Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương sáu: Tư Liệu Tham Khảo

12/04/201107:13(Xem: 7615)
Chương sáu: Tư Liệu Tham Khảo

THIỀN TÀO ĐỘNG NHẬT BẢN
Nguyên tác: Azuma Ryushin (Đông Long Chơn) - Việt dịch: Thích Như Điển
Chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc và quý Phật Tử tại Mỹ Châu – Úc Châu ấn tống 2008

Chương sáu:
Tư Liệu Tham Khảo

VII.1 Những Tư Liệu Tham Khảo Chủ Yếu

Tào Động Tông Tông Vụ Sảnh San Hành Thư gồm Tào Động Tông Toàn Thư 33 quyển (Tào Động Tông Toàn Thư San Hành Hội San)

Cải Đính Thời Chiêu Hòa Tào Động Tông Hành Trì Quy Phạm

Tào Động Tông Tông Chế

Tăng Lữ Tất Huề (hướng dẫn bắt buộc cho Tăng Lữ - do Giáo Học Bộ biên soạn)

Tào Động Tông Đàn Tín Đồ Tất Huề (do Bộ Giáo Hóa biên tập)

Sách Của Tự Đình (do Giáo Học Bộ biên)
Tham Thiền Yếu Điển (do bộ phận quảng bá biên tập)
Học Về Đổng Cốc Ký (do Đông Long Chơn viết)
Ý Nghĩa và Lợi Ích của Sự Cúng Dường (Tanaka Lượng Tam viết)
Cách bài trí bàn thờ Phật đúng đắn của Tông Tào Động (Anh Tỉnh Tú Hùng biên)

Tào Động Tông Hồi Hướng Văn Giảng Nghĩa (gồm Chánh, tục của Anh Tỉnh Tú Hùng biên)

Vĩnh Bình Tự, Tổng Trì Tự (hai quyển nầy cũng do Anh Tỉnh Tú Hùng viết văn và Ngũ Thập Tung Thiên chụp hình ảnh) và những sách khác

VII.2 Những Tư Liệu Sách Tham Khảo Khác

Thiền Học Đại Từ Điển 3 cuốn (do Thiền Học Đại Từ Điển biên soạn. Đại Tu Quán Thư Điểm San)

Thiền Môn Bảo Giám (Lai Mã Trắc Đạo viết, do Hồng Minh Xã phát hành)
Đạo Nguyên Thiền Sư và những Kinh Điển Trích dẫn – Nghiên Cứu Ngữ Lục (Kính Đảo Nguyên Long viết, Mộc Nhĩ Xã phát hành)
Đạo Nguyên Tiểu Tự Điển (Đông Long Chơn viết, Xuân Thu Xã phát hành)
Đạo Nguyên Thiền Sư và Oánh Sơn Thiền Sư (Đông Long Chơn viết, Chơn Phước Tự Phật Giáo Đồ Thư Quán phát hành)
Nghiên Cứu về Oánh Sơn (Đông Chơn Long viết, Xuân Thu Xã phát hành)
Nhật Bản Phật Giáo Cơ Sở Giảng Tọa Quyển Thứ 6. Thiền Tông (Nại Lương Khang Minh và Tây Thôn Huệ Tín biên và viết về Tào Động do quý Thầy Nại Lương Khang Minh. Y Đằng Tuấn Sản, Tử Điền Đạo Hiền, Nguyên Điền Hoằng Đạo, Trung Giả Đông Thiền viết chung. Do Hùng Sơn Các phát hành)

Kinh Thiền Tông (Anh Tỉnh Tú Hùng, Khiêm Điền Mẫu Hùng biên soạn. Viết về Tào Động Tông do quý Thầy Anh Tỉnh Tú Hùng, Trung Dã Đông Thiền, Cương Bộ Hòa Hùng cùng chấp bút. Do Giảng Đàm Xã phát hành)
Phật Giáo Nghi Lễ Từ Điển (Đằng Tỉnh Chánh Hùng viết; Đông Kinh Đường xuất bản phát hành)

Phật Giáo Táng Tế Đại Từ Điển (Đằng Tỉnh Chánh Dùng, Hoa Sơn Thắng Hữu, Trung Giả Đông Thiền cùng biên soạn. Về Tào Động Tông do Sư Trung Dã Đông
Thiền chấp bút. Hùng Sơn Các phát hành)
Phật Cụ Đại Sự Điển (Cương Kỳ Khiêm Trị sửa đổi lại. Về Tào Động Tông do Thầy Vĩnh Tỉnh Chánh Chi chấp bút. Khiêm Thượng Tân Thư phát hành)

Những Phật Sự Theo Thói Quen (Phật Giáo Văn Hóa Nghiên Cứu Hội biên tập; do Hikarinokuni Châu Thức Hội Xã phát hành)

Phật Sự và Tất Cả Những Pháp Yếu (Tùng Thọ Hoằng Đạo biên. Nhật Bản Văn Nghệ Xã phát hành) và những loại khác.

