- Chương một: Tôn Giáo của Chúng Ta Tào Động Tông
- Chương hai: Tự Viện, Tăng Lữ, Nghi Lễ
- Chương ba: Tông Chỉ, Giáo Nghĩa và Thánh Điển
- Chương bốn: Sinh Hoạt Tín Ngưỡng Của Đàn Tín Đồ
- Chương năm: Di Tích Của Lưỡng Tổ Đại Sư
- Chương sáu: Tư Liệu Tham Khảo
- Chương bảy: Tiểu Sử Tác Giả Đông Long Chơn
- Chương cuối: Lời Cuối Sách
Nguyên tác: Azuma Ryushin (Đông Long Chơn) - Việt dịch: Thích Như Điển
Chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc và quý Phật Tử tại Mỹ Châu – Úc Châu ấn tống 2008
Sinh Hoạt Tín Ngưỡng Của Đàn Tín Đồ
V. Sinh Hoạt Tín Ngưỡng Của Đàn Tín Đồ
V.7 Sự Hiểu Biết Về Giới Danh
V.7.1 Giới Danh, Pháp Danh và Pháp Hiệu
Giới Danh nghĩa là tên của người Tín Đồ Phật Giáo, quy y Đức Thích Tôn, tôn kính chư vị Tổ Sư, học và thực hành đúng những lời Phật dạy trong đời sống hằng ngày. Sinh hoạt đứng đắn gọi là Giới. Ngoài tên của cha mẹ đặt là tục danh, còn có tên của Phật Giáo mà Giới Sư (vị Thầy cho thọ giới) đặt cho. Thông thường, tên được đặt sau khi người mất trong lúc đám ma là Giới Danh, vốn là tên khi còn sống để xác định rằng người ấy là một vị Tăng sĩ. Tên cha mẹ đặt cho, đối với người Tăng Sĩ cũng được giữ nguyên thành Giới Danh. Như trường hợp của tôi (tác giả) có Đạo hiệu là Thiên Lại (Tenrai = tiếng trời), Húy là Long Chơn (Ryushin). Chữ Húy nầy do Thọ Nghiệp Sư ban cho còn Đạo Hiệu là do Bổn Sư cho. Khi tôi (tác giả) viên tịch, trên tấm bia và bài vị, nếu thiết lập, chỉ ghi như sau: “Thiên Lại Long Chơn Đại Hòa Thượng”. Vả lại, tên của vị Tăng Sĩ chính là Giới Danh, cho nên không có sự thay đổi tên khi sanh tiền và lúc sau khi viên tịch.
Trường hợp của Đàn Tín Đồ cũng giống như vậy. Đàn Tín Đồ nếu tham gia vào lễ thọ giới trở thành người xuất gia sẽ được Giới Sư ban cho Giới Danh, không dùng tục danh nữa. Đến khi chết Giới Danh ấy được khắc ghi lên bia đá và bài vị. Trên bia đá, ta thấy Giới Danh được khắc chữ đỏ vì người lập bia có ý muốn cho người đời sau biết người ấy thọ nhận Giới Danh lúc còn sanh tiền, còn gọi là nghịch tu. Giới Danh tên gọi của Phật Giáo, giống như Thọ Tẩy Danh, tên Thánh của Thiên Chúa Giáo. Nếu không có Giới Danh không thành tựu, cho nên khi còn sống nên thọ giới để có Giới Danh (ghi chú của dịch giả: Đây để chỉ cho trường hợp của Nhật Bản. Còn các nước khác theo Phật Giáo không phải như vậy).
