CUỘC ĐỜI TRƯỚC MẶT
Lời dịch: Ông Không
Giới thiệu
Đ |
ối với tôi, có vẻ rằng một loại hoàn toàn khác hẳn của luân lý và cư xử, và một hành động bắt nguồn từ sự hiểu rõ toàn tiến hành của sống, đã trở thành một yêu cầu cấp bách, trong thế giới của những vấn đề và những khủng hoảng chồng chất của chúng ta. Chúng ta cố gắng giải quyết những vấn đề này qua những phương pháp thuộc tổ chức và thuộc chính trị, qua sự tái điều chỉnh thuộc kinh tế và vô vàn những đổi mới khác nhau. Tất cả những đổi mới, dù rộng lớn và có vẻ vĩnh viễn, trong chính chúng chỉ gây ra sự hỗn loạn thêm nữa và sự cần thiết phải đổi mới thêm nữa. Nếu không hiểu rõ toàn sự tồn tại phức tạp của con người, thuần túy đổi mới sẽ tạo ra sự đòi hỏi khó hiểu cho những đổi mới thêm nữa. Không có kết thúc cho sự đổi mới; và không có giải pháp cơ bản trong phương cách này.
Những cách mạng thuộc chính trị, kinh tế hay xã hội cũng không là giải pháp, bởi vì chúng sản sinh những Chính thể chuyên chế kinh hoàng, hay sự chuyển giao thuần túy của quyền hành và uy quyền vào những bàn tay của một nhóm người khác. Tại bất kỳ thời gian nào, những cách mạng như thế không là phương cách ra khỏi sự hỗn loạn và sự xung đột.
Nhưng có một cách mạng hoàn toàn khác hẳn và phảixảy ra nếu chúng ta khao khát thoát khỏi chuỗi vô tận của những lo âu, những xung đột và những thất vọng mà chúng ta bị trói buộc. Cách mạng này phải bắt đầu, không phải bằng lý thuyết và ý tưởng, mà đã chứng tỏ rằng vô ích, nhưng bằng một thay đổi cơ bản trong chính cái trí. Một thay đổi như thế có thể được tạo ra chỉ qua sự giáo dục đúng đắn và sự phát triển tổng thể của con người. Nó là một cách mạng mà phải xảy ra trong tổng thể cái trí và không chỉ trong sự suy nghĩ. Rốt cuộc, sự suy nghĩ chỉ là một kết quả và không là cái nguồn. Phải có một thay đổi cơ bản trong cái nguồn và không phải là sự sửa đổi của kết quả. Hiện nay, chúng ta đang cố gắng cải thiện những kết quả, những triệu chứng. Chúng ta không đang sáng tạo một thay đổi cốt lõi, lật tung những phương cách cũ kỹ của sự suy nghĩ, giải thoát cái trí khỏi những truyền thống và những thói quen. Chính là sự thay đổi cốt lõi này mà chúng ta phải quan tâm và chỉ có sự giáo dục đúng đắn mới thực hiện được điều đó.
Tìm hiểu và học hành là chức năng của cái trí. Qua học hành, tôi không có ý sự vun đắp thuần túy của ký ức hay sự tích lũy của hiểu biết, nhưng khả năng để suy nghĩ một cách rõ ràng và thông minh mà không có ảo tưởng, để bắt đầu từ những sự kiện và không phải từ những niềm tin và những lý tưởng. Không có học hành nếu sự suy nghĩ bắt nguồn từ những kết luận. Chỉ thâu lượm thông tin hay hiểu biết, không là học hành. Học hành hàm ý tình yêu của sự hiểu rõ và tình yêu của làm một việc vì chính nó. Học hành chỉ có thể xảy ra khi không có sự ép buộc thuộc bất kỳ loại nào. Và sự ép buộc mang nhiều hình thức, đúng chứ? Có ép buộc qua sự ảnh hưởng, qua sự quyến luyến hay sự đe dọa, qua sự khuyến khích thuyết phục hay những hình thức tinh tế của phần thưởng.
Hầu hết mọi người đều nghĩ rằng học hành được khuyến khích qua so sánh, nhưng không so sánh là học hành. Sự so sánh tạo ra thất vọng và chỉ khơi dậy ganh tỵ, mà được gọi là ganh đua. Giống như những hình thức khác của sự thuyết phục, sự so sánh cản trở học hành và nuôi dưỡng sợ hãi. Sự tham vọng cũng nuôi dưỡng sợ hãi. Sự tham vọng, dù là cá nhân hay được đồng hóa cùng tập thể, luôn luôn chống lại xã hội. Trong liên hệ sự tham vọng tạm gọi là cao cả gây thoái hóa ngay tại cơ bản.
Rất cần thiết phải khuyến khích sự mở mang một cái trí tốt lành – một cái trí mà có thể giải quyết nhiều vấn đề của sống như một tổng thể, và không cố gắng lẩn tránh chúng và thế là trở nên thất vọng, cay đắng, yếm thế hay tự mâu thuẫn. Và cái trí nhất thiết phải nhận biết được tình trạng bị quy định riêng của nó, những động cơ và những theo đuổi riêng của nó.
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí, và không chỉ cống hiến thông tin. Trong qui trình của truyền đạt sự hiểu biết, người giáo dục phải mời mọc sự bàn luận và khuyến khích những em học sinh tìm hiểu lẫn suy nghĩ một cách độc lập.
Uy quyền, như ‘cái người mà biết’, không có vị trí trong học hành. Cả người giáo dục và em học sinh đều đang học hành qua sự liên hệ lẫn nhau đặc biệt của họ; nhưng điều này không có nghĩa rằng người giáo dục lơ là trật tự của sự suy nghĩ. Trật tự của sự suy nghĩ không được tạo ra bởi kỷ luật trong hình thức của những câu nói khẳng định về hiểu biết; nhưng nó hiện diện một cách tự nhiên khi người giáo dục hiểu rõ rằng trong vun quén sự thông minh phải có một ý thức của tự do. Điều này không có nghĩa tự do để làm bất kỳ việc gì người ta ưa thích, hay chỉ suy nghĩ trong tinh thần của sự mâu thuẫn. Nhờ vào sự tự do nên em học sinh đang được giúp đỡ để nhận biết được những thôi thúc và những động cơ riêng của em, mà được phơi bày cho em qua sự suy nghĩ và hành động hàng ngày của em.
Một cái trí kỷ luật không bao giờ là một cái trí tự do, và một cái trí đã kiềm chế sự ham muốn cũng không bao giờ được tự do. Chỉ qua hiểu rõ toàn qui trình của sự ham muốn thì cái trí mới có thể được tự do. Kỷ luật luôn luôn giới hạn cái trí vào một chuyển động bên trong cái khung của một hệ thống suy nghĩ hay tin tưởng riêng biệt, đúng chứ? Và một cái trí như thế không bao giờ được tự do để thông minh. Kỷ luật gây ra sự phục tùng đối với uy quyền. Nó cống hiến khả năng để vận hành bên trong khuôn mẫu của một xã hội mà đòi hỏi năng lực làm việc, nhưng nó không thức dậy sự thông minh mà có khả năng riêng của nó. Cái trí không vun quén điều gì khác ngoại trừ khả năng dựa vào ký ức, giống hệt như cái máy tính hiện đại mà, mặc dầu nó vận hành bằng năng lực và sự chính xác kinh ngạc, vẫn chỉ là một cái máy. Uy quyền có thể thuyết phục cái trí suy nghĩ trong một phương hướng riêng biệt. Nhưng khi bị hướng dẫn để suy nghĩ trong những giới hạn nào đó, hay dựa vào những kết luận được khẳng định trước, không là suy nghĩ gì cả; nó chỉ vận hành giống như một bộ máy người, mà nuôi dưỡng sự bất mãn ích kỷ, mang theo cùng nó sự thất vọng và những đau khổ khác.