VII.3 Tạp Chí, Báo Viết Về Ký Sự

Oánh Sơn Thiền Sư Đặc Tập (Đông Long Chơn chấp bút, Phật Giáo Times số 1029, Phật Giáo Times Xã phát hành)

Sự Triển Khai Tào Động Tông. Sự Triển Khai của Lâm Tế Tông (Đông Long Chơn chấp bút. Hiện đại tư tưởng, số lâm thời tăng bản tháng 11 năm 1980 Tổng Trì Tập - Thiền. Do Thanh Xã phát hành)

Sự Phát Triển của Tào Động Tông (Đông Long Chơn chấp bút. Tôn Giáo Công Nghệ. Số đặc biệt tháng 11 năm 1981. Căn bản Đạo Tràng Của Việc Tham Thiền Học Đạo – Tào Động Tông Đại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự. Do Khiêm Thương Tân Thơ phát hành) và những loại khác

VII.4 Kinh Tụng – CD Gởi Kèm Gồm:
• Khai Kinh Kệ
• Sám Hối Văn
• Tam Quy Lễ Văn
• Tam Tôn Lễ Văn
• Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh
• Bổn Tôn Thượng Cúng Hồi Hướng Văn
• Tu Chứng Nghĩa Chương VI.5.7 – Hành Trì Báo Ân
• Tiên Vong Hồi Hướng Văn
• Phổ Hồi Hướng
• Tứ Hoằng Thệ Nguyện Văn

VII.5 Kinh Văn Tụng Niệm
Sau đây là một vài bài văn hành lễ và lúc thỉnh chuông.
dấu nhập chuông.© dấu thỉnh chuông,

VII.5.1 Khai Kinh Kệ
(Thỉnh 1 cho đến 3 tiếng chuông)

Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp,
Bách Thiên Vạn Kiếp Nan Tao Ngộ,
Ngã Kim Kiến Văn Đắc Thọ Trì,
Nguyện Giải Như Lai Chơn Thật Nghĩa.

VII.5.2 Sám Hối Văn
(Thỉnh 1 cho đến 3 tiếng chuông)

Ngã Tích Sở Tạo Chư Ác Nghiệp,
Giai Do Vô Thỉ Tham Sân Si,
Tùng Thân Khẩu Ý Chi Sở Sanh,
Nhứt Thiết Ngã Kim Giai Sám Hối.
VII.5.3 Tam Quy Lễ Văn
(Thỉnh 1 cho đến 3 tiếng chuông)
Tự Quy Y Phật,
Đương Nguyện Chúng Sanh,
Thể Giải Đại Đạo,
Phát Vô Thượng Ý (Tâm) ©.
Tự Quy Y Pháp,
Đương Nguyện Chúng Sanh,
Thâm Nhập Kinh Tạng,
Trí Huệ Như Hải ©.
Tự Quy Y Tăng,
Đương Nguyện Chúng Sanh,
Thống Lý Đại Chúng,
Nhứt Thiết Vô Ngại ©.
VII.5.4 Tam Tôn Lễ Văn
(Thỉnh 1 cho đến 3 tiếng chuông)
Nam Mô Đại Ân Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Cao Tổ Thừa Dương Đại Sư,
Thái Tổ Thường Tế Đại Sư,
Sanh Sanh Thế Thế Trực Ngộ Đãnh Tải.

VII.5.5 Bát Nhã Tâm Kinh

Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh
Quán Tự Tại Bồ Tát
Hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời
Chiếu kiến ngũ © uẩn giai không
Độ nhứt thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử!
Sắc bất dị không, không bất dị sắc
Sắc tức thị không, không tức thị sắc
Thọ tưởng hành thức
Diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử!
Thị chư pháp không tướng
Bất sanh bất diệt
Bất cấu bất tịnh
Bất tăng bất giảm
Thị cố không trung
Vô sắc vô thọ tưởng hành thức
Vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý
Vô sắc thanh hương vị xúc pháp
Vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới
Vô vô minh diệc vô vô minh tận
Nãi chí vô lão tử
Diệc vô lão tử tận
Vô khổ tập diệt đạo
Vô trí diệc vô đắc
Dĩ vô sở đắc cố
Bồ Đề Tát Đỏa
Y Bát Nhã Ba La Mật Đa © cố
Tâm vô quái ngại
Vô quái Ngại cố
Vô hữu khủng bố
Viễn ly nhứt thiết
Điên đảo mộng tưởng
Cứu cánh Niết Bàn
Tam thế Chư Phật
Y Bát Nhã Ba La Mật Đa © cố
Đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Cố tri Bát Nhã Ba La Mật Đa
Thị đại thần chú
Thị đại minh chú
Thị vô thượng chú
Thị vô đẳng đẳng chú
Năng trừ nhất thiết khổ
Chơn thiệt bất hư.
Cố thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa chú
Tức thuyết chú viết:
Yết Đế Yết Đế
Ba La Yết Đế
Ba La Tăng Yết Đế
Bồ Đề Tát Bà Ha
Bát Nhã Tâm Kinh.

VII.5.6 Bổn Tôn Thượng Cúng Hồi Hướng Văn
Thượng Lai phúng tụng
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh.
Với công đức nầy xin phụng trì cúng dường
Đại Ân Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Cao Tổ Thừa Dương Đại Sư,
Thái Tổ Thường Tế Đại Sư
Cho đến việc trang nghiêm
Vô thượng Phật quả Bồ Đề.
Phục nguyện:
Tứ ân tổng báo,
Tam hữu tề tư,
Pháp giới hữu tình,
Đồng viên chủng trí.
Thập Phương Tam Thế Nhứt Thiết Phật
Chư Tôn Bồ Tát Ma Ha Tát
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật.

