần sự giúp đỡ thì chúng ta sẵn lòng. Chúng ta dùng lời ái ngữ an ủi mọi người lúc tai ương hoạn nạn, giúp người vượt qua sự khó khăn và bế tắc trong đời sống bằng tình thương và sự hiểu biết.

Đức Phật thường khuyên các đệ tử cư sĩ không những nỗ lực tu các thiện pháp mà còn khích lệ tu tuệ giải thoát. Pháp thực hành cụ thể là thiền quán trên mọi hiện tượng để thấu đạt lý sanh diệt. Sanh diệt là ý nghĩa của giáo lý duyên khởi, pháp mà Đức Phật đã thực hành và chứng đắc quả vị giải thoát. Phật dạy rằng: “Ai thấy duyên khởi là thấy pháp. Ai thấy pháp là thấy Ta (Phật)”4. Quán các pháp tùy duyên sanh, tùy duyên diệt thì tâm chấp thủ và phiền não sẽ đoạn trừ. Từ đó tâm ly dục, ly bất thiện pháp xuất hiện, an trú vào trạng thái thanh tịnh của bậc Thánh. Mọi hành động tu tập đều chỉ đạo bằng trí tuệ, làm phước thiện với tâm không chấp thủ đều là yếu tố đưa đến chứng ngộ quả vị giải thoát.

Phẩm hạnh của cư sĩ Phật tử được Đức Phật thuyết trong các bản kinh thuộc hệ Nikàya này rất chi tiết và dễ hiểu. Từ khởi đầu quy y, tu tập Năm giới, giữ lòng tịnh tín với Tam bảo, thực hành bố thí và thành tựu trí tuệ chứng ngộ Thánh quả liên quan trong sự tu học của người cư sĩ mà nhiều kinh điển khác thường nhắc đến. Chúng ta thấy bổn phận và trách nhiệm to lớn của người cư sĩ trong việc tu học và truyền bá Chánh pháp trong đời sống nhân gian. Thiết nghĩ rằng, nếu mọi người đều đón nhận và thực hành đúng theo tôn chỉ của Phật dạy thì đạo Phật sẽ phát triển vô cùng mạnh mẽ trong mọi hoàn cảnh, mọi thời đại, và cũng đem đến hạnh phúc an lạc cho tất cả mọi người.

(1)Kinh Tương ưngV.55.37, bản dịch của HT.Thích Minh Châu.

(2)ĐTKVN, Tăng chi bộII, chương 5, phẩm Sumana, phần Sự lợi ích của lòng tin, VNCPHVN, ấn hành 1996, tr.369.

(3) ĐTKVN, Tăng chi bộ III, chương 7, phẩm Tế đàn, phần Bố thí, VNCPHVN ấn hành 1996, tr.355.

(4) Tiểu bộ kinh I, tr.48, bản dịch của HT. Minh Châu, ĐTKVN.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com