Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

2. Tổ Tích Của Oánh Sơn Thiền Sư

12/04/201107:13(Xem: 8162)
2. Tổ Tích Của Oánh Sơn Thiền Sư

THIỀN TÀO ĐỘNG NHẬT BẢN
Nguyên tác: Azuma Ryushin (Đông Long Chơn) - Việt dịch: Thích Như Điển
Chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc và quý Phật Tử tại Mỹ Châu – Úc Châu ấn tống 2008

Chương năm:
Di Tích Của Lưỡng Tổ Đại Sư

VI. Di Tích Của Lưỡng Tổ Đại Sư

VI.2 Tổ Tích Của Oánh Sơn Thiền Sư

VI.2.1 Nơi Sinh Ra
Oánh Sơn Thiền Sư Ngự Đản Sanh Địa Hiển Chướng Bi – Keizan Zenshi Otanjoochi Kenshohi, tại huyện Fukui, phố Vũ Sanh, Phàm Sơn Dinh.
Năm Chiêu Hòa thứ 44 Bác Sĩ Okubo Michitan cùng Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự đề nghị dựng bia nơi sinh ra của Thiền Sư Oánh Sơn, thành lập Hội Oánh Sơn Thiền Sư Hiển Ảnh và các Tông Môn liên hệ tự viện, theo sự hổ trợ của chính quyền đương thời tại thành phố Vũ Sanh. Năm Chiêu Hòa thứ 49 nhân lễ Đại Viễn Kỵ 650 năm Thiền Sư Oánh Sơn, bia “Oánh Sơn Thiền Sư Phụ Mẫu Hiếu Dưỡng” được dựng lên.

VI.2.1.1 Ngự Đản Sanh Tự - Otanjooji
Chùa Ngự Đản Sanh Tự tọa lạc tại huyện Fukui, Thị xã Vũ Sanh, Phàm Sơn Dinh. Thời Đại Chánh – Taisho, 1911 – 1926, Chùa Chùa Chánh Pháp, huyện Iwate, trực thuộc Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự chuyển về Tân Thành Viện, đổi tên là “Tân Thành Viện Tứ Vân Sơn Ngự Đản Sanh Tự”, cho đến bây giờ. Chùa nầy từ xưa là Phàm Sơn Dinh tiếp tục truyền thừa đây là nơi sinh của Thiền Sư Oánh Sơn.

VI.2.1.2 Nơi Sanh Của Oánh Sơn Quốc Sư – Keizan Kokushi Gotanchi
Nơi đây thuộc huyện Fukui, quận Phản Tỉnh, phố Hoàn Cương, Sơn Kỳ số 3.
Năm Minh Trị - Meiji thứ 31 Thiền Sư Cam Giá Bố Huân – Amatsura, quả quyết rằng đây là nơi Thiền Sư Oánh Sơn sanh ra bên cạnh Thần Xã Đa Nhĩ, cho nên dựng bia “Oánh Sơn Quốc Sư Giáng Sanh Địa”. Về sau, các vị Thiền Sư như Thiền Sư Bạn Thượng Môi Tiên, đời thứ hai của Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự, Thiền Sư Lật Sơn Thái Âm đời thứ 8 và Thiền Sư Y Đằng Đạo Hải đời thứ 9 rất quan tâm đến chỗ Đản Sanh của Thiền Sư Oánh Sơn. Đặc biệt, năm Chiêu Hòa – Showa thứ 16 Bác Sĩ Quang Đại Anh Học giám định và xác chứng đúng nơi ấy, không sai.

VI.2.2 Tu Hành Tại Các Chùa

VI.2.2.1 Vĩnh Bình Tự - Eiheiji
Chùa tọa lạc tại huyện Fukui, quận Yoshida, Eikejicho, Chí Tử. Thiền Sư Oánh Sơn được ưu Bà Di Minh Trí, bà của mình dẫn đến chùa Vĩnh Bình vào ngày mồng 8 tháng 4 lúc vừa lên 8, được Thiền Sư Nghĩa Giới thế phát cho đến ngày 18 tháng 2 năm 13 tuổi, nhân lễ tang Thiền Sư Hoài Tráng, mới được chính thức xuất gia hình thức là đệ tử cuối cùng của Thiền Sư Hoài Tráng. Cho đến tháng giêng năm Ngài 18 tuổi, Ngài đã trải qua một thời làm điệu ở Chùa Vĩnh Bình đến 10 năm dài.

VI.2.2.2 Bảo Khánh Tự - Hoohyooji
Chùa tọa lạc tại huyện Fukui, phố Ono, Bảo Khánh Tự Trúc Tùng, do Thiền Sư Tịch Viên, người Trung Hoa, đệ tử của Thiền Sư Đạo Nguyên xây dựng. Sau khi Thiền Sư Đạo Nguyên viên tịch vào năm Hoằng Trường nguyên niên Thiền Sư Tịch Viên rời chùa Vĩnh Bình đến đây mở chùa. Đến đây, Thiền Sư Tịch Viên ngồi yên lặng một mình (cô độc uyên mặc) trong vòng 18 năm và sống ở đây 39 năm, không vào làng ngày nào. Thiền Sư Oánh Sơn theo sự chỉ dạy của Bổn Sư Thiền Sư Nghĩa Giới đến đây tu hành năm 18 tuổi. Mùa Đông năm 19 tuổi nhận chân thể nghiệm quý báu của tâm linh, Ngài nhận trách nhiệm Duy Na của chùa.