VII.5.7 Tu Chứng Nghĩa – Hành Trì Báo Ân

Phật vì những người ở cõi Nam Diêm Phù Đề, phát tâm Bồ Đề. Ngày nay cũng vì nhân duyên nên nguyện sanh về quốc độ Ta Bà nầy, hoan hỷ được thấy Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Yên lặng mà suy nghĩ, khi chánh pháp được lưu bố, nguyện xả thân nầy vì Chánh Pháp, nguyện gặp được Chánh Pháp như ngày hôm nay, nguyện vâng lời Phật dạy, gặp được vị Thầy dạy cho Vô Thượng Bồ Đề. Không phê phán chỉ trích, không chấp thủ về hành vi, chỉ tôn trọng trí tuệ, mỗi ngày ba lần lễ bái, cung kính để tâm nầy không sanh phiền não. Nếu Phật Tổ không truyền lại, làm sao có Chánh Pháp cho đến ngày hôm nay, dù một câu thôi, cũng cảm tạ thâm ân ấy, một pháp thôi cũng phải báo ân ấy; huống gì Chánh Pháp Nhãn Tạng cao vời, không pháp nào hơn, phải cảm tạ ân đức to lớn ấy. Con chim se sẻ khi bệnh còn không quên ơn tạ lễ Tam Phủ. Con rùa khốn cùng chẳng quên ân mang ấn để đáp đền. Súc sanh còn không quên chuyện đền ân, làm sao con người lại tranh nhau, không nghĩ đến chuyện báo ân cho được. Sự báo tạ nầy chẳng qua là vì Phật pháp; nên mỗi ngày phải hành trì. Sự báo ân nầy là con đường chân chánh, là đạo lý, nên mỗi ngày không nên nhàn rỗi, uổng phí thời gian, phải hành trì. Ngày tháng trôi qua nhanh như tên bắn, mạng sống như sương mong manh. Có gì gọi là thiện xảo phương tiện, nếu một ngày trôi qua, không trở lại bao giờ. Dẫu sống đến 100 tuổi, cũng bận rộn theo ngày tháng mưu sinh; buồn thay cho hình hài cốt cách nầy. Uổng công thay phải nô lệ âm thanh, hình dáng. Dù sống đến 100 năm, mà mỗi ngày không làm được gì cả, 100 năm ấy một đời ấy có thâu hoạch được gì đâu. Có gì để lại sau 100 năm để được cứu độ cho cuộc sống khác. Nếu mỗi ngày tôn trọng thân mệnh nầy, quý trọng thân mệnh nầy, hình hài nầy, cốt cách nầy phải hành trì mới chính là tự yêu mến thân tâm mình, tự kính trọng mình. Nương vào Chư Phật để hành trì, chúng ta sẽ được gặp Chư Phật.

Sẽ được đến con đường lớn. Mỗi ngày hành trì như thế tức là trở thành chủng tử của Phật, hiển nhiên hành trì theo Chư Phật, thành Chư Phật

Thành Chư Phật ấy chính là thành Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật ấy chính là tâm nầy là Phật. Quá khứ, hiện tại, vị lai Chư Phật cũng đều thành Phật. Lúc ấy tất cả đều thành Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chính là “Tức Tâm Thị Phật”. Tức Tâm Thị Phật nghĩa là © dù cho là ai đi nữa, muốn nghiên cứu, muốn thực hành tường tận sâu xa © chính là báo đáp ân đức Phật một cách chân chính vậy.

VII.5.8 Tiên vong Hồi Hướng Văn
(chỉ tụng vào buổi sáng)

Bồ Tát thanh lương nguyệt,
Thường du tất cánh không,
Chúng sanh tâm thủy tịnh,
Bồ Tát ảnh hiện trung.

Ngưỡng mong Tam Bảo thùy từ chiếu giám, thượng lai phúng tụng Tu Chứng Nghĩa hành trì báo ân, tập thử công đức viện cư sĩ (hay Đại Tỷ) Linh vị lục thân quyến thuộc thất thế phụ mẫu, hữu duyên vô duyên tam giới vạn linh pháp giới hàm thức đẳng đẳng hồi hướng. Ngưỡng nguyện quảng kiếp vô minh tốc xả tiêu diệt, chơn không diệu trí tiện đắc hiện tiền, đốn ngộ vô sanh, tốc chứng phật quả.

Tạm dịch:
Ngưỡng mong Tam Bảo từ bi chứng giám, từ trước đến đây chúng con trì tụng Tu Chúng Nghĩa, hành trì báo ân, nguyện đem công đức nầy cầu nguyện cho....... Chùa.......... Cư Sĩ Phật Tử............ và hồi hướng đến tất cả chư hương linh thân bằng quyến thuộc, cha mẹ bảy đời, tất cả chúng sanh hoặc là có duyên hoặc chưa có duyên với chúng con trong pháp giới, tất cả hàm linh đều được tiêu trừ vô minh, đắc diệu trí chơn không, sớm đạt quả vị Vô Sanh, mau thành Phật Đạo.
Thập Phương Tam Thế Nhứt Thiết Phật
Chư Tôn Bồ Tát Ma Ha Tát
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật

VII.5.9 Phổ Hồi Hướng
(chỉ tụng vào buổi sáng)

Nguyện đem công đức nầy,
Hướng về khắp tất cả,
Chúng con và chúng sanh,
Đều trọn thành Phật đạo.
Thập Phương Tam Thế Nhứt Thiết Phật
Chư Tôn Bồ Tát Ma Ha Tát
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật

VII.5.10 Tứ Hoằng Thệ Nguyện Môn
(Thỉnh 1 cho đến 3 tiếng chuông)

Âm Hán Việt:
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ,
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

Âm tiếng Nhật:
Shi Guu Sei Gan Mon
Shuu joo mu hen sei gan do
Boon noo mu jin sei gan dan
Hoo mon mu ryoo sei gan gaku
Butsu doo mu joo sei gan joo © ©
Công đức phiên dịch khó nghĩ lường,
Vô biên thắng phước đều hồi hướng,
Khắp nguyện chúng sanh trong pháp giới,
Đều được vãng sanh về Cực Lạc.