Chúng ta quan tâm đến sự phát triển tổng thể của mỗi con người, giúp đỡ anh ấy nhận ra khả năng trọn vẹn nhất và tột đỉnh nhất của riêng anh ấy – không phải khả năng tưởng tượng nào đó mà trong quan điểm người giáo dục duy trì như một ý tưởng hay một lý tưởng. Bất kỳ tinh thần nào đó của sự so sánh đều ngăn cản sự nở hoa tổng thể này của cá thể, dù anh ấy là một người khoa học hay một người làm vườn. Khả năng trọn vẹn của người làm vườn cũng giống hệt như khả năng trọn vẹn của người khoa học khi không có sự so sánh; nhưng khi sự so sánh chen vào, vậy thì có sự khinh miệt và những phản ứng ganh tỵ mà tạo ra sự xung đột giữa con người và con người. Giống như đau khổ, tình yêu không có so sánh; nó không thể được so sánh với cái to tát hơn hay cái kém cỏi hơn. Đau khổ là đau khổ, giống như tình yêu là tình yêu, dù nó ở trong những người giàu có hay trong những người nghèo khổ.
Sự phát triển trọn vẹn của mỗi cá thể sáng tạo một xã hội của những người bình đẳng. Sự đấu tranh trong xã hội hiện nay để tạo ra sự bình đẳng trên mức độ kinh tế hay trên mức độ tinh thần nào đó đều không có ý nghĩa gì cả. Những đổi mới xã hội vì mục đích thiết lập sự bình đẳng, nuôi dưỡng những hình thức khác của hoạt động chống lại xã hội; nhưng cùng sự giáo dục đúng đắn, không còn nhu cầu phải tìm kiếm sự bình đẳng qua những đổi mới thuộc xã hội hay những đổi mới khác, bởi vì ganh tỵ cùng sự so sánh về những khả năng của nó kết thúc.
Ở đây chúng ta phải phân biệt rõ ràng giữa chức năng và địa vị. Địa vị cùng tất cả những ưu thế thuộc thứ bậc và cảm xúc của nó, nảy sinh chỉ qua sự so sánh của những chức năng như những chức năng quan trọng hơn và những chức năng thấp kém hơn. Khi mỗi cá thể đang nở hoa đến khả năng trọn vẹn nhất của anh ấy, lúc đó không còn sự so sánh của những chức năng; chỉ còn lại sự diễn tả của khả năng như một giáo viên, hay một thủ tướng, hay một người làm vườn, và thế là địa vị mất đi sự chua chát của ganh tỵ.
Hiện nay khả năng làm việc hay kỹ thuật được công nhận qua có một bằng cấp sau danh tánh của một người; nhưng nếu chúng ta thực sự quan tâm đến sự phát triển tổng thể của con người, sự tiếp cận của chúng ta hoàn toàn khác hẳn. Một cá thể mà có khả năng có lẽ lấy một mảnh bằng và thêm vào những chữ cái đằng sau danh tánh của anh ấy, hay anh ấy có lẽ không, tùy ý anh ấy. Nhưng chính anh ấy, anh ấy sẽ biết những khả năng sâu thẳm riêng của anh ấy, mà sẽ không bị đóng khung bởi một mảnh bằng, và sự diễn tả của anh ấy sẽ không tạo ra sự khẳng định tự cho mình là trung tâm mà khả năng thuần túy thuộc kỹ thuật thường thường nuôi dưỡng. Sự khẳng định như thế là so sánh và thế là chống lại xã hội. Sự so sánh có lẽ tồn tại vì những mục đích chuyên chế; nhưng nó không dành cho người giáo dục khi so sánh những khả năng của những học sinh của anh ấy và đưa ra những đánh giá giỏi giang hơn hay kém cỏi hơn.
Bởi vì chúng ta quan tâm đến sự phát triển tổng thể của cá thể, từ khởi đầu học sinh có lẽ không được phép chọn lựa những môn học riêng của em, bởi vì sự chọn lựa của em có lẽ được đặt nền tảng trên những tâm trạng và những thành kiến thoáng chốc, hay trên tìm kiếm những môn học dễ dàng nhất để theo đuổi; hay em có lẽ chọn lựa tùy theo những đòi hỏi tức khắc của một nhu cầu đặc biệt. Nhưng nếu em được giúp đỡ để tự khám phá và vun quén những năng khiếu bẩm sinh của em, vậy thì một cách tự nhiên em sẽ chọn lựa, không phải những môn học dễ dàng nhất, nhưng những môn học mà qua đó em có thể bộc lộ những khả năng của em đến mức độ trọn vẹn nhất và tột đỉnh nhất. Nếu từ ngay khởi đầu học sinh được giúp đỡ để nhìn vào sống như một tổng thể, cùng tất cả những vấn đề thuộc tâm lý, trí năng và cảm xúc của nó, em sẽ không bị kinh hãi bởi nó.
Thông minh là khả năng tiếp xúc sự sống như một tổng thể; và đánh giá học sinh bằng những thứ hạng hay điểm số không khẳng định thông minh. Ngược lại, nó hạ thấp phẩm giá của con người. Sự đánh giá so sánh này làm què quặt cái trí – mà không có nghĩa rằng giáo viên không được theo dõi sự tiến bộ của mỗi học sinh và giữ một quyển sổ liên lạc của nó. Những phụ huynh, một cách tự nhiên đều lo lắng muốn biết sự tiến bộ của con cái họ, sẽ cần đến một quyển sổ liên lạc; nhưng nếu, bất hạnh thay, họ không hiểu rõ người giáo dục đang cố gắng làm gì, quyển sổ liên lạc sẽ trở thành một dụng cụ của sự ép buộc để sản sinh những kết quả mà họ ham muốn, và thế là phá hoại công việc của người giáo dục.
Những phụ huynh nên hiểu rõ loại giáo dục mà trường học có ý định cống hiến. Thông thường họ đều thỏa mãn khi thấy con cái của họ đang chuẩn bị để kiếm được một mảnh bằng thuộc loại nào đó mà sẽ bảo đảm cho các em học sinh một cuộc sống sung túc. Chẳng có bao nhiêu người quan tâm nhiều hơn thế. Dĩ nhiên, họ ao ước nhìn thấy con cái của họ được hạnh phúc, nhưng ngoại trừ sự ao ước mơ hồ này chẳng có bao nhiều người suy nghĩ sâu sắc về sự phát triển tổng thể của con cái họ. Bởi vì hầu hết những phụ huynh đều có sự ao ước lớn nhất là con cái họ phải có một nghề nghiệp thành công, một cách thương yêu họ dọa nạt và đe dọa các em phải thâu lượm hiểu biết, và thế là quyển sách trở thành quan trọng nhất; và kèm theo nó chỉ có sự vun quén của ký ức, chỉ có sự lặp lại mà không còn chất lượng của sự suy nghĩ thực sự đằng sau nó.