VI.2.2.3 Đại Thừa Tự - Daijooji
Chùa tọa lạc tại huyện Ishigawa, phố Kanezawa, Nagaitacho. Chùa nầy có do kết quả phân tranh nội bộ của chùa Vĩnh Bình, Thiền Sư Nghĩa Giới hạ sơn lập chùa nầy cho Thiền Sư Oánh Sơn, năm Thiền Sư Oánh Sơn 20 tuổi. Ngài đã ở đây đến 20 năm, vừa làm phụ tá cho Thiền Sư Nghĩa Giới vừa hoằng dương Chánh Pháp và sau đó, kế nghiệp trụ trì thứ 2 sau Thiền Sư Nghĩa Giới.
Nguyên Chùa Đại Thừa Tự ở ngoại ô của phố Kanezawa, thuộc phố Nonoichi chuyển đến địa chỉ hiện tại, vào thời Giang Hộ, là ngôi chùa dẫn đầu trong bốn chùa thuộc Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự. Nền chùa Đại Thừa cũ, còn có tháp và trục Cao An được trùng tu rồi.

Thiền Sư Oánh Sơn ở chùa Đại Thừa với Thiền Sư Nghĩa Giới như tình Thầy trò, nhưng cũng đến chùa Đông Phước Tự thuộc Lâm Tế Tông ở Kyoto, phái Bổn Sơn thuộc Kyotofu, Kyotoshi, Higashiyamaku Honcho cầu học Thiền với các Thiền Sư như Thiền Sư Đông Sơn Thậm Chiếu và Bạch Vân Huệ Hiểu rồi đảnh lễ Thiền Sư Tâm Địa Giác Tâm thuộc Tông Lâm Tế ở Kỷ Châu, phái Pháp Đăng, độc lập với Bổn Sơn, mà bây giờ những chùa nầy quy thuộc phái chùa Diệu Tâm, cũng như chùa Hưng Quốc tại huyện Wakayama, quận Nhật Cao, phố Do Lương.

Ngài hành trì công phu ở những nơi ấy, sau đó đến chùa Đại Từ, truyền thừa của Tông Tào Động, nay thuộc huyện Kumamoto, phố Kumamoto, Notacho cầu học hỏi với Thiền Sư Hàn Nham Nghĩa Y – Gangan Giin khai sơn. Tuy đi tham học nhiều nơi với nhiều bậc thiện trí thức nhưng kết quả thế nào và sự thật tới đâu chưa thể xác định được.

VI.2.2.4 Chùa Đầu Tiên Có Đạo Tràng
Thành Mãn Tự - Joomanji, tại huyện Tokushima, quận Kaifu, Kaifucho, Yoshida.
Trong ba năm từ năm 28 tuổi cho đến năm 31 tuổi Thiền Sư Oánh Sơn được quận ti ở Hải Bộ triệu mời giữ chức Trụ Trì chùa Thành Vạn (Mãn) giáo hóa rất nhiều người ở địa phương. Chùa Thành Mãn chẳng bao lâu bị hoang phế đến thời Đại Chánh, có vị Thầy Hộ Điền Ngộ Hùng đến ở và năm Chiêu Hòa thứ 20 có Thiền Sư Watanabe Huyền Tông cùng Thầy Watanabe Lại Ứng trùng tu lại thành ngôi chùa đến bây giờ.

VI.2.2.5 Chùa Của Thầy Mình
Đại Thừa Tự tọa lạc tại huyện Ishigawa, phố Kanezawa, Nagaitacho.
Năm 32 tuổi, Thiền Sư Oánh Sơn nhận được Thiền Sư Nghĩa Giới hứa khả và ấn chứng thoại đầu “Bình Thường Tâm Thị Đạo”. Năm 35 tuổi trở thành trụ trì chùa Đại Thừa đời thứ hai. Khoảng năm 49 tuổi Ngài trở thành trụ chức quản lý chùa Vĩnh Quang. Năm Thiền Sư Oánh Sơn 41 tuổi, Thiền Sư Nghĩa Giới viên tịch tại chùa Đại Thừa nầy, thọ 91 tuổi.

VI.2.3 Khai Sơn Các Chùa

VI.2.3.1 Vĩnh Quang Tự - Yokoji
Chùa tọa lạc tại huyện Ishikawa, phố Vũ Trách, Tửu Tỉnh Dinh. Mùa Xuân, năm 45 tuổi Thiền Sư Oánh Sơn được hai vợ chồng Bình Thị hiến cúng đất cho chùa Vĩnh Quang của Hải Dã Tam Lang Tư Dã Tín Trực. Năm sau, Ngài cho xây dựng phòng ốc. Năm 50 tuổi, Ngài trở về chùa Đại Thừa, chuyển chùa Vĩnh Quang về Chánh Vũ. Ngài viên tịch lúc 58 tuổi (cũng có thuyết nói 62 tuổi). Ngài đã chọn Chùa Vĩnh Quang làm nơi chăm sóc giáo dục đệ tử và Đàn Tín Đồ, chỉnh đốn lại quy củ Già Lam, viết pháp ngữ, sau đó làm chỗ nương tựa cho sự phát triển giáo đoàn Tông Tào Động ở Nhật. Ngày nay, chùa Vĩnh Quang còn lưu lại nhiều di phẩm của Thiền Sư Oánh Sơn. Đây là nơi mà Thiền Sư Oánh Sơn nỗ lực cho sự nghiệp phát triển giáo đoàn cho đến cuối đời mình, là một tự viện đáng quý trọng và giữ gìn.