Dịch xong vào lúc 15 giờ ngày 30 tháng 11 năm 2007 tại Tu Viện Đa Bảo – Úc Đại Lợi nhân lần nhập thất thứ 5.
Dịch trực tiếp từ tiếng Nhật sang tiếng ViệtThích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc

III.2 Thất Đường Già Lam

III.2.1 Sự Thay Đổi Kiến Trúc Của Tự Viện

Già Lam, nguyên ngữ bằng tiếng Sanscrit cổ, Ấn Độ là Shangarama, còn gọi là Tinh Xá, Chùa, Tự Viện. Kiến trúc Tự Viện Nhật Bản ảnh hưởng trực tiếp từ bán đảo Triều Tiên, gián tiếp từ Trung Hoa. Từ thời Bình An (Heian), mỹ thuật kiến trúc Nhật Bản mô phỏng theo hai dạng mỹ thuật kiến trúc Triều Tiên có từ thời Phi Điểu, và mỹ thuật Trung Hoa từ thời nhà Đường. Đến thời Kamakura, lối kiến trúc đó bị loại bỏ đi thay bằng lối kiến trúc thời Tống (Trung Hoa) hòa với lối kiến trúc thời Thất Đinh. Đến thời Đào Sơn mỹ thuật kiến trúc trở nên đẹp vô cùng, tạo nên phong cách mỹ thuật đặc biệt của thời đại nầy. Còn thời đại Giang Hộ (Edo), lại theo phong cách đơn giản, hiện đại và độc lập, theo lối phong cách Âu Châu.

Kiến trúc Chùa, đặc biệt vào thời Kamakura thể hiện trọn vẹn phong cách Thiền ảnh hưởng mô thức Trung Hoa thời Đường, còn gọi là phong cách Thiền Tông, có nhiều điểm giống Lâm Tế Tông, Hoàng Bích Tông, Tào Động Tông, hẳn nhiên cũng không thiếu nhiều điểm khác biệt đặc thù.

III.2.2 Già Lam Của Tào Động Tông Là Nơi Chính Để Tu Hành

Thiền Sư Đạo Nguyên phối hợp những phiên bản Tự Viện Trung Quốc và Ấn Độ, suy nghĩ kiến tạo đạo tràng trang nghiêm của Tông Tào Động. Chùa Vĩnh Bình kiến tạo mô phỏng theo Chùa Thiên Đồng Sơn Cảnh Đức ở tỉnh Chiết Giang, Trung Hoa (bây giờ gọi là Thiên Đồng Tự). Tông Tào Động vẫn sử dụng từ “Thất Đường Già Lam“ có lẽ từ thời Giang Hộ (Edo), không có căn cứ nào chỉ cho nguyên thỉ của chữ nầy. Song cũng có thuyết cho rằng Tông Tào Động gọi là Thất Đường Già Lam cho những ngôi Chùa đầy đủ 7 gian như: Sơn Môn, Phật Điện, Pháp Đường, Khố Viện, Tăng Đường, Dục Thất và Đông Ty. Ngoài ra, Chùa còn có tháp 3 tầng, tháp 5 tầng hay Đa Bảo Tháp, Xá Lợi Tháp v.v... những tháp nầy không gồm chung trong Thất Đường Già Lam. Chùa Thiền hay đặc biệt là Chùa của Tào Động Tông không có Tháp, nếu có, tháp được xây sau hoặc là xây với lý do nào đó, còn Chùa thuộc Tông Pháp Tướng và Tông Chơn Ngôn có xây tháp.

Hình thức Thất Đường Già Lam của Tông Tào Động theo thứ tự từ bên ngoài đi vào là: Sơn Môn, Phật Điện, Pháp Đường, bên mặt là Khố Viện, trước có Dục Thất (phòng tắm rửa), bên trái là Tăng Đường, trước có Đông Ty (nhà vệ sinh). Tất cả đều có hành lang bao bọc xung quanh trở thành một hình vuông vức. Ngoài Thất Đường còn có những tòa nhà liên quan được xây dựng thêm. Càng về sau, ở những ngôi chùa nhỏ Thất Đường đơn giản chỉ còn Bổn Đường (Chánh Điện), Khố Lý (nhà kho), Khai Sơn Đường (Chỗ Thờ Tổ), Vị Bia Đường (nơi thờ vong). Cũng có nhiều hình thức biến dạng khác như thêm lầu chuông hay cổng tam quan, song chỉ là những trường hợp riêng biệt mà thôi. Nói chung các chùa đều giống nhau như thế, bởi trước nhất phải hợp với khả năng cho nên phải đơn giản, sẽ giải thích rõ về Thất Đường Già Lam dưới đây.

III.2.3 Sơ Lược Về Thất Đường Già Lam

Sơn Môn vừa chỉ cho cổng chính vào Chùa, vừa chỉ cho thế giới thanh tịnh, không có phiền não khổ đau. Cổng chùa thường có ba cửa, cửa lớn ở chính giữa, hai cửa nhỏ ở hai bên, còn gọi là Cổng Tam Quan, cũng gọi là Tam Môn. Ngoài ra, còn có những tên khác là: Quán Mộc Môn, Dược Y Môn, Anh Môn, Nhị Trọng Môn v.v... Tông Tào Động thường dùng Anh Môn và Nhị Trọng Môn. Ở phần hai bên trước cổng, thường an trí các vị Nhơn Vương. Trên Anh Môn (lầu) thường đặt tượng Phật, Bồ Tát hay các vị La Hán. Trên cao, treo một Phạn Chung (Đại Hồng Chung). Nếu chùa lớn, ngoài Sơn Môn còn có Tổng Môn (chỉ có một cửa ra vào), Tam Tùy Quan, Đống Môn, Dược Y Môn và Sắc Sứ Môn còn gọi là Hương Đường Môn.