Có lẽ sự khó khăn to tát nhất mà người giáo dục phải đối diện là sự dửng dưng của những phụ huynh đối với một giáo dục sâu thẳm hơn và rộng lớn hơn. Hầu hết những phụ huynh đều chỉ quan tâm đến sự vun quén của hiểu biết hời hợt nào đó mà sẽ bảo đảm cho con cái họ những vị trí được kính trọng trong một xã hội thoái hóa. Vì vậy, người giáo dục không những phải giáo dục học sinh trong một phương hướng đúng đắn, nhưng còn phải thấy rằng những phụ huynh không phá hoại bất kỳ sự tốt lành nào có lẽ được thực hiện tại trường học. Thật ra, trường học và gia đình phải là những trung tâm kết hợp của sự giáo dục đúng đắn, và trong bất kỳ phương hướng nào không nên chống đối lẫn nhau, với những phụ huynh ham muốn một việc và người giáo dục đang làm một việc hoàn toàn khác hẳn. Rất quan trọng khi những phụ huynh phải hoàn toàn quen thuộc với việc gì người giáo dục đang thực hiện và phải hoàn toàn quan tâm đến sự phát triển tổng thể của con cái họ. Nó cũng là trách nhiệm lớn lao của những phụ huynh phải thấy rằng loại giáo dục này cần được thực hiện, giống như những người giáo dục, mà trách nhiệm của họ cũng đã quá nặng nề rồi. Một phát triển tổng thể của đứa trẻ có thể được tạo ra chỉ khi nào có sự liên hệ đúng đắn giữa những giáo viên, những học sinh và những phụ huynh. Bởi vì người giáo dục không thể nhượng bộ những ưa thích thoáng chốc và những đòi hỏi ngoan cố của những phụ huynh, họ cần phải hiểu rõ người giáo dục và đồng-hợp tác cùng anh ấy, và không phải tạo ra sự xung đột và sự hoang mang trong con cái của họ.
Sự hiếu kỳ tự nhiên của đứa trẻ, sự thôi thúc để học hành từ ngay khởi đầu, và chắc chắn điều này nên được khuyến khích liên tục một cách thông minh, để cho nó duy trì sự sinh động và không có sự biến dạng, và dần dần sẽ dẫn dắt đứa trẻ đến sự học hành nhiều môn học. Nếu sự háo hức để học hành này luôn luôn được khuyến khích trong đứa trẻ vậy thì sự học hành môn toán, địa lý, lịch sử, khoa học hay bất kỳ môn học nào khác, sẽ không còn là một vấn đề cho đứa trẻ hay cho người giáo dục. Học hành được thuận tiện khi có một bầu không khí của thương yêu vui vẻ và chăm sóc chu đáo.
Sự nhạy cảm và cởi mở về cảm xúc có thể được vun quén chỉ khi nào học sinh cảm thấy được an toàn trong sự liên hệ của em với những giáo viên. Cảm thấy của an toàn trong sự liên hệ là nhu cầu cơ bản của những đứa trẻ. Có một khác biệt vô cùng giữa cảm thấy của an toàn và cảm thấy của phụ thuộc. Có ý thức hay không ý thức, hầu hết những người giáo dục đều vun quén cảm thấy của phụ thuộc, và thế là một cách tinh tế khuyến khích sự sợ hãi – mà những phụ huynh cũng làm như thế trong cách cư xử thương yêu hay hung hăng riêng của họ. Sự phụ thuộc trong đứa trẻ được tạo ra bởi những khẳng định độc đoán và tùy tiện về phía những phụ huynh và những giáo viên liên quan đến đứa trẻ phải là gì và phải làm gì. Kèm theo sự phụ thuộc, luôn luôn có cái bóng của sự sợ hãi, và sự sợ hãi này xô đẩy đứa trẻ phải vâng lời, phải quy phục, phải chấp nhận một cách không suy nghĩ những mệnh lệnh và những hình phạt của những người lớn. Trong bầu không khí của sự phụ thuộc này, tánh nhạy cảm bị nghiền nát; nhưng khi đứa trẻ nhận biết và cảm thấy rằng em được an toàn, sự nở hoa cảm xúc của em không bị ngăn cản bởi sự sợ hãi.
Ý thức của an toàn này trong đứa trẻ không là sự đối nghịch của không-an toàn. Nó là cảm thấy của thật thanh thản, dù tại tổ ấm riêng của em hay tại trường học, cảm thấy rằng em có thể là cái gì em là, mà không bị ép buộc trong bất kỳ phương hướng nào; rằng em có thể leo trèo một cái cây và không bị la mắng nếu em bị ngã. Em có thể có ý thức của an toàn này chỉ khi nào những phụ huynh và những người giáo dục quan tâm sâu thẳm đến sự chăm sóc tổng thể của đứa trẻ.
Trong một trường học điều quan trọng là đứa trẻ phải cảm thấy thanh thản, hoàn toàn an toàn từ ngay ngày đầu tiên. Ấn tượng đầu tiên này có sự quan trọng tột đỉnh. Nhưng nếu bằng bất kỳ phương tiện nào và một cách giả tạo những người giáo dục cố gắng đạt được sự tự tin của đứa trẻ và cho phép em làm việc gì em ưa thích, vậy thì người giáo dục đang vun quén sự phụ thuộc; anh ấy không đang trao tặng đứa trẻ cảm thấy của an toàn, cảm thấy rằng em đang ở trong một nơi có những con người quan tâm sâu thẳm đến sự chăm sóc tổng thể của em.
Do bởi chính ấn tượng đầu tiên của sự liên hệ này được đặt nền tảng trên sự tự tin, mà đứa trẻ chưa bao giờ cảm thấy trước kia, sẽ trợ giúp hướng về một hiệp thông tự nhiên, mà không có những người trẻ suy nghĩ về những người lớn như một đe dọa phải sợ hãi. Một đứa trẻ cảm thấy được an toàn có những phương cách tự nhiên riêng của em để diễn tả sự kính trọng mà là điều cốt lõi trong học hành. Sự kính trọng này vượt khỏi mọi uy quyền và sự sợ hãi. Khi em có một cảm thấy của an toàn, cách cư xử hay hành vi của đứa trẻ không là cái gì đó bị ép buộc bởi một người lớn, nhưng trở thành bộ phận của toàn tiến hành của học hành. Bởi vì em cảm thấy an toàn trong sự liên hệ của em với giáo viên, tự nhiên đứa trẻ sẽ ý tứ; và do bởi bầu không khí của an toàn này nên tánh nhạy cảm và sự cởi mở có thể nở hoa. Bởi vì thanh thản, bởi vì cảm thấy được an toàn, đứa trẻ sẽ làm việc gì em ưa thích; nhưng trong làm việc gì em ưa thích, em sẽ tìm được điều gì là việc đúng đắn mà em phải làm, và thế là hành vi của em sẽ không phải bởi vì kháng cự, hay bướng bỉnh, hay những cảm thấy bị kiềm chế, hay sự diễn tả thuần túy của một thôi thúc tức khắc.
Tánh nhạy cảm có nghĩa nhạy cảm đến mọi thứ chung quanh người ta – đến những cái cây mới mọc, những con thú, những cái cây già cỗi, những bầu trời, những dòng nước của con sông, con chim đang vẫy cánh; và cũng cả đến những tâm trạng của những con người chung quanh người ta, và đến người lạ đang đi ngang qua. Tánh nhạy cảm này sáng tạo một chất lượng của sự phản ứng không ích kỷ, không tính toán, mà là đạo đức và hành vi đúng đắn. Khi có nhạy cảm, trong hành vi của đứa trẻ sẽ khoáng đạt và không lén lút; thế là một gợi ý đơn thuần của giáo viên sẽ được chấp nhận dễ dàng, mà không có sự chống đối hay xung đột.