VI.2.3.2 Tổng Trì Tự - Soojiji
Tổng Trì Tự có hai nơi, một Tổng Trì Tự tọa lạc tại huyện Kanagava, phố Yokohama, khu Hạc Kiến, Hạc Kiến 2-1-1 (Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự) và chùa khác tại huyện Ishigawa quận Phụng Chí, Môn Tiền Dinh (Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự Tổ Viện).
Năm 57 tuổi, Thiền Sư Oánh Sơn nhận Chư Khưu Quán Âm Đường của Quyền Luật Sư Đinh Hiền sửa thành chùa Thiền Tổng Trì Tự giao cho đệ tử trụ trì Thiền Sư Nga Sơn Thiệu Thạc – Gazanjooseki, đời thứ hai. Thiền Sư Nga Sơn noi gương ý chí của Thiền Sư Oánh Sơn và Tổng Trì Tự trở thành trung tâm tổ chức cho Tăng Đoàn và 80 phần trăm các chùa thuộc Tông Tào Động thuộc về pháp mạch nhất môn của chùa Tổng Trì, được xếp ngang hàng với Đại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự mà ngày nay được tôn vinh. Năm Minh Trị thứ 31 bị hỏa tai thiêu cháy. Năm Minh Trị thứ 40 chuyển sang thành phố Yokohama tại Hạc Kiến như bây giờ và chỗ cũ được gọi là Tổ Viện.

VI.2.3.3 Tịnh Trụ Tự - Joojuuji
Chùa tọa lạc tại huyện Ishigawa, phố Kanezawa, Thổ Bình Đinh. Năm 51 tuổi, Thiền Sư Oánh Sơn xây dựng chùa nầy, tại đây cũng vào năm nầy thân mẫu Ngài, Hoài Quan Đại Tỷ qua đời thọ 87 tuổi. Chính thân mẫu Ngài sáng lập chùa Tịnh Trụ ở quận Hà Bắc, Thổn Kỵ Sơn.
Ngoài ra còn các Chùa, Viện khác như:
• Phóng Sanh Tự - Hoojooji, chùa nằm ở huyện Ishigawa, phố Kanezawa, Nhật Kiến Đinh.
• Phong Tài Viện – Buzaiin, chùa nằm tại huyện Ishigawa, phố Vũ Trách, Bạch Lại Đinh.
• Vĩnh Xương Tự nằm ở huyện Ishigawa, phố Kanezawa.
• Đông Quan Viện nằm ở huyện Ishigawa, phố Kanezawa, Hạ An Nguyên Đông.
• Truyền Đăng Viện ở huyện Ishigawa, phố Kanezawa, Đốc Đinh.
• Bảo Ứng Tự nằm ở huyện Ishigawa, Gia Hạ.
• Quang Hiếu Tự - Kookooji, nằm ở huyện Ishigawa, Gia Hạ.

VI.2.4 Địa Điểm Nhập Diệt

Vĩnh Quang Tự nằm ở huyện Ishigawa, phố Vũ Trách, Tửu Tỉnh Đinh.
Năm 58 tuổi Thiền Sư Oánh Sơn (cũng có thuyết nói 62 tuổi) viên tịch vào giữa đêm ngày 15 tháng 8 tại chùa Vĩnh Quang. Bệnh không nặng, không có gì đặc biệt. Tháp Ngài là Truyền Đăng Viện.

VI.2.5 Những Địa Phương Thờ Linh Cốt Của Thiền Sư Oánh Sơn

Vĩnh Quang Tự (Khai Sơn Tháp, Ngũ Lão Phong, an trí tại tháp Xá Lợi) thuộc huyện Ishigawa, phố Vũ Trách, Tửu Tỉnh Đinh.
Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự, phụng an Xá Lợi tại Truyền Đăng Viện, thuộc huyện Kanagawa, phố Yokokama, Hạc Kiến Khu, Hạc Kiến 2-1-1.
Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự Tổ Viện, phụng an tại Truyền Đăng Viện thuộc huyện Ishigawa, quận Phượng Chí, Môn Tiền Đinh.
Chánh Pháp Tự, cùng an trí linh cốt chung với Thiền Sư Đạo Nguyên tại Bảo Vật Điện, thuộc huyện Iwate, phố Thủy Trạch, Hắc Thạch Đinh.
Thành Mãn Tự, an trí nơi tháp khai sơn, thuộc huyện Tokushima, quận Hải Bộ, Hải Bộ Đinh, Kiết Điền.
Linh Thứu Viện, phụng an chung với linh cốt của Thiền Sư Đạo Nguyên và linh cốt của Thiền Sư Vô Đệ Lương Thiệu, thuộc huyện Aichi, quận Aichi, Nhật Tiến Đinh.