Điện Phật còn gọi là Đại Hùng Phong Điện, Đại Hùng Điện, Đại Điện v.v... tọa lạc ngay chính giữa, trong đó có Tu Di Đàn thờ Đức Bổn Tôn Thích Ca Mâu Ni ngay trung tâm, hai bên trái phải của Phật, mỗi bên an trí một tượng Bồ Tát. Đa phần, thờ Đức Phật Thích Ca ở giữa (vị khai Tổ của Phật Giáo). Tôn Giả Ca Diếp trưởng tử Phật, Sơ Tổ Thiền Tông. Tôn Giả A Nan đệ tử thị giả của Đức Phật Thích Ca, vị Tổ Sư thứ hai, thị giả hầu Phật được nghe nhiều lời giảng nhất. Ngoài ra, còn thờ Tam Tôn Phật: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (biểu hiện Đức Phật trong hiện tại), Đức A Di Đà Như Lai (biểu hiện Đức Phật trong quá khứ). Đức Di Lặc Như Lai (biểu hiện Đức Phật trong tương lai). Tam Tôn Phật cũng còn được hiểu là: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Bồ Tát Văn Thù (biểu trưng cho trí tuệ Phật) và Bồ Tát Phổ Hiền (biểu trưng hạnh nguyện Phật). Phía đông của Phật Điện (từ ngoài nhìn vào phía bên mặt) thờ Đàn Thổ Địa hay thờ Bồ Tát Chiêu Bảo Thất Lang Đại Quyền Tu Lý. Phía Tây (phía trái từ ngoài nhìn vào) là Tổ Sư Đàn, thờ Sơ Tổ Đạt Ma. Thông thường bàn thờ làm bằng gạch hay đá, có chỗ để bày dâng lễ cúng. Đặc biệt, phần nghi lễ được tổ chức tại Phật Điện.

Pháp Đường là nơi vị Trụ Trì thuyết Pháp cho Tăng sĩ đang tu tập. Khi thuyết Pháp vị Trụ Trì được cung kính như đại diện chư Phật, chư vị Tổ Sư có trách nhiệm truyền trao giáo Pháp cho thính chúng, cho nên trong Pháp Đường không thiết tượng Phật nào cả. Tại Đại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự, có đặt tượng Đức Quan Thế Âm Bồ Tát biểu trưng tâm từ bi bao la của Phật, một lý do khác, như đã trình bày ở trước, ở Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự, Tổ Đường chính là Pháp Đường, nơi đó là Đại Tổ Đường được xem là một Đạo Tràng thuyết pháp của Tổ khai sơn Thiền Sư Oánh Sơn. Giữa Tổ Đường là Pháp Đường cũng còn có ý nghĩa là tôn trọng giữ gìn lời giáo huấn của Tổ. Tại Đại Tổ Đường nầy, đàn trên cao ở chính giữa, thờ tượng Tổ khai sơn Thiền Sư Oánh Sơn, hai bên trái phải thờ Thiền Sư Đạo Nguyên, Cao Tổ và thờ Thiền Sư Nga Sơn Chiêu Thạc, vị Tổ thứ hai của Tổng Trì Tự. Ngoài ra, các tượng của chư vị Tổ Sư cũng được thờ tại đây. Tại Pháp Đường thường có những thời Kinh sáng, trưa, tối và hầu như tất cả nghi lễ quan trọng đều cử hành tại đây.

Khố Viện hay Khố Lý thờ tượng Vi Đà Thiên và tượng Đại Hắc Thiên còn gọi là Đài Hương Tích, vừa là nơi chứa thực phẩm cho chư Tăng thường trụ và khách Tăng, vừa là nơi thâu nhận thực phẩm cúng dường, cũng là chỗ xay thóc.

Dục Thất, nhà tắm, có thờ tượng Tôn Giả Bạt Đà Bà La. Trong Chùa, Tăng Đường, Đông Ty và Dục Thất là ba nơi cần phải giữ thật trang nghiêm yên tĩnh, tuyệt đối cấm không được cười đùa, nói chuyện riêng tư, không được tạo ra âm thanh ồn ào. Ngay cả, tắm rửa kỳ cọ thân thể cho thanh tịnh cũng quan trọng như những việc tu hành khác.

Tăng Đường có nơi gọi là Vân Đường, cũng còn gọi là Tuyển Phật Trường, mà những chữ nầy được treo ngay ở chính giữa. Thông thường người ta còn gọi nơi nầy là Tọa Thiền Đường nhưng Tông Tào Động không gọi là Tọa Thiền Đường vì gọi như thế nghĩa là phân biệt chỗ hành thiền khác với nơi ăn uống. Tăng Đường là nơi mà chư Thánh Tăng và chư Bồ Tát thường lui tới, vốn gọi là Thánh Tăng Đường. Trong Thất Đường Già Lam của Tông Tào Động cũng có những nơi quan trọng biểu trưng hiện hữu của Thần Thánh, cũng có thể gọi là nhiệm mầu thiêng liêng, mà tuyệt đối không ai, cả người trong Chùa lẫn người ở ngoài tự ý vào được.