Bởi vì chúng ta quan tâm đến sự phát triển tổng thể của con người, chúng ta phải hiểu rõ những thôi thúc thuộc cảm xúc của em, mà mạnh mẽ nhiều hơn những lý luận thuộc trí năng; chúng ta phải vun quén khả năng thuộc cảm xúc và không giúp đỡ kiềm chế nó. Khi chúng ta hiểu rõ và thế là có thể tiếp xúc những vấn đề thuộc cảm xúc cũng như thuộc trí năng, sẽ không có ý thức của sợ hãi trong tiếp cận chúng.
Cho sự phát triển tổng thể của con người, sự cô đơn như một phương tiện của vun quén tánh nhạy cảm trở thành một cần thiết. Người ta phải biết một mình có nghĩa gì, thiền định có nghĩa gì, chết có nghĩa gì; và những hàm ý của cô đơn, của thiền định, của chết có thể biết được chỉ bằng cách tìm ra chúng. Những hàm ý này không thể được giảng dạy, chúng phải được học hành. Người ta có thể giải thích vắn tắt, nhưng học hành dựa vào điều gì được giải thích không là trải nghiệm của cô đơn hay thiền định. Muốn trải nghiệm điều gì là cô đơn và điều gì là thiền định, người ta phải ở trong trạng thái của thâm nhập; chỉ một cái trí ở trong trạng thái của thâm nhập mới có thể học hành. Nhưng khi sự thâm nhập bị kiềm chế bởi hiểu biết có sẵn, hay bởi uy quyền và trải nghiệm của một người khác, vậy thì học hành chỉ thuần túy là sự bắt chước, và sự bắt chước khiến cho một con người chỉ lặp lại điều gì được học hành mà không trải nghiệm nó.
Dạy học không chỉ là sự truyền đạt thông tin nhưng còn cả sự vun quén một cái trí đang thâm nhập. Một cái trí như thế sẽ thẩm thấu vào nghi vấn của tôn giáo là gì, và không đơn thuần là chấp nhận những tôn giáo đã được thiết lập cùng những đền chùa và những nghi lễ của chúng. Sự tìm kiếm Thượng đế, hay sự thật, hay bất kỳ từ ngữ nào người ta có lẽ muốn đặt tên nó – và không phải sự chấp nhận đơn thuần của niềm tin hay giáo điều – là tôn giáo thực sự.
Giống như em học sinh đánh răng hàng ngày, tắm rửa hàng ngày, học hành những sự việc mới mẻ hàng ngày, vì vậy cũng phải có hành động của ngồi yên lặng cùng những người khác hay một mình em. Cô đơn này không thể được tạo ra bởi sự chỉ dẫn, hay được thúc giục bởi uy quyền phía bên ngoài của truyền thống, hay được thuyết phục bởi sự ảnh hưởng của những người muốn ngồi yên lặng nhưng lại không thể một mình. Sự cô đơn giúp đỡ cái trí tự nhìn thấy chính nó rõ ràng như trong một cái gương, và tự giải thoát chính nó khỏi sự gắng sức hão huyền của tham vọng cùng tất cả những phức tạp, những sợ hãi, và những thất vọng của nó, mà là kết quả của hoạt động tự cho mình là trung tâm. Sự cô đơn trao tặng cái trí một ổn định, một bất biến mà sẽ không bị đo lường theo thời gian. Sự minh bạch như thế của cái trí là cá tính. Không có cá tính là trạng thái của tự-mâu thuẫn.
Có nhạy cảm là có tình yêu. Từ ngữ ‘tình yêu’ không là tình yêu. Và tình yêu không bị phân chia như tình yêu Thượng đế và tình yêu con người, nó cũng không bị đo lường như tình yêu một người hay tình yêu nhiều người. Tình yêu tự trao tặng sự giàu có giống như một bông hoa tự tỏa ra hương thơm của nó; nhưng chúng ta luôn luôn đang đo lường tình yêu trong sự liên hệ của chúng ta và thế là đang hủy diệt nó.
Tình yêu không là một sản phẩm của người đổi mới hay người công nhân xã hội; nó cũng không là một công cụ thuộc chính trị để sáng chế hành động từ nó. Khi người chính trị và người đổi mới nói về tình yêu, họ đang sử dụng từ ngữ và không tiếp xúc được sự thật của nó; bởi vì tình yêu không thể được sử dụng như một phương tiện dẫn đến một kết thúc, dù trong cái ngay tức khắc hay trong cái tương lai xa xôi. Tình yêu thuộc về toàn quả đất và không thuộc về cánh đồng hay cánh rừng riêng biệt. Tình yêu của sự thật không được hoàn thiện bởi bất kỳ tôn giáo nào; và khi những tôn giáo có tổ chức lợi dụng nó, nó không còn hiện diện. Những xã hội, những tôn giáo có tổ chức và những chính phủ chuyên chế, kiên trì trong những hoạt động khác nhau của chúng, vô tình hủy diệt tình yêu đó mà trở thành sự đam mê trong hành động.
Trong sự phát triển tổng thể của con người qua sự giáo dục đúng đắn, chất lượng của tình yêu phải được nuôi dưỡng và được duy trì từ ngay khởi đầu. Tình yêu không là cảm tính, nó cũng không là hiến dâng. Nó mãnh liệt như chết. Tình yêu không thể được mua bán qua sự hiểu biết; và một cái trí đang theo đuổi sự hiểu biết mà không có tình yêu, là một cái trí dính dáng trong sự tàn nhẫn và chỉ hướng về sự hiệu quả.
Vì vậy, từ ngay khởi đầu người giáo dục phải quan tâm đến chất lượng của tình yêu này, mà là sự khiêm tốn, sự hòa nhã, sự ân cần và sự lịch sự. Khiêm tốn và lịch sự là bẩm sinh trong con người của sự giáo dục đúng đắn; anh ấy chu đáo với tất cả, kể cả thú vật và cây cối, và điều này được phản ảnh trong cách cư xử và cách nói chuyện của anh ấy.
Sự nhấn mạnh vào chất lượng của tình yêu này giải thoát cái trí khỏi sự mê đắm của nó trong tham vọng, tham lam, và tham lợi của nó. Tình yêu không sở hữu quanh nó một tinh túy mà tự-diễn tả nó như sự kính trọng và sự thưởng thức tốt lành, hay sao? Liệu nó cũng không sáng tạo sự tinh lọc của cái trí, mà ngược lại có một khuynh hướng để củng cố chính nó trong sự kiêu hãnh, hay sao? Sự tinh lọc trong cách cư xử không là một điều chỉnh tự-áp đặt hay là kết quả của một đòi hỏi bên ngoài; nó hiện diện một cách tự phát cùng chất lượng của tình yêu này. Khi có sự hiểu rõ của tình yêu, vậy thì tình dục và tất cả những phức tạp và những tinh tế của sự liên hệ con người có thể được tiếp cận cùng sự thông minh và không phải bằng sự hưng phấn và sự sợ hãi.
Người giáo dục mà sự quan tâm cốt lõi là sự phát triển tổng thể của con người, phải hiểu rõ những gợi ý của sự thôi thúc thuộc tình dục mà có một vai trò quan trọng trong sống của chúng ta, và từ ngay khởi đầu có thể gặp gỡ sự hiếu kỳ tự nhiên của những đứa trẻ mà không khơi dậy một hứng thú không lành mạnh. Chỉ truyền đạt thông tin thuộc sinh học tại tuổi thanh thiếu niên có lẽ dẫn đến sự thèm khát trải nghiệm tình dục nếu chất lượng của tình yêu không được cảm thấy. Tình yêu lau sạch cái trí khỏi sự xấu xa. Về phía người giáo dục, nếu không có tình yêu và hiểu rõ, chỉ tách rời những em trai khỏi những em gái, dù bằng dây kẽm gai hay những mệnh lệnh, chỉ củng cố sự hiếu kỳ của các em và kích thích đam mê đó mà chắc chắn bị thoái hóa thành sự thỏa mãn thuần túy. Vì vậy, những nam sinh và nữ sinh phải được giáo dục cùng nhau một cách đúng đắn là điều rất quan trọng.