III.2 Thất Đường Già Lam

III.2.1 Sự Thay Đổi Kiến Trúc Của Tự Viện

Già Lam, nguyên ngữ bằng tiếng Sanscrit cổ, Ấn Độ là Shangarama, còn gọi là Tinh Xá, Chùa, Tự Viện. Kiến trúc Tự Viện Nhật Bản ảnh hưởng trực tiếp từ bán đảo Triều Tiên, gián tiếp từ Trung Hoa. Từ thời Bình An (Heian), mỹ thuật kiến trúc Nhật Bản mô phỏng theo hai dạng mỹ thuật kiến trúc Triều Tiên có từ thời Phi Điểu, và mỹ thuật Trung Hoa từ thời nhà Đường. Đến thời Kamakura, lối kiến trúc đó bị loại bỏ đi thay bằng lối kiến trúc thời Tống (Trung Hoa) hòa với lối kiến trúc thời Thất Đinh. Đến thời Đào Sơn mỹ thuật kiến trúc trở nên đẹp vô cùng, tạo nên phong cách mỹ thuật đặc biệt của thời đại nầy. Còn thời đại Giang Hộ (Edo), lại theo phong cách đơn giản, hiện đại và độc lập, theo lối phong cách Âu Châu.

Kiến trúc Chùa, đặc biệt vào thời Kamakura thể hiện trọn vẹn phong cách Thiền ảnh hưởng mô thức Trung Hoa thời Đường, còn gọi là phong cách Thiền Tông, có nhiều điểm giống Lâm Tế Tông, Hoàng Bích Tông, Tào Động Tông, hẳn nhiên cũng không thiếu nhiều điểm khác biệt đặc thù.

III.2.2 Già Lam Của Tào Động Tông Là Nơi Chính Để Tu Hành

Thiền Sư Đạo Nguyên phối hợp những phiên bản Tự Viện Trung Quốc và Ấn Độ, suy nghĩ kiến tạo đạo tràng trang nghiêm của Tông Tào Động. Chùa Vĩnh Bình kiến tạo mô phỏng theo Chùa Thiên Đồng Sơn Cảnh Đức ở tỉnh Chiết Giang, Trung Hoa (bây giờ gọi là Thiên Đồng Tự). Tông Tào Động vẫn sử dụng từ “Thất Đường Già Lam“ có lẽ từ thời Giang Hộ (Edo), không có căn cứ nào chỉ cho nguyên thỉ của chữ nầy. Song cũng có thuyết cho rằng Tông Tào Động gọi là Thất Đường Già Lam cho những ngôi Chùa đầy đủ 7 gian như: Sơn Môn, Phật Điện, Pháp Đường, Khố Viện, Tăng Đường, Dục Thất và Đông Ty. Ngoài ra, Chùa còn có tháp 3 tầng, tháp 5 tầng hay Đa Bảo Tháp, Xá Lợi Tháp v.v... những tháp nầy không gồm chung trong Thất Đường Già Lam. Chùa Thiền hay đặc biệt là Chùa của Tào Động Tông không có Tháp, nếu có, tháp được xây sau hoặc là xây với lý do nào đó, còn Chùa thuộc Tông Pháp Tướng và Tông Chơn Ngôn có xây tháp.

Hình thức Thất Đường Già Lam của Tông Tào Động theo thứ tự từ bên ngoài đi vào là: Sơn Môn, Phật Điện, Pháp Đường, bên mặt là Khố Viện, trước có Dục Thất (phòng tắm rửa), bên trái là Tăng Đường, trước có Đông Ty (nhà vệ sinh). Tất cả đều có hành lang bao bọc xung quanh trở thành một hình vuông vức. Ngoài Thất Đường còn có những tòa nhà liên quan được xây dựng thêm. Càng về sau, ở những ngôi chùa nhỏ Thất Đường đơn giản chỉ còn Bổn Đường (Chánh Điện), Khố Lý (nhà kho), Khai Sơn Đường (Chỗ Thờ Tổ), Vị Bia Đường (nơi thờ vong). Cũng có nhiều hình thức biến dạng khác như thêm lầu chuông hay cổng tam quan, song chỉ là những trường hợp riêng biệt mà thôi. Nói chung các chùa đều giống nhau như thế, bởi trước nhất phải hợp với khả năng cho nên phải đơn giản, sẽ giải thích rõ về Thất Đường Già Lam dưới đây.

III.2.3 Sơ Lược Về Thất Đường Già Lam

Sơn Môn vừa chỉ cho cổng chính vào Chùa, vừa chỉ cho thế giới thanh tịnh, không có phiền não khổ đau. Cổng chùa thường có ba cửa, cửa lớn ở chính giữa, hai cửa nhỏ ở hai bên, còn gọi là Cổng Tam Quan, cũng gọi là Tam Môn. Ngoài ra, còn có những tên khác là: Quán Mộc Môn, Dược Y Môn, Anh Môn, Nhị Trọng Môn v.v... Tông Tào Động thường dùng Anh Môn và Nhị Trọng Môn. Ở phần hai bên trước cổng, thường an trí các vị Nhơn Vương. Trên Anh Môn (lầu) thường đặt tượng Phật, Bồ Tát hay các vị La Hán. Trên cao, treo một Phạn Chung (Đại Hồng Chung). Nếu chùa lớn, ngoài Sơn Môn còn có Tổng Môn (chỉ có một cửa ra vào), Tam Tùy Quan, Đống Môn, Dược Y Môn và Sắc Sứ Môn còn gọi là Hương Đường Môn.