Đồng thời, Tăng Đường chia làm hai phần, bên ngoài là nơi dùng cơm, uống nước của chư Tăng, bên trong còn gọi là Nội Đường hay Đường Nội thờ chư vị Thánh Tăng như Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Quan Thế Âm, cũng có Chùa thờ Tôn Giả Kiều Trần Như, trên cái Trang ngay chính giữa. Bên dưới thiết kế những chỗ ngồi thiền, gọi là Trường Liên Sàng, là những cái đơn cao chừng một mét, rộng chừng một chiếc chiếu (Tatami), để ngồi Thiền mặt hướng vào tường hoặc cửa sổ.

Còn có những cái Đơn khác gọi là Hàm Quỹ, mặt bằng độ chừng 30 cm làm bằng gỗ, bên trong Hàm Quỹ (cái rương) đựng y áo và bình bát, phía dưới trải ra làm chỗ nghỉ, còn gọi là Tịnh Duyên, bởi vì chỗ nầy, vật nầy cũng dùng để làm nơi ăn uống. Tịnh Duyên có ý là ăn uống trong sạch thanh tịnh. Ngay cả ở bên ngoài cũng có kê những chiếc Đơn như thế.

Bên ngoài còn có những giá treo chuông gọi là Tăng Đường Chuông, Ngoại Đường Chuông và có cả Pháp Cổ (trống) cũng như những pháp cụ khác để báo hiệu khi cần thiết. Những việc như đọc sách, viết lách, cạo tóc, khâu vá v.v.., đều thực hiện trong liêu chúng. Mô hình liêu chúng là giữa liêu đặt tượng Bồ Tát Quan Thế Âm, hoặc tượng Hư Không Tạng Bồ Tát, chỉ có Hàm Quỹ (cái rương) và Tịnh Duyên (chỗ ăn) và liêu chúng gần Tăng Đường.
Đông Ty là Tiện Sở (cầu xí) cũng còn gọi là Tây Tịnh, nhưng chữ nầy bây giờ không còn dùng đến nữa, ở nơi nầy thường để tượng Điểu Sô Sa Ma Minh Vương.

III.2.4 Trường Hợp Những Tự Viện Thông Thường

Tóm lại, các vấn đề xây dựng như thế nào, ai xây, xây ở đâu, khi nào của các chùa thuộc Tông Tào Động lệ thuộc vào vấn đề xã hội địa phương và nguyện vọng của mọi người nữa. Thật ra, mỗi chùa có mỗi điều kiện, mỗi tính cách và mỗi mục đích khác nhau, không thể phán đoán chung chung được, tuy nhiên, có thể phân loại ra như sau:

Thứ nhất, Tu Hành Tự là tự viện như một đạo tràng dùng để tu tập và tọa thiền. Những tự viện nầy vốn có liên hệ với Tông Tào Động từ xưa, như Lưỡng Đại Bổn Sơn, mà dù cho chùa ấy có gì đặc biệt đi chăng nữa, thì vấn đề căn bản vẫn là chỗ để tu hành theo Tông Tào Động

Thứ hai, Bồ Đề Tự là tự viện để lễ bái và phụng thờ Ngài Hoằng Pháp Đại Sư, Ngài Quan Thế Âm, Thất Phước Thần, Linh Trường, thường thấy nơi các chùa thuộc Tông Pháp Tướng, Tông Hoa Nghiêm, Tông Thiên Thai, Tông Chơn Ngôn v.v... về sau dù đã đổi sang Tông Tào Động nhưng vẫn còn giữ tôn phong cũ.

Thứ ba, Kỳ Thọ Tự là chùa thờ Đức Quan Âm, Ngài Dược Sư, Ngài Địa Tạng, Ngài Bất Động, các vị Tổ Sư, Thần Lúa, Thiên Cẩu v.v... vì nhu cầu của mọi người đến tự viện lễ bái cầu nguyện.

Thứ tư, Quán Quan Tự là chùa lịch sử danh lam thắng cảnh, gần gũi mọi người và cảnh trí đẹp, được nhiều người tới lui vãn cảnh.

Tuy nhiên, trừ Lưỡng Đại Bổn Sơn và những tự viện lớn, còn các chùa thuộc Tông Tào Động về hình thức căn bản là những Già Lam theo mô hình: Sơn Môn, Bổn Đường, Khai Sơn Đường, Vị Bi Đường, Khố Lý, Chung Lầu, Tọa Thiền Đường v.v... mà chúng ta lần luợt tiếp xúc với những phần nầy.

Sơn Môn thờ tượng Nhân Vương, trên lầu cao thờ tượng Phật, Bồ Tát, nhưng cũng có nơi không có, bởi vì những chùa nhỏ nhiều khi không có Sơn Môn (cửa ra vào) nữa, đôi khi chỉ khắc tên chùa trên phiến đá thay cho cổng tam quan.

Bổn Đường cũng còn gọi là Phật Điện hay Pháp Đường, bên trong thờ Bổn Tôn, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, hoặc thờ Tam Tôn, song chính giữa vẫn là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Thế nhưng, tùy theo sự thành lập của tự viện, có những đặc thù riêng, không phải hoàn toàn giống nhau, có chùa thờ Đức A Di Đà Như Lai, Đại Nhật Như Lai, Dược Sư Như Lai v.v... có chùa thờ Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, Bất Động Minh Vương, Biện Tài Thiên và cũng còn nhiều tượng khác nữa. Tựu trung vẫn là hình tượng chư Phật và chư Bồ Tát mà ở đây có thể rõ thêm rằng đó là đặc trưng Phật tánh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni rộng lớn bao la như thế.