Chất lượng của tình yêu này cũng phải tự-diễn tả chính nó trong làm những việc bằng hai bàn tay của chúng ta, như làm vườn, thợ mộc, hội họa, thủ công nghệ; và qua những giác quan, như thấy những cái cây, những hòn núi, sự phong phú của quả đất, sự nghèo khó mà con người đã gây ra cho chính họ; và trong lắng nghe âm nhạc, tiếng hót của chim chóc, tiếng thì thầm của những dòng nước đang chảy.
Chúng ta quan tâm không chỉ sự vun quén của cái trí và sự thức dậy của tánh nhạy cảm thuộc cảm xúc, nhưng cũng còn cả sự phát triển thể lực đầy đủ, và đối với vấn đề này chúng ta phải suy nghĩ cẩn thận. Bởi vì nếu thân thể không khỏe mạnh, đầy sức sống, chắc chắn nó sẽ biến dạng sự suy nghĩ và dẫn đến không-nhạy cảm. Điều này quá rõ ràng nên chúng ta không cần thâm nhập vào chi tiết. Rất cần thiết khi thân thể phải ở trong sức khỏe hoàn hảo, nó phải được nuôi dưỡng bởi những loại thức ăn phù hợp và nghỉ ngơi đầy đủ. Nếu những giác quan không tỉnh táo, thân thể sẽ cản trở sự phát triển tổng thể của con người. Để có sự duyên dáng của chuyển động và sự kiểm soát cân bằng của các cơ bắp, phải có nhiều hình thức của tập luyện, nhảy múa và trò chơi. Một thân thể không được giữ gìn sạch sẽ, không chăm sóc cẩn thận và không có được dáng bộ đúng đắn, không có lợi cho sự nhạy cảm của cái trí và những cảm xúc. Thân thể không là dụng cụ của cái trí; nhưng thân thể, những cảm xúc và cái trí tạo thành con người tổng thể, và nếu chúng không sống hòa hợp cùng nhau, sự xung đột là điều không thể tránh khỏi.
Sự xung đột dẫn đến không-nhạy cảm. Cái trí có lẽ chi phối thân thể và kiềm chế những giác quan, và do đó nó khiến cho thân thể không-nhạy cảm; và một thân thể không-nhạy cảm trở thành một cản trở đối với sự sáng tạo trọn vẹn của cái trí. Sự hành hạ thân thể chắc chắn khôngcó lợi cho sự thâm nhập vượt khỏi những tầng sâu thẳm hơn của ý thức; bởi vì điều này có thể xảy ra được chỉ khi nào cái trí, những cảm xúc và thân thể không mâu thuẫn lẫn nhau, nhưng được hòa hợp và trong sự nhất quán, một cách không nỗ lực, mà không bị thúc đẩy bởi bất kỳ ý tưởng, niềm tin hay lý tưởng.
Trong sự vun quén của cái trí, sự nhấn mạnh của chúng ta không nên vào tập trung, nhưng vào chú ý. Tập trung là một qui trình của ép buộc cái trí phải thâu hẹp đến một điểm, ngược lại chú ý không có những biên giới. Trong qui trình tập trung đó cái trí luôn luôn bị giới hạn bởi một biên giới hay bởi một lãnh vực, nhưng khi sự quan tâm của chúng ta là hiểu rõ sự tổng thể của cái trí, thuần túy tập trung trở thành một cản trở. Chú ý là không giới hạn, mà không có những biên giới của hiểu biết. Sự hiểu biết hiện diện qua tập trung, và bất kỳ sự mở rộng của hiểu biết vẫn còn trong những biên giới riêng của nó. Trong trạng thái của chú ý, cái trí có thể và có sử dụng sự hiểu biết, mà dứt khoát phải là kết quả của tập trung; nhưng bộ phận không bao giờ là tổng thể, và thêm vào cùng nhau nhiều bộ phận không dẫn đến sự nhận biết của tổng thể. Sự hiểu biết, mà là qui trình thêm vào của tập trung, không sáng tạo sự hiểu rõ về cái không thể đo lường được. Tổng thể không bao giờ ở trong hai dấu ngoặc của một cái trí tập trung.
Vì vậy chú ý là quan trọng nhất, nhưng nó không hiện diện qua sự nỗ lực của tập trung. Chú ý là một trạng thái trong đó cái trí luôn luôn đang học hành mà không có một trung tâm để quanh quanh nó sự hiểu biết tập hợp lại như sự trải nghiệm được tích lũy. Một cái trí được tập trung vào chính nó sử dụng sự hiểu biết như một phương tiện của sự bành trướng riêng của nó; và hoạt động như thế trở thành tự-mâu thuẫn và chống-xã hội.
Học hành trong ý nghĩa thực sự của từ ngữ có thể xảy ra chỉ trong trạng thái chú ý đó, mà trong nó không có sự ép buộc bên trong hay bên ngoài. Sự suy nghĩ đúng đắn có thể xảy ra chỉ khi nào cái trí không bị nô lệ bởi truyền thống và ký ức. Do bởi chú ý mới cho phép sự yên lặng ập vào cái trí, mà là mở cánh cửa vào sự sáng tạo. Đó là lý do tại sao chú ý có sự quan trọng tột đỉnh nhất.
Sự hiểu biết có cần thiết tại mức độ thuộc chức năng như một phương tiện của vun quén cái trí, và không phải như một kết thúc trong chính nó. Chúng ta quan tâm, không phải đến sự phát triển của chỉ một khả năng, như khả năng của một người toán học, hay một người khoa học, hay một người nhạc sĩ, nhưng đến sự phát triển tổng thể của học sinh như một con người.
Trạng thái của chú ý đó được tạo ra như thế nào? Nó không thể được vun quén qua sự thuyết phục, sự so sánh, phần thưởng hay hình phạt, tất cả đều là những hình thức của sự ép buộc. Xóa sạch sợ hãi là khởi đầu của chú ý. Sợ hãi phải tồn tại chừng nào còn có sự thôi thúc để hiện diện hay để trở thành, mà là sự theo đuổi của thành công, cùng tất cả những thất vọng và những mâu thuẫn phức tạp của nó. Bạn có thể giảng dạy sự tập trung, nhưng sự chú ý không thể được giảng dạy, giống như bạn không thể giảng dạy sự tự do khỏi sợ hãi; nhưng chúng ta có thể bắt đầu khám phá những nguyên nhân gây ra sợ hãi, và trong hiểu rõ những nguyên nhân này, có xóa sạch sợ hãi. Vì vậy chú ý nảy sinh một cách tự phát khi chung quanh em học sinh có một bầu không khí của hạnh phúc, khi em có cảm thấy của an toàn, của thanh thản, và nhận biết được hành động không vụ lợi hiện diện cùng tình yêu. Tình yêu không có so sánh và thế là cả sự ganh tỵ lẫn sự hành hạ của ‘trở thành’ kết thúc.
Sự bất mãn thông thường mà tất cả chúng ta đều trải nghiệm, dù lớn tuổi hay trẻ thơ, mau chóng tìm được một phương cách dẫn đến sự thỏa mãn, và thế là những cái trí của chúng ta được ru ngủ. Sự bất mãn được đánh thức từ thời gian này sang thời gian khác qua chịu đựng đau khổ, nhưng lại nữa cái trí tìm được một giải pháp gây thỏa mãn. Trong bánh xe của bất mãn và thỏa mãn này cái trí bị trói buộc, và sự thức dậy liên tục qua đau khổ là bộ phận thuộc sự bất mãn của chúng ta. Bất mãn là một phương cách của thâm nhập, nhưng không thể có thâm nhập nếu cái trị bị cột chặt vào truyền thống, vào những lý tưởng. Thâm nhập là ngọn lửa của chú ý.