Điện Phật còn gọi là Đại Hùng Phong Điện, Đại Hùng Điện, Đại Điện v.v... tọa lạc ngay chính giữa, trong đó có Tu Di Đàn thờ Đức Bổn Tôn Thích Ca Mâu Ni ngay trung tâm, hai bên trái phải của Phật, mỗi bên an trí một tượng Bồ Tát. Đa phần, thờ Đức Phật Thích Ca ở giữa (vị khai Tổ của Phật Giáo). Tôn Giả Ca Diếp trưởng tử Phật, Sơ Tổ Thiền Tông. Tôn Giả A Nan đệ tử thị giả của Đức Phật Thích Ca, vị Tổ Sư thứ hai, thị giả hầu Phật được nghe nhiều lời giảng nhất. Ngoài ra, còn thờ Tam Tôn Phật: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (biểu hiện Đức Phật trong hiện tại), Đức A Di Đà Như Lai (biểu hiện Đức Phật trong quá khứ). Đức Di Lặc Như Lai (biểu hiện Đức Phật trong tương lai). Tam Tôn Phật cũng còn được hiểu là: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Bồ Tát Văn Thù (biểu trưng cho trí tuệ Phật) và Bồ Tát Phổ Hiền (biểu trưng hạnh nguyện Phật). Phía đông của Phật Điện (từ ngoài nhìn vào phía bên mặt) thờ Đàn Thổ Địa hay thờ Bồ Tát Chiêu Bảo Thất Lang Đại Quyền Tu Lý. Phía Tây (phía trái từ ngoài nhìn vào) là Tổ Sư Đàn, thờ Sơ Tổ Đạt Ma. Thông thường bàn thờ làm bằng gạch hay đá, có chỗ để bày dâng lễ cúng. Đặc biệt, phần nghi lễ được tổ chức tại Phật Điện.

Pháp Đường là nơi vị Trụ Trì thuyết Pháp cho Tăng sĩ đang tu tập. Khi thuyết Pháp vị Trụ Trì được cung kính như đại diện chư Phật, chư vị Tổ Sư có trách nhiệm truyền trao giáo Pháp cho thính chúng, cho nên trong Pháp Đường không thiết tượng Phật nào cả. Tại Đại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự, có đặt tượng Đức Quan Thế Âm Bồ Tát biểu trưng tâm từ bi bao la của Phật, một lý do khác, như đã trình bày ở trước, ở Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự, Tổ Đường chính là Pháp Đường, nơi đó là Đại Tổ Đường được xem là một Đạo Tràng thuyết pháp của Tổ khai sơn Thiền Sư Oánh Sơn. Giữa Tổ Đường là Pháp Đường cũng còn có ý nghĩa là tôn trọng giữ gìn lời giáo huấn của Tổ. Tại Đại Tổ Đường nầy, đàn trên cao ở chính giữa, thờ tượng Tổ khai sơn Thiền Sư Oánh Sơn, hai bên trái phải thờ Thiền Sư Đạo Nguyên, Cao Tổ và thờ Thiền Sư Nga Sơn Chiêu Thạc, vị Tổ thứ hai của Tổng Trì Tự. Ngoài ra, các tượng của chư vị Tổ Sư cũng được thờ tại đây. Tại Pháp Đường thường có những thời Kinh sáng, trưa, tối và hầu như tất cả nghi lễ quan trọng đều cử hành tại đây.

Khố Viện hay Khố Lý thờ tượng Vi Đà Thiên và tượng Đại Hắc Thiên còn gọi là Đài Hương Tích, vừa là nơi chứa thực phẩm cho chư Tăng thường trụ và khách Tăng, vừa là nơi thâu nhận thực phẩm cúng dường, cũng là chỗ xay thóc.

Dục Thất, nhà tắm, có thờ tượng Tôn Giả Bạt Đà Bà La. Trong Chùa, Tăng Đường, Đông Ty và Dục Thất là ba nơi cần phải giữ thật trang nghiêm yên tĩnh, tuyệt đối cấm không được cười đùa, nói chuyện riêng tư, không được tạo ra âm thanh ồn ào. Ngay cả, tắm rửa kỳ cọ thân thể cho thanh tịnh cũng quan trọng như những việc tu hành khác.

Tăng Đường có nơi gọi là Vân Đường, cũng còn gọi là Tuyển Phật Trường, mà những chữ nầy được treo ngay ở chính giữa. Thông thường người ta còn gọi nơi nầy là Tọa Thiền Đường nhưng Tông Tào Động không gọi là Tọa Thiền Đường vì gọi như thế nghĩa là phân biệt chỗ hành thiền khác với nơi ăn uống. Tăng Đường là nơi mà chư Thánh Tăng và chư Bồ Tát thường lui tới, vốn gọi là Thánh Tăng Đường. Trong Thất Đường Già Lam của Tông Tào Động cũng có những nơi quan trọng biểu trưng hiện hữu của Thần Thánh, cũng có thể gọi là nhiệm mầu thiêng liêng, mà tuyệt đối không ai, cả người trong Chùa lẫn người ở ngoài tự ý vào được.

Đồng thời, Tăng Đường chia làm hai phần, bên ngoài là nơi dùng cơm, uống nước của chư Tăng, bên trong còn gọi là Nội Đường hay Đường Nội thờ chư vị Thánh Tăng như Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Quan Thế Âm, cũng có Chùa thờ Tôn Giả Kiều Trần Như, trên cái Trang ngay chính giữa. Bên dưới thiết kế những chỗ ngồi thiền, gọi là Trường Liên Sàng, là những cái đơn cao chừng một mét, rộng chừng một chiếc chiếu (Tatami), để ngồi Thiền mặt hướng vào tường hoặc cửa sổ.