Pháp Danh, Pháp Hiệu đại khái có thể nói là giống Giới Danh. Ai có tên nầy chứng tỏ rằng đã quy y Phật Pháp. Tông Tào Động chỉ gọi Giới Danh, không gọi Pháp Danh hay Pháp Hiệu. Tông Thiên Thai, Tông Chơn Ngôn, Tông Tịnh Độ, Tông Thiền v.v... chỉ gọi là Giới Danh. Tông Tịnh Độ Chơn gọi Pháp Danh và Tông Nhật Liên gọi Pháp Hiệu. Tông Tào Động phân chia cách sử dụng Giới Danh và Pháp Danh được hiểu như sau:
Trường hợp người thọ giới khi còn sanh tiền gọi Giới Danh. Còn Tín Đồ không thọ giới không được gọi, nhưng khi chết trước lúc hỏa táng có thể cải đổi tên để thọ giới, có thể gọi là Pháp Danh
Giới Danh, Pháp Danh và Pháp Hiệu chỉ là tên gọi của những Tín Đồ Phật Giáo, mà đúng ra chẳng phải tên của đời nầy, cũng chẳng phải tên của đời kia, mà là phô diễn ý nghĩa tất cả đều bình đẳng, là đệ tử của Phật đang hiện hữu trong thế giới khổ đau phiền não. Nêu danh ấy chẳng qua làm sao để có một cái tên đầy đủ ý nghĩa tự giác khi đang sống trong thế giới nầy.
V.7.2 Chuẩn Mực Của Giới Danh
Giới Danh nói lên tính chất bình đẳng của đệ tử Phật, không phân biệt cao thấp, trên dưới khi được gọi bằng tên ấy. Dù cho có vô vàn khác biệt của chúng sanh sống trong đời nầy song trong thế giới chư Phật không có sự khác biệt nào cả. Do vậy trong đời sống, Giới Danh ấy đều bình đẳng như nhau. Nếu nói một cách khẳng định, Giới Danh đồng nhau.
Thật tế, trên nguyên tắc người có tín ngưỡng, người không có tín ngưỡng, người có nhơn cách, người không có nhơn cách, ai ai cũng đều cống hiến cho sự nghiệp của gia đình, xã hội, giáo đoàn, Chùa, Viện, Phật Giáo v.v... nhưng nếu chọn cho mình có một Giới Danh đẹp đẽ thì thích nghi hơn. Với ý nghĩa đó, Giới Danh căn cứ vào cá tánh của từng người nên có sai biệt. Nhưng khi đã chết mới được đặt tên trong lúc lễ tang, những người ấy đều cùng một Giới Danh, mà Giới Danh nầy nói lên sự hy vọng của người mất lúc sanh tiền, hoặc nguyện vọng, suy nghĩ, ý muốn của tang gia, những người liên hệ dành cho người quá cố. Do vậy, Tín Đồ Phật Giáo không phải là một đoàn thể chung chung, mà tùy duyên theo cá tính của từng cá nhân. Giới Danh được nhận sau khi chết xuất phát từ tâm đồng cảm với những người thân, trong tang quyến. Về phương diện lịch sử, có nhiều phê phán về Giới Danh như một sự tham vọng, nhưng Giới Danh được ghi vào sổ bộ trong chùa (Bồ Đề Tự) và sổ lưu niệm gia đình, trên mộ bia v.v.... mãi mãi lưu truyền cho hậu thế.
Cũng có người di chúc không muốn có Giới Danh, những Thầy Chủ Lễ phải tôn trọng di ngôn của người quá cố, chấp nhận di chúc và sử dụng tục danh trong lễ tống táng. Thật ra, không thể nói là tham vọng đối với vấn đề nầy, bởi vì về sau những người thân trong tang quyến gặp người khác hỏi về Giới Danh của người mất, không biết trả lời sao, nên mới có tha thiết yên cầu như thế.
Khi còn sanh tiền, có người tự đặt Giới Danh cho mình, không giống trường hợp người không cần Giới Danh. Những việc như thế cũng là một cách hành xử, nói lên quan điểm về nhơn sanh và kiến thức của mình, song mặt khác cho thấy rằng chẳng qua chỉ làm tăng thượng mạn mà thôi.
Hơn nữa, có người suy nghĩ rằng Giới Danh chẳng phải là việc ăn uống gì cho nên muốn đổi tên. Trên nguyên tắc điều nầy không được, song trường hợp ngoại lệ vẫn chấp nhận. Thật sự, nếu Giới Danh tạo tổn thương cho người mất, chỉ thêm khổ tâm, thế thì có lợi ích gì mà phải đặt Giới Danh, điều nầy chư Tăng phải hoàn toàn có trách nhiệm. Nhưng dẫu việc ấy xảy ra, phẩm cách và kiến thức của vị Tăng đâu phải vì thế mà trở thành thấp đi, cho nên Chư Tăng vẫn an nhiên đặt Giới Danh như thường.