Qua từ ngữ bất mãn tôi có ý một trạng thái mà trong nó cái trí hiểu rõ ‘cái gì là’, cái thực tế, và thâm nhập liên tục để phát hiện sâu thẳm. Bất mãn là chuyển động vượt khỏi những giới hạn của ‘cái gì là’; và nếu bạn tìm được những phương cách và những phương tiện của bóp nghẹt hay khuất phục sự bất mãn, thế là bạn sẽ chấp nhận những giới hạn của hoạt động tự cho mình là trung tâm và của xã hội mà trong đó bạn tự-tìm được cho chính bạn.
Bất mãn là ngọn lửa thiêu rụi những cặn bã của thỏa mãn, nhưng hầu hết chúng ta đều tìm kiếm để làm tan biến nó trong vô vàn phương cách khác nhau. Thế là bất mãn của chúng ta trở thành sự theo đuổi của ‘nhiều hơn’, sự ham muốn có một ngôi nhà đẹp đẽ hơn, một chiếc xe sang trọng hơn, và vân vân, tất cả việc đó vẫn còn ở trong phạm vi của sự ganh tỵ; và do bởi sự ganh tỵ mới duy trì sự bất mãn như thế. Nhưng tôi đang nói về một bất mãn trong đó không có ganh tỵ, không tham lam có ‘nhiều hơn’, một bất mãn không bị nuôi dưỡng bởi bất kỳ ham muốn cho thỏa mãn nào. Bất mãn này là một trạng thái vô nhiễm tồn tại trong mỗi người chúng ta, nếu nó không bị dìm chết qua sự giáo dục sai lầm, qua những giải pháp gây thỏa mãn, qua sự tham vọng, hay qua sự theo đuổi một lý tưởng. Khi chúng ta hiểu rõ bản chất của sự bất mãn đúng đắn, chúng ta sẽ thấy rằng chú ý là bộ phận của ngọn lửa bừng bừng này mà thiêu rụi những nhỏ nhen và cho phép cái trí được tự do khỏi những giới hạn của những thoả mãn và những theo đuổi tự-khép kín.
Thế là chú ý hiện diện chỉ khi nào có sự thâm nhập không bị đặt nền tảng trên sự tiến bộ tự tạo hay sự thỏa mãn. Sự chú ý này phải được vun quén trong đứa trẻ, ngay từ khởi đầu. Bạn sẽ khám phá rằng khi có tình yêu – mà tự diễn tả qua sự khiêm tốn, sự lễ phép, sự kiên nhẫn, sự hòa nhã – bạn đã sẵn sàng được tự do khỏi những rào cản mà không-nhạy cảm thiết lập; và thế là bạn đang giúp đỡ để sáng tạo trong đứa trẻ trạng thái của chú ý này từ một tuổi rất mỏng manh.
Chú ý không là điều gì đó để được học hành, nhưng bạn có thể giúp đỡ để thức dậy nó trong em học sinh bằng cách không tạo ra chung quanh em ý thức của sự ép buộc đó mà sinh ra một tồn tại tự-mâu thuẫn. Vậy thì chú ý của em có thể được tập trung tại bất kỳ khoảnh khắc nào vào bất kỳ môn học yêu cầu nào, và nó sẽ không là sự tập trung chật hẹp được tạo ra qua sự thôi thúc ép buộc của kiếm được hay thành tựu.
Một thế hệ được giáo dục trong phương cách này sẽ được tự do khỏi những tham lam và sợ hãi, và di sản thuộc tâm lý của phụ huynh các em và của xã hội trong đó các em được sinh ra; và bởi vì các em được giáo dục như thế, chúng sẽ không phụ thuộc vào di sản của đặc điểm thuộc gia đình và xã hội. Vấn đề của thừa kế di sản này hủy hoại sự độc lập thực sự và giới hạn sự thông minh; bởi vì nó nuôi dưỡng một ý thức giả dối của an toàn, tạo ra một tự bảo đảm không có nền tảng và gây ra một tối tăm của cái trí mà trong nó không điều gì mới mẻ có thể nở hoa. Nhưng một thế hệ được giáo dục trong phương cách hoàn toàn khác hẳn mà chúng ta đã và đang quan tâm này sẽ sáng tạo một xã hội mới mẻ mà không bị vây bủa bởi sự sợ hãi.
Bởi vì giáo dục là trách nhiệm của những phụ huynh cũng như của những giáo viên, chúng ta phải học hành nghệ thuật của làm việc cùng nhau, và điều này có thể xảy ra được chỉ khi nào mỗi người chúng ta nhận biết được điều gì là đúng thực. Chính là sự nhận biết được sự thật mới mang chúng ta lại cùng nhau, và không phải quan điểm, niềm tin hay lý thuyết. Có một khác biệt vô cùng giữa khái niệm và sự thật. Khái niệm có lẽ mang chúng ta lại cùng nhau một cách nhất thời, nhưng lại sẽ có sự tách rời, nếu cùng nhau làm việc của chúng ta chỉ là một vấn đề của sự tin tưởng. Nếu sự thật được thấy bởi mỗi người chúng ta, có lẽ sẽ có không-đồng ý trong chi tiết nhưng sẽ không có sự thôi thúc để tách rời. Chỉ có những người dốt nát mới cắt đứt bởi vì chi tiết nào đó. Khi sự thật được thấy bởi tất cả, chi tiết không bao giờ có thể trở thành một vấn đề tạo ra sự chia rẽ.
Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với cùng nhau làm việc dựa theo những giới hạn của uy quyền đã được thiết lập sẵn nào đó. Chúng ta đến cùng nhau để thực hiện một ý tưởng, hay để thúc đẩy một lý tưởng, và điều này đòi hỏi sự tin tưởng, sự thuyết phục, sự tuyên truyền, và vân vân. Cùng nhau làm việc cho một ý tưởng, cho một lý tưởng như thế, hoàn toàn khác biệt với sự đồng-hợp tác mà hiện diện bởi thấy sự thật và sự cần thiết của đưa sự thật đó vào hành động. Làm việc dưới sự kích thích của uy quyền – dù nó là uy quyền của một lý tưởng, hay uy quyền của một người đại diện cho lý tưởng đó – không là sự đồng-hợp tác thực sự. Một người uy quyền trung tâm mà biết nhiều, hay có một cá tính mạnh mẽ và bị ám ảnh bởi những ý tưởng nào đó, có lẽ ép buộc hay một cách tinh tế thuyết phục những người khác để làm việc cùng anh ấy cho điều gì anh ấy gọi là lý tưởng; nhưng chắc chắn đây không là cùng nhau làm việc của những cá thể sinh động và tỉnh thức. Ngược lại, khi mỗi người chúng ta đều tự-hiểu rõ cho chính anh ấy sự thật của bất kỳ vấn đề nào, vậy thì sự hiểu rõ chung của chúng ta về sự thật đó dẫn đến hành động, và hành động như thế là sự đồng-hợp tác. Anh ấy, người mà đồng-hợp tác bởi vì anh ấy thấy sự thật như sự thật, sự giả dối như sự giả dối, và sự thật trong sự giả dối, sẽ cũng biết khi nào không đồng-hợp tác – mà cũng quan trọng bằng nhau.