Còn có những cái Đơn khác gọi là Hàm Quỹ, mặt bằng độ chừng 30 cm làm bằng gỗ, bên trong Hàm Quỹ (cái rương) đựng y áo và bình bát, phía dưới trải ra làm chỗ nghỉ, còn gọi là Tịnh Duyên, bởi vì chỗ nầy, vật nầy cũng dùng để làm nơi ăn uống. Tịnh Duyên có ý là ăn uống trong sạch thanh tịnh. Ngay cả ở bên ngoài cũng có kê những chiếc Đơn như thế.

Bên ngoài còn có những giá treo chuông gọi là Tăng Đường Chuông, Ngoại Đường Chuông và có cả Pháp Cổ (trống) cũng như những pháp cụ khác để báo hiệu khi cần thiết. Những việc như đọc sách, viết lách, cạo tóc, khâu vá v.v.., đều thực hiện trong liêu chúng. Mô hình liêu chúng là giữa liêu đặt tượng Bồ Tát Quan Thế Âm, hoặc tượng Hư Không Tạng Bồ Tát, chỉ có Hàm Quỹ (cái rương) và Tịnh Duyên (chỗ ăn) và liêu chúng gần Tăng Đường.
Đông Ty là Tiện Sở (cầu xí) cũng còn gọi là Tây Tịnh, nhưng chữ nầy bây giờ không còn dùng đến nữa, ở nơi nầy thường để tượng Điểu Sô Sa Ma Minh Vương.

III.2.4 Trường Hợp Những Tự Viện Thông Thường

Tóm lại, các vấn đề xây dựng như thế nào, ai xây, xây ở đâu, khi nào của các chùa thuộc Tông Tào Động lệ thuộc vào vấn đề xã hội địa phương và nguyện vọng của mọi người nữa. Thật ra, mỗi chùa có mỗi điều kiện, mỗi tính cách và mỗi mục đích khác nhau, không thể phán đoán chung chung được, tuy nhiên, có thể phân loại ra như sau:

Thứ nhất, Tu Hành Tự là tự viện như một đạo tràng dùng để tu tập và tọa thiền. Những tự viện nầy vốn có liên hệ với Tông Tào Động từ xưa, như Lưỡng Đại Bổn Sơn, mà dù cho chùa ấy có gì đặc biệt đi chăng nữa, thì vấn đề căn bản vẫn là chỗ để tu hành theo Tông Tào Động

Thứ hai, Bồ Đề Tự là tự viện để lễ bái và phụng thờ Ngài Hoằng Pháp Đại Sư, Ngài Quan Thế Âm, Thất Phước Thần, Linh Trường, thường thấy nơi các chùa thuộc Tông Pháp Tướng, Tông Hoa Nghiêm, Tông Thiên Thai, Tông Chơn Ngôn v.v... về sau dù đã đổi sang Tông Tào Động nhưng vẫn còn giữ tôn phong cũ.

Thứ ba, Kỳ Thọ Tự là chùa thờ Đức Quan Âm, Ngài Dược Sư, Ngài Địa Tạng, Ngài Bất Động, các vị Tổ Sư, Thần Lúa, Thiên Cẩu v.v... vì nhu cầu của mọi người đến tự viện lễ bái cầu nguyện.

Thứ tư, Quán Quan Tự là chùa lịch sử danh lam thắng cảnh, gần gũi mọi người và cảnh trí đẹp, được nhiều người tới lui vãn cảnh.

Tuy nhiên, trừ Lưỡng Đại Bổn Sơn và những tự viện lớn, còn các chùa thuộc Tông Tào Động về hình thức căn bản là những Già Lam theo mô hình: Sơn Môn, Bổn Đường, Khai Sơn Đường, Vị Bi Đường, Khố Lý, Chung Lầu, Tọa Thiền Đường v.v... mà chúng ta lần luợt tiếp xúc với những phần nầy.

Sơn Môn thờ tượng Nhân Vương, trên lầu cao thờ tượng Phật, Bồ Tát, nhưng cũng có nơi không có, bởi vì những chùa nhỏ nhiều khi không có Sơn Môn (cửa ra vào) nữa, đôi khi chỉ khắc tên chùa trên phiến đá thay cho cổng tam quan.

Bổn Đường cũng còn gọi là Phật Điện hay Pháp Đường, bên trong thờ Bổn Tôn, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, hoặc thờ Tam Tôn, song chính giữa vẫn là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Thế nhưng, tùy theo sự thành lập của tự viện, có những đặc thù riêng, không phải hoàn toàn giống nhau, có chùa thờ Đức A Di Đà Như Lai, Đại Nhật Như Lai, Dược Sư Như Lai v.v... có chùa thờ Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, Bất Động Minh Vương, Biện Tài Thiên và cũng còn nhiều tượng khác nữa. Tựu trung vẫn là hình tượng chư Phật và chư Bồ Tát mà ở đây có thể rõ thêm rằng đó là đặc trưng Phật tánh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni rộng lớn bao la như thế.

Trên bốn bức tường chung quanh Bổn Tôn trong Chánh Điện thường có 18 vị A La Hán. Hai bên tả hữu của Bổn Tôn thường thờ tượng Chiêu Bảo Thất Lang Đại Quyền Tu Lý Bồ Tát và tượng Đạt Ma Đại Sư. Sau Chánh Điện ngăn ra hai bên phải trái thờ linh vị của Tín Đồ Phật Tử.