Có vấn đề lớn là đặt dùm Giới Danh hoặc có những vị Tăng yêu cầu số tiền quá lớn khi đặt Giới Danh. Thật tế, không phải không có phiến diện về quan niệm xã hội, không phải không có những Tăng Sĩ không xem tư cách của mình là trọng, không phải không có những Tu Sĩ mang tiếng như vậy, không phải không có những Tăng Sĩ lợi dụng buồn khổ của người, hám lợi như ngạ quỷ, súc sanh làm những hành động chẳng bình thường chút nào cả. Vị Tăng nầy sửa đổi Giới Danh mà vị Tăng khác đã cho, tạo sự không hay đối với vị Tăng ấy, làm cho tang gia bối rối thêm, để rồi chấp nhận điều kiện có thể để cho tang lễ được an ổn.
Thành ra việc mong mỏi đặt cho Giới Danh ấy thành ra làm tiền, ngã giá chê bai mắc rẽ, quả là tâm hư dối, không thật lòng. Thật tế, trong cuộc sống cũng có nhiều người thích nổi danh, yêu cầu đặt cho Giới Danh với số tiền tốn kém trong khi làm đám, rõ ràng vấn đề nầy xem như cá biệt, mà nội dung có khác, không nên phê phán làm gì. Tuy nhiên, không phải không có những vị Thầy đi đám tang để lấy tịnh tài cúng dường Tam Bảo, điều hành Phật sự, duy trì giáo đoàn v.v...Vả lại, dù cho đòi hỏi của tang gia một số tiền nào đó để cúng dường Giáo Đoàn hoặc đóng góp vào những lãnh vực khác, cũng tùy theo hoàn cảnh từng chùa, đại loại là theo khả năng, hoàn cảnh, phương tiện chứ hoàn toàn không có ép buộc, tất cả không giống nhau.
Nói chung, tiền cúng dường cho việc đặt Giới Danh nhiều ít không lệ thuộc vào quyết định chủng loại, chuẩn mực của Giới Danh .
V.7.3 Sự Cấu Tạo Của Giới Danh Và Chủng Loại
Giới Danh gồm có:
Viện Hiệu, Viện Điện (tên chùa Viện),
Đạo Hiệu Giới Danh,
Tánh phái – chức danh (Vị Hiệu) nên gọi là chức vụ.
Hầu hết dùng Đạo Hiệu Giới Danh, Tánh phái. Còn Viện Hiệu(Viện Điện), Đạo hiệu Giới Danh, Tánh phái cho vào đó hai chữ như nguyên tắc, ví dụ:
Vịnh Tùng Viện Hạc Phùng Tiên Thọ Cư Sĩ
(Viện hiệu) (Đạo hiệu) (Giới danh) (Vị hiệu)
Hoặc
Phước Tụ Viện Từ Hải Diệu Hàng Đại Tỉ
(Viện hiệu) (Đạo hiệu) (Giới danh) (Vị hiệu)
Viện Điện Hiệu, Viện Hiệu cùng gọi chung là Viện Hiệu. Khi Thiên Hoàng nhường ngôi lui về sống ở cung điện khác và băng hà, gọi là Thuần Hòa Viện. Chữ Viện bắt đầu dùng lúc ấy. Hơn nữa chữ Viện Điện kể từ khi Túc Lợi Tôn Thị trở đi mới thêm vào chữ Điện cho nhà họ Võ để phân biệt với Thiên Hoàng. Hơn nữa, Viện Hiệu hay Viện Điện Hiệu là cách đặt tên theo niềm tin Phật Giáo, giống như kiến tạo một ngôi chùa, biểu hiện cho một sự tồn tại trong đời, nên được duy trì.
Viện Điện Đại Cư Sĩ là Giới danh cao nhất, mà ngày xưa gọi là Đại Danh Phiên Chủ hay Phu Nhơn, Đại Thần, Tri Sự v.v... Ngày nay theo tiêu chuẩn nầy, tùy theo sự cống hiến và niềm tin của Tín Đồ đối với Phật Giáo, Giáo Đoàn, Bồ Đề Tự thế giới, quốc gia, địa