Nếu mỗi người chúng ta đều nhận ra sự cần thiết của một cách mạng cơ bản trong sự giáo dục và nhận biết sự thật của điều gì chúng ta đã và đang suy nghĩ, vậy thì chúng ta sẽ cùng nhau làm việc mà không có bất kỳ hình thức nào của sự thuyết phục. Sự thuyết phục tồn tại chỉ khi nào người nào đó có một quan điểm cố chấp mà anh ấy không sẵn lòng từ bỏ nó. Khi anh ấy chỉ bị thuyết phục về một ý tưởng hay bị bám rễ trong một quan điểm, anh ấy tạo ra sự đối nghịch, và thế là anh ấy hay người khác phải bị thuyết phục, bị tác động hay bị thúc giục để suy nghĩ khác hẳn. Một tình huống như thế sẽ không bao giờ nảy sinh khi mỗi người chúng ta đều tự thấy sự thật của vấn đề cho chính chúng ta. Nhưng nếu chúng ta không thấy sự thật và hành động trên nền tảng của sự tin tưởng thuần túy bằng từ ngữ hay lý luận thuộc trí năng, vậy thì chắc chắn sẽ có sự tranh luận, đồng ý hay không đồng ý, cùng tất cả sự biến dạng liên đới và sự nỗ lực vô ích.
Chúng ta làm việc cùng nhau là điều cốt lõi, và làm việc đó giống như chúng ta đang xây dựng một cái nhà. Nếu vài người chúng ta đang xây dựng và những người khác đang phá hoại, chắc chắn cái nhà sẽ không bao giờ được xây dựng hoàn tất. Vì vậy từng cá thể, chúng ta phải rất rõ ràng rằng chúng ta phải thực sự thấy và hiểu rõ sự cần thiết của sáng tạo loại giáo dục mà sẽ sản sinh một thế hệ mới có khả năng giải quyết những vấn đề của sống như một tổng thể, và không phải như những bộ phận tách rời không liên quan gì đến tổng thể.
Muốn có thể cùng nhau làm việc trong cách đồng-hợp tác thực sự này, chúng ta phải gặp gỡ thường xuyên và phải tỉnh táo để không bị ngụp lặn trong chi tiết. Những người chúng ta mà đầy nghiêm túc hiến dâng cho sự sáng tạo loại giáo dục đúng đắn, phải có trách nhiệm không những thực hiện trong hành động tất cả mọi điều mà chúng ta đã hiểu rõ, nhưng còn phải giúp đỡ những người khác nhận được sự hiểu rõ này. Dạy học là nghề nghiệp cao quý nhất – nếu nó có thể được gọi là một nghề nghiệp. Nó là một nghệ thuật mà đòi hỏi, không chỉ kiến thức thuộc trí năng, nhưng còn cả sự kiên nhẫn và tình yêu vô hạn. Được giáo dục đúng đắn là hiểu rõ sự liên hệ của chúng ta với tất cả những sự vật-sự việc – với tiền bạc, với tài sản, với con người, với thiên nhiên – trong cánh đồng bao la của sự tồn tại của chúng ta.
Vẻ đẹp là bộ phận của sự hiểu rõ này, nhưng vẻ đẹp không chỉ là vấn đề của sự cân đối, hình dáng, sự thưởng thức và hành vi. Vẻ đẹp là trạng thái đó mà trong nó cái trí trong đam mê của sự mộc mạc đã xóa sạch trung tâm của cái tôi. Mộc mạc không có kết thúc; và có thể có mộc mạc chỉ khi nào có một đơn giản mà không là kết quả của kỷ luật và tự-phủ nhận có tính toán. Mộc mạc này là sự từ bỏ cái tôi, mà tình yêu, một mình nó có thể sáng tạo. Khi chúng ta không có tình yêu, chúng ta tạo ra một văn minh mà trong nó vẻ đẹp của hình dạng được tìm kiếm nhưng không có sức sống bên trong lẫn sự mộc mạc của tự-từ bỏ thuần túy. Không có tự-từ bỏ nếu có một hy sinh của chính người ta trong những công việc tốt lành, trong những lý tưởng, trong những niềm tin. Những hoạt động này có vẻ được tự do khỏi cái tôi, nhưng trong thực tế cái tôi vẫn còn vận hành dưới sự che đậy của những nhãn hiệu khác nhau. Chỉ cái trí hồn nhiên mới có thể thâm nhập vào cái không biết được. Nhưng sự hồn nhiên có tính toán mà có lẽ khoác vào một mảnh vải hay cái áo của một thầy tu không là sự đam mê của tự-từ bỏ cái tôi mà hiện diện từ sự lễ phép, sự hòa nhã, sự khiêm tốn, sự kiên nhẫn – những diễn tả của tình yêu.
Hầu hết chúng ta đều biết vẻ đẹp chỉ qua cái đã được sáng chế hay xếp đặt vào chung – vẻ đẹp của một hình dáng con người, hay của một ngôi đền. Chúng ta nói một cái cây, hay một ngôi nhà, hay con sông uốn khúc là đẹp đẽ. Và qua sự so sánh chúng ta biết sự xấu xí là gì – ít nhất chúng ta nghĩ rằng chúng ta biết. Nhưng liệu vẻ đẹp có thể so sánh được? Liệu vẻ đẹp là cái mà đã được làm cho rõ ràng, hiển nhiên? Chúng ta nghĩ rằng vẻ đẹp là một bức tranh, bài thơ, hay khuôn mặt đặc biệt, bởi vì chúng ta biết sẵn vẻ đẹp là gì từ điều gì chúng ta đã được giáo dục, hay từ điều gì chúng ta đã quen thuộc và dựa vào chúng chúng ta đã hình thành một quan điểm. Nhưng vẻ đẹp không biến mất cùng sự so sánh, hay sao? Liệu vẻ đẹp chỉ là một quen thuộc với cái đã được biết, hay liệu nó là một trạng thái của hiện diện mà trong đó có lẽ có hay có lẽ không có một hình thức đã được sáng chế?
Chúng ta luôn luôn đang đuổi theo vẻ đẹp và đang lẩn tránh xấu xí, và sự tìm kiếm của phong phú này qua một cái và lẩn tránh cái còn lại chắc chắn phải nuôi dưỡng không nhạy cảm. Rõ ràng, muốn hiểu rõ hay cảm thấy vẻ đẹp là gì, phải có sự nhạy cảm đối với cả cái tạm gọi là đẹp đẽ lẫn cái tạm gọi là xấu xí. Một cảm thấy không là đẹp đẽ hay xấu xí, nó chỉ là một cảm thấy. Nhưng chúng ta quan sát nó qua tình trạng bị quy định của thuộc xã hội và thuộc tôn giáo của chúng ta và trao cho nó một nhãn hiệu; chúng ta nói nó là một cảm thấy tốt lành hay một cảm thấy xấu xa, và thế là chúng ta biến dạng hay hủy hoại nó. Khi cảm thấy không được trao cho một nhãn hiệu nó vẫn còn y nguyên sự mãnh liệt, và chính là sự mãnh liệt đầy đam mê này mới là điều cốt lõi cho sự hiểu rõ về cái mà cũng không là sự xấu xí hoặc đẹp đẽ được nhìn thấy bên ngoài. Điều gì quan trọng vô cùng là sự cảm thấy được duy trì, sự đam mê đó mà không chỉ là sự thèm khát đơn thuần của tự-thỏa mãn; bởi vì chính là sự đam mê này mới sáng tạo vẻ đẹp và, bởi vì không thể so sánh được, nó không có đối nghịch.
Trong tìm kiếm để sáng tạo một phát triển tổng thể của con người, chắc chắn chúng ta phải thâm nhập thấu đáo cả cái trí tầng ý thức bên ngoài cũng như cái trí tầng ý thức bên trong. Chỉ giáo dục cái trí tầng bên ngoài mà không hiểu rõ tầng bên trong, tạo ra tự-mâu thuẫn trong những sống của con người, cùng tất cả những tuyệt vọng và những đau khổ của nó. Cái trí che giấu còn có sức sống mãnh liệt nhiều hơn cái trí bề mặt. Hầu hết những người giáo dục chỉ quan tâm đến nhồi nhét thông tin và hiểu biết cho cái trí bề mặt, đang chuẩn bị cho nó một việc làm và điều chỉnh nó cho phù hợp vào xã hội. Thế là cái trí che giấu không bao giờ được chạm đến. Tất cả mọi việc mà tạm gọi là sự giáo dục đó thực hiện, là áp đặt một tầng của hiểu biết và kỹ thuật, và một khả năng nào đó để thích ứng với môi trường.
Cái trí che giấu còn có uy quyền nhiều hơn cái trí bề mặt, dù được giáo dục kỹ càng và có khả năng thích ứng đến chừng nào; và cái trí che giấu không là cái gì đó huyền bí lắm. Cái trí che giấu hay tầng bên trong là kho lưu trữ của những ký ức thuộc chủng tộc. Tôn giáo, mê tín, biểu tượng, những truyền thống đặc trưng của một chủng tộc đặc biệt, sự ảnh hưởng của văn chương cả thiêng liêng lẫn trần tục, sự ảnh hưởng của những hoài bảo, những tuyệt vọng, những kiểu cách, và vô số loại thức ăn thức uống khác nhau – tất cả những điều này bị bám rễ trong cái trí tầng ý thức bên trong. Những ham muốn kín đáo hay lộ liễu cùng những động cơ, những hy vọng và những sợ hãi của chúng, những đau khổ và những vui thú của chúng, và những niềm tin mà được duy trì qua sự thôi thúc cho an toàn đang tự diễn giải nó trong những phương cách khác nhau – những việc này cũng được chứa đựng trong cái trí che giấu, mà không những có khả năng lạ thường này để bám chặt quá khứ cặn bã, nhưng cũng còn cả khả năng để tác động vào tương lai. Những gợi ý của tất cả điều này được chuyển sang cái trí bề mặt qua những giấc mơ và trong vô vàn cách khác nhau khi nó hoàn toàn không bị bận tâm bởi những sự kiện hàng ngày.
Cái trí che giấu không là cái gì đó thiêng liêng và cũng không là cái gì đó phải kinh hãi, nó cũng không cần đến một người chuyên môn để phơi bày nó ra cái trí bề mặt. Nhưng bởi vì uy quyền to tát của cái trí che giấu, cái trí bề mặt không thể đối phó với cái trí che giấu như nó thường ao ước. Cái trí bề mặt hoàn toàn bất lực khi giải quyết bộ phận che giấu riêng của nó. Dù có lẽ nó cố gắng để điều phối, định hình, kiểm soát cái trí che giấu nhiều bao nhiêu, bởi vì những đòi hỏi và những theo đuổi tức khắc thuộc xã hội của nó, cái trí bề mặt chỉ có thể cào sướt mặt ngoài của cái trí che giấu; và thế là có một phân chia hay mâu thuẫn giữa hai bộ phận. Chúng ta cố gắng nối liền sự ngăn cách lớn lao này qua kỷ luật, qua vô vàn những luyện tập, những quy định và vân vân; nhưng nó không thể được nối liền.
Cái trí bề mặt bị bận tâm bởi cái tức khắc, cái hiện tại bị giới hạn, ngược lại cái trí che giấu phải chịu áp lực của trọng tải những thế kỷ, và không thể bị ngăn cản hay bị chuyển hướng bởi một cần thiết tức khắc. Cái trí che giấu có chất lượng của thời gian sâu thẳm, và cái trí bề mặt, cùng văn hóa mới đây của nó, không thể đối phó với cái trí che giấu tùy theo những khẩn cấp thoáng chốc của nó. Muốn loại bỏ tự-mâu thuẫn, cái trí bề mặt phải hiểu rõ sự kiện này và thụ động – mà không có nghĩa tạo cơ hội cho vô số những thôi thúc của cái trí che giấu. Khi không có sự chống đối giữa cái trí hiển lộ và cái trí che giấu, vậy thì cái trí che giấu, bởi vì nó có sự kiên nhẫn của thời gian, sẽ không xâm phạm cái tức khắc.
Cái trí che giấu, không được hiểu rõ và không được thâm nhập, cùng bộ phận bề mặt của nó mà đã được ‘giáo dục’, tiếp xúc cùng những đòi hỏi và những thách thức của hiện tại tức khắc. Cái trí bề mặt có lẽ phản ứng đến sự thách thức một cách thỏa đáng; nhưng bởi vì có một mâu thuẫn giữa cái trí bề mặt và cái trí che giấu, bất kỳ trải nghiệm nào của cái trí bề mặt chỉ gia tăng sự xung đột giữa chính nó và cái trí che giấu. Điều này vẫn tạo ra trải nghiệm thêm nữa, lại nữa nới rộng sự ngăn cách giữa hiện tại và quá khứ. Cái trí bề mặt, đang trải nghiệm phía bên ngoài mà không hiểu rõ cái bên trong, cái trí che giấu, chỉ tạo ra sự xung đột rộng lớn hơn và sâu thẳm hơn.
Trải nghiệm không làm tự do hay làm phong phú cái trí, như chúng ta thường thường nghĩ nó có. Chừng nào trải nghiệm còn củng cố người trải nghiệm, phải có sự xung đột. Trong có những trải nghiệm, một cái trí bị quy định chỉ củng cố tình trạng bị quy định của nó, và thế là tiếp tục sự mâu thuẫn và sự đau khổ. Chỉ cái trí mà có khả năng hiểu rõ toàn bộ những phương cách của chính nó, trải nghiệm mới có thể là một nhân tố gây giải thoát.
Khi có sự nhận biết và sự hiểu rõ những quyền hành và những khả năng của nhiều tầng thuộc cái trí che giấu, vậy thì những chi tiết có thể được thâm nhập một cách thông minh và khôn khéo. Điều gì quan trọng là sự hiểu rõ về cái trí che giấu, và không phải là sự giáo dục đơn thuần của cái trí bề mặt để thâu lượm hiểu biết, dù cần thiết đến chừng nào. Sự hiểu rõ này về cái trí che giấu làm tự do toàn bộ cái trí khỏi xung đột, và chỉ lúc đó mới có thông minh.
Chúng ta phải thức dậy toàn khả năng của cái trí bề mặt mà sống trong hoạt động hàng ngày, và cũng phải hiểu rõ cái trí che giấu. Trong hiểu rõ về cái trí che giấu có một đang sống trọn vẹn mà trong nó tự-mâu thuẫn, cùng sự luân phiên của đau khổ và hạnh phúc của nó, kết thúc. Quen thuộc với cái trí che giấu và nhận biết được những làm việc của nó là điều cốt lõi; nhưng nó cũng quan trọng không kém khi phải không bị bận tâm bởi nó hay trao cho nó sự quan trọng không chính đáng. Chỉ khi nào cái trí hiểu rõ tầng bề mặt lẫn tầng che giấu thì nó mới có thể vượt khỏi những giới hạn của nó và khám phá hạnh phúc đó mà không thuộc thời gian.
J. Krishnamurti