Tại Bổn Đường (Chánh Điện) sáng, trưa, tối đều có tụng Kinh, nơi đây thường cử hành những nghi lễ cầu an, cầu siêu, thuyết pháp, lễ hằng thuận v.v...

Khai Sơn Đường tiếp giáp sau Bổn Đường, ở giữa thờ Ngài Cao Tổ Đạo Nguyên Thiền Sư hay Thái Tổ Oánh Sơn Thiền Sư. Ngoài hai vị Tổ Sư, còn thờ tượng bằng gỗ của vị Hòa Thượng khai sơn chùa ấy nữa. Hai bên phải trái thờ tượng của các vị Trụ Trì, linh vị của những người sáng lập chùa, nơi đây cũng thờ linh vị Tín Đồ nữa, miễn sao ở giữa có nơi làm lễ là được. Phía trước còn bàn kinh, có gối để lạy, có chuông mõ hai bên.

Vị Bi Đường là nơi linh vị Tín Đồ. Thông thường có thể thờ ở phía sau Chánh Điện hay Khai Sơn Đường, nhưng tùy địa phương Vị Bi Đường được xây riêng một nơi biệt lập bên ngoài Bổn Đường hay Khai Sơn Đường. Ở giữa, thờ tượng Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Mỗi gia đình có mỗi bàn thờ nhỏ và tự quản lý, cúng dường và tự mỗi gia đình đến chùa chăm sóc lấy.

Khố Lý được xây dựng ở bên phải Chánh Điện và mặt hướng về Chánh Điện. Nơi đây gồm có hành lang, phòng tiếp lễ vật, phòng khách, phòng ở của vị Trụ Trì, phòng ở của gia đình Trụ Trì, phòng sinh hoạt, phòng chuẩn bị, phòng ăn, phòng tắm, nhà vệ sinh v.v... Tùy theo chùa, Khố Lý lớn hay nhỏ, có chùa Khố Lý còn lớn hơn Chánh Điện nữa.

Tọa Thiền Đường được xây dựng phía bên trái hướng về Chánh Điện, đối diện tương xứng với khố lý. Cũng tùy điều kiện đất đai, đôi khi được thiết lập ngay tầng dưới của Khai Sơn Đường, những chùa không có Tọa Thiền Đường, có thể dùng Chánh Điện hay Khai Sơn Đường thay thế.

Lầu Chuông được thiết kế ở một góc vườn. Mỗi sáng tối thỉnh chuông nhứt định vào một thời điểm nào đó. Chùa nào không có lầu chuông, thường treo chuông bên ngoài cửa hay bên trong Chánh Điện.

Ngoài ra, trong vườn còn xây những nơi như: Đại Sư Đường, Trấn Thủ Đường, Đạo Hà Đường (nơi thờ Thần Lúa), Thần Xã, Sáng Khố v.v...

III.2.5 Công Việc Của Các Vị Tăng

Già Lam không phải chỉ thờ Phật, mà với người sống, nơi đây là những Đạo Tràng tu hành để thành Thánh, thành Phật. Già Lam của các chùa tu Thiền, như đề cập ở trên, được tổ chức theo thể thức sinh hoạt cộng đồng với mục đích tu hành. Riêng Thiền Tông, đặc biệt Tào Động Tông, có sự phối trí khác biệt. Chư Tăng ở chùa tu hành, tất cả nhất định phải phân công công việc để làm, không ai không làm việc, những công việc từ thời Lưỡng Tổ Đại Sư cho đến bây giờ vẫn thế. Được gọi là người tu, việc đầu tiên ở chùa, phải có khả năng làm việc hiệu quả. Không những chỉ riêng người tu ở chùa Tu Hành Tự, mà cho tất cả những tự viện lấy chùa Tu Hành Tự làm căn bản. Chư Tăng trong chùa phải làm việc được giải thích như sau:

Trụ Chức nghĩa là viết tắc của Chức Trụ Trì, người có trách nhiệm lớn lao đối với chùa. Với tư cách là “Tôn Giáo Pháp Nhơn” đại biểu cho chùa đó. Nếu chùa lớn, cũng còn xưng là Sơn Chủ thay cho Trụ Trì, đôi khi thay đổi gọi là Đường Đầu Hòa Thượng, mà thông thường gọi là Phương Trượng, Đường Đầu hoặc Hòa Thượng. Có nơi gọi vị Trụ Trì là Ojutsusan và Hòa Thượng là Ossan.

Quản Thủ là Chức Vụ của hai đại Bổn Sơn, cũng còn gọi là Quản Thủ Đại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự và Quản Thủ Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự. Ở hai Đại Bổn Sơn còn có vị Phó Quản Thủ, vị thứ hai sau Quản Thủ nữa.

Tây Đường là nơi ở của những vị Cao Đức do vị Trụ Trì cung thỉnh đến để chỉ đạo các Phật sự, bình thường vị Tăng nầy đứng sau vị Trụ Chức.

Giám Viện nghĩa là người thay thế vị Trụ Trì, làm Tổng Quản quán sát tất cả những công việc và mọi vấn đề hành chánh của chùa. Trước đây, vị nầy đứng đầu trong bảng Lục Hòa, mà có nơi gọi là Giám Tự. Ngoài ra còn có Phó Giám Viện thay thế việc điều hành mỗi khi vị Giám Viện vắng mặt .