Trên bốn bức tường chung quanh Bổn Tôn trong Chánh Điện thường có 18 vị A La Hán. Hai bên tả hữu của Bổn Tôn thường thờ tượng Chiêu Bảo Thất Lang Đại Quyền Tu Lý Bồ Tát và tượng Đạt Ma Đại Sư. Sau Chánh Điện ngăn ra hai bên phải trái thờ linh vị của Tín Đồ Phật Tử.

Tại Bổn Đường (Chánh Điện) sáng, trưa, tối đều có tụng Kinh, nơi đây thường cử hành những nghi lễ cầu an, cầu siêu, thuyết pháp, lễ hằng thuận v.v...

Khai Sơn Đường tiếp giáp sau Bổn Đường, ở giữa thờ Ngài Cao Tổ Đạo Nguyên Thiền Sư hay Thái Tổ Oánh Sơn Thiền Sư. Ngoài hai vị Tổ Sư, còn thờ tượng bằng gỗ của vị Hòa Thượng khai sơn chùa ấy nữa. Hai bên phải trái thờ tượng của các vị Trụ Trì, linh vị của những người sáng lập chùa, nơi đây cũng thờ linh vị Tín Đồ nữa, miễn sao ở giữa có nơi làm lễ là được. Phía trước còn bàn kinh, có gối để lạy, có chuông mõ hai bên.

Vị Bi Đường là nơi linh vị Tín Đồ. Thông thường có thể thờ ở phía sau Chánh Điện hay Khai Sơn Đường, nhưng tùy địa phương Vị Bi Đường được xây riêng một nơi biệt lập bên ngoài Bổn Đường hay Khai Sơn Đường. Ở giữa, thờ tượng Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Mỗi gia đình có mỗi bàn thờ nhỏ và tự quản lý, cúng dường và tự mỗi gia đình đến chùa chăm sóc lấy.

Khố Lý được xây dựng ở bên phải Chánh Điện và mặt hướng về Chánh Điện. Nơi đây gồm có hành lang, phòng tiếp lễ vật, phòng khách, phòng ở của vị Trụ Trì, phòng ở của gia đình Trụ Trì, phòng sinh hoạt, phòng chuẩn bị, phòng ăn, phòng tắm, nhà vệ sinh v.v... Tùy theo chùa, Khố Lý lớn hay nhỏ, có chùa Khố Lý còn lớn hơn Chánh Điện nữa.

Tọa Thiền Đường được xây dựng phía bên trái hướng về Chánh Điện, đối diện tương xứng với khố lý. Cũng tùy điều kiện đất đai, đôi khi được thiết lập ngay tầng dưới của Khai Sơn Đường, những chùa không có Tọa Thiền Đường, có thể dùng Chánh Điện hay Khai Sơn Đường thay thế.

Lầu Chuông được thiết kế ở một góc vườn. Mỗi sáng tối thỉnh chuông nhứt định vào một thời điểm nào đó. Chùa nào không có lầu chuông, thường treo chuông bên ngoài cửa hay bên trong Chánh Điện.

Ngoài ra, trong vườn còn xây những nơi như: Đại Sư Đường, Trấn Thủ Đường, Đạo Hà Đường (nơi thờ Thần Lúa), Thần Xã, Sáng Khố v.v...

III.2.5 Công Việc Của Các Vị Tăng

Già Lam không phải chỉ thờ Phật, mà với người sống, nơi đây là những Đạo Tràng tu hành để thành Thánh, thành Phật. Già Lam của các chùa tu Thiền, như đề cập ở trên, được tổ chức theo thể thức sinh hoạt cộng đồng với mục đích tu hành. Riêng Thiền Tông, đặc biệt Tào Động Tông, có sự phối trí khác biệt. Chư Tăng ở chùa tu hành, tất cả nhất định phải phân công công việc để làm, không ai không làm việc, những công việc từ thời Lưỡng Tổ Đại Sư cho đến bây giờ vẫn thế. Được gọi là người tu, việc đầu tiên ở chùa, phải có khả năng làm việc hiệu quả. Không những chỉ riêng người tu ở chùa Tu Hành Tự, mà cho tất cả những tự viện lấy chùa Tu Hành Tự làm căn bản. Chư Tăng trong chùa phải làm việc được giải thích như sau:

Trụ Chức nghĩa là viết tắc của Chức Trụ Trì, người có trách nhiệm lớn lao đối với chùa. Với tư cách là “Tôn Giáo Pháp Nhơn” đại biểu cho chùa đó. Nếu chùa lớn, cũng còn xưng là Sơn Chủ thay cho Trụ Trì, đôi khi thay đổi gọi là Đường Đầu Hòa Thượng, mà thông thường gọi là Phương Trượng, Đường Đầu hoặc Hòa Thượng. Có nơi gọi vị Trụ Trì là Ojutsusan và Hòa Thượng là Ossan.

Quản Thủ là Chức Vụ của hai đại Bổn Sơn, cũng còn gọi là Quản Thủ Đại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự và Quản Thủ Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự. Ở hai Đại Bổn Sơn còn có vị Phó Quản Thủ, vị thứ hai sau Quản Thủ nữa.

Tây Đường là nơi ở của những vị Cao Đức do vị Trụ Trì cung thỉnh đến để chỉ đạo các Phật sự, bình thường vị Tăng nầy đứng sau vị Trụ Chức.

Giám Viện nghĩa là người thay thế vị Trụ Trì, làm Tổng Quản quán sát tất cả những công việc và mọi vấn đề hành chánh của chùa. Trước đây, vị nầy đứng đầu trong bảng Lục Hòa, mà có nơi gọi là Giám Tự. Ngoài ra còn có Phó Giám Viện thay thế việc điều hành mỗi khi vị Giám Viện vắng mặt .

Hậu Đường là chỗ hành trì của vị Tăng trực tiếp chỉ đạo.

Đơn Đầu là ngôi vị thứ hai của vị Tăng ở Hậu Đường đang hành trì và trực tiếp chỉ đạo.

Phó Tự là vị Tăng lo việc chi tiêu của chùa, lo trọn một trong 6 phép hòa kính.

Tri Khố là vị Tăng lo quản lý thức ăn, tiền bạc và giúp đỡ cho vị phó Trụ Trì.

Duy Na là người giúp đỡ cho vị Hậu Đường và Đơn Đầu, chỉ đạo và hướng dẫn chư Tăng tu hành, quản lý Tăng Đường, tụng khai Kinh và hồi hướng mỗi thời tụng Kinh, giữ vững kỷ cương một trong 6 phép hòa kính, tuy nhiên, có chùa xem đây là việc của vị Giám Tự.

Duyệt Chúng là vị giúp đỡ cho Duy Na, phần vụ thủ mõ.

Đường Hành cũng là nhiệm vụ của Duy Na và Duyệt Chúng, phải gõ khánh, tụng khai Kinh và hồi hướng trong mỗi thời công phu tụng Kinh.

Điển Tọa là vị Tăng lo việc ăn uống vâng giữ một trong 6 phép lục hòa.

Phó Điển còn gọi là Phạn Đầu, vị Tăng hổ trợ giúp việc cho Điển Tọa.

Trực Tế là vị Tăng chuyên lo việc chấp tác, trùng tu sửa chữa Già Lam, chữa đường sá, cũng là người vâng giữ một trong 6 phép lục hòa.

Tri Khách là vị Tăng lo việc tiếp đón khách.

Thị Chơn là vị Tăng chăm sóc chỗ thờ Tổ Khai Sơn.

Cúng Chơn là vị Tăng giúp đỡ Thị Chơn, cũng gọi là Truyền Cúng.
Tri Điện là vị Tăng quản lý Phật Điện và Pháp Đường. Người phụ tá gọi là Diện Hạnh.

Thượng Sự là vị Tăng lo việc thư ký, bảo quản văn thơ giấy tờ.

Tri Dục cũng còn gọi là Dục Chủ, vị Tăng quản lý nhà tắm.

Thị Cục Trưởng là vị Tăng thân cận, chăm lo và giúp đỡ vị Trụ Trì. Ở hai Đại Bổn Sơn những vị nầy hổ trợ vị Quản Thủ.

Thị Giả là vị Tăng thân cận hầu hạ vị Trụ Trì và Chư Tôn Đức đến thăm chùa. Có 5 loại Thị Giả chánh thức như:

Thiêu Hương Thị Giả, là người có trách nhiệm lo việc hương đăng và dâng hương cho vị Trụ Trì, mỗi khi có lễ.

Thư Trạng Thị Giả là vị lo vấn đề thư từ cho vị Trụ Trì.
Thỉnh Khách Thị Giả là vị Tăng lo ứng đối tiếp đãi khách của vị Trụ Trì.

Y Bát Thị Giả là vị Tăng lo Pháp Y cho vị Trụ Trì.

Thang Dược Thị Giả là vị Tăng lo thức ăn và thuốc men cho vị Trụ Trì.

Thông thường chỉ hai hay ba vị kiêm nhiệm luôn.

Thị Thánh nghĩa là Thị Giả của chư Thánh Tăng thờ tại Tăng Đường (như Ngài Văn Thù Bồ Tát), lo việc cúng dường nước hoặc trà nóng lên Bồ Tát.
Giảng Sư nghĩa là vị Thầy thường giảng nghĩa và thuyết pháp cho Chư Tăng và Tín Đồ.

Tạng Chủ tức là vị quản lý tạng Kinh và điện thờ có nhiều bảo vật.

Tịnh Đầu là vị Tăng quản lý Đông Ty (nhà xí).

Tấu Giả là vị Tăng có trách nhiệm thông tin cho khách hoặc những liêu xá, khi có những việc cần thiết.

Thủ Tọa là địa vị cao nhất của chư Tăng, còn gọi là Thượng Tọa.

Thư Ký nguyên là chức vụ Thị Giả Thư Trạng, phụ trách những công việc phụ giúp vị Thủ Tọa liêu, thường ngồi ở vị trí thứ hai sau Thượng Tọa.

Biện Sự là vị Tăng còn trẻ luôn ở bên vị Thư Ký, Thủ Tọa, nơi liêu Thủ Tọa.

Hành Giả là vị Tăng còn đang tu học, gần gũi thân cận, làm các công việc.
Ngoài ra, ở Điện Đường, Điện Ty, Đường Ty, Phật Điện, Pháp Đường khi có lễ, vị thỉnh chuông gọi là Chung Ty, vị lo công việc trong Tăng Đường gọi là Trực Đường, vị lo việc dọn dẹp gọi là Thanh Tảo Đương Phiên v.v... nhiều lắm không thể ghi chi tiết ra đây hết. Vả lại, còn có khá nhiều công việc như xuất bản, bố giáo, và nhiều việc không cần có chức vụ ở Lưỡng Bổn Sơn nữa, song tùy theo tính chất quy mô hay đơn giản của chùa, tùy theo địa phương, tùy theo xã hội mà công việc có thể tùy nghi sửa đổi thêm hay bớt.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com