Hậu Đường là chỗ hành trì của vị Tăng trực tiếp chỉ đạo.

Đơn Đầu là ngôi vị thứ hai của vị Tăng ở Hậu Đường đang hành trì và trực tiếp chỉ đạo.

Phó Tự là vị Tăng lo việc chi tiêu của chùa, lo trọn một trong 6 phép hòa kính.

Tri Khố là vị Tăng lo quản lý thức ăn, tiền bạc và giúp đỡ cho vị phó Trụ Trì.

Duy Na là người giúp đỡ cho vị Hậu Đường và Đơn Đầu, chỉ đạo và hướng dẫn chư Tăng tu hành, quản lý Tăng Đường, tụng khai Kinh và hồi hướng mỗi thời tụng Kinh, giữ vững kỷ cương một trong 6 phép hòa kính, tuy nhiên, có chùa xem đây là việc của vị Giám Tự.

Duyệt Chúng là vị giúp đỡ cho Duy Na, phần vụ thủ mõ.

Đường Hành cũng là nhiệm vụ của Duy Na và Duyệt Chúng, phải gõ khánh, tụng khai Kinh và hồi hướng trong mỗi thời công phu tụng Kinh.

Điển Tọa là vị Tăng lo việc ăn uống vâng giữ một trong 6 phép lục hòa.

Phó Điển còn gọi là Phạn Đầu, vị Tăng hổ trợ giúp việc cho Điển Tọa.

Trực Tế là vị Tăng chuyên lo việc chấp tác, trùng tu sửa chữa Già Lam, chữa đường sá, cũng là người vâng giữ một trong 6 phép lục hòa.

Tri Khách là vị Tăng lo việc tiếp đón khách.

Thị Chơn là vị Tăng chăm sóc chỗ thờ Tổ Khai Sơn.

Cúng Chơn là vị Tăng giúp đỡ Thị Chơn, cũng gọi là Truyền Cúng.
Tri Điện là vị Tăng quản lý Phật Điện và Pháp Đường. Người phụ tá gọi là Diện Hạnh.

Thượng Sự là vị Tăng lo việc thư ký, bảo quản văn thơ giấy tờ.

Tri Dục cũng còn gọi là Dục Chủ, vị Tăng quản lý nhà tắm.

Thị Cục Trưởng là vị Tăng thân cận, chăm lo và giúp đỡ vị Trụ Trì. Ở hai Đại Bổn Sơn những vị nầy hổ trợ vị Quản Thủ.

Thị Giả là vị Tăng thân cận hầu hạ vị Trụ Trì và Chư Tôn Đức đến thăm chùa. Có 5 loại Thị Giả chánh thức như:

Thiêu Hương Thị Giả, là người có trách nhiệm lo việc hương đăng và dâng hương cho vị Trụ Trì, mỗi khi có lễ.

Thư Trạng Thị Giả là vị lo vấn đề thư từ cho vị Trụ Trì.
Thỉnh Khách Thị Giả là vị Tăng lo ứng đối tiếp đãi khách của vị Trụ Trì.

Y Bát Thị Giả là vị Tăng lo Pháp Y cho vị Trụ Trì.

Thang Dược Thị Giả là vị Tăng lo thức ăn và thuốc men cho vị Trụ Trì.

Thông thường chỉ hai hay ba vị kiêm nhiệm luôn.

Thị Thánh nghĩa là Thị Giả của chư Thánh Tăng thờ tại Tăng Đường (như Ngài Văn Thù Bồ Tát), lo việc cúng dường nước hoặc trà nóng lên Bồ Tát.
Giảng Sư nghĩa là vị Thầy thường giảng nghĩa và thuyết pháp cho Chư Tăng và Tín Đồ.

Tạng Chủ tức là vị quản lý tạng Kinh và điện thờ có nhiều bảo vật.

Tịnh Đầu là vị Tăng quản lý Đông Ty (nhà xí).

Tấu Giả là vị Tăng có trách nhiệm thông tin cho khách hoặc những liêu xá, khi có những việc cần thiết.

Thủ Tọa là địa vị cao nhất của chư Tăng, còn gọi là Thượng Tọa.

Thư Ký nguyên là chức vụ Thị Giả Thư Trạng, phụ trách những công việc phụ giúp vị Thủ Tọa liêu, thường ngồi ở vị trí thứ hai sau Thượng Tọa.

Biện Sự là vị Tăng còn trẻ luôn ở bên vị Thư Ký, Thủ Tọa, nơi liêu Thủ Tọa.

Hành Giả là vị Tăng còn đang tu học, gần gũi thân cận, làm các công việc.
Ngoài ra, ở Điện Đường, Điện Ty, Đường Ty, Phật Điện, Pháp Đường khi có lễ, vị thỉnh chuông gọi là Chung Ty, vị lo công việc trong Tăng Đường gọi là Trực Đường, vị lo việc dọn dẹp gọi là Thanh Tảo Đương Phiên v.v... nhiều lắm không thể ghi chi tiết ra đây hết. Vả lại, còn có khá nhiều công việc như xuất bản, bố giáo, và nhiều việc không cần có chức vụ ở Lưỡng Bổn Sơn nữa, song tùy theo tính chất quy mô hay đơn giản của chùa, tùy theo địa phương, tùy theo xã hội mà công việc có thể tùy nghi sửa đổi thêm hay bớt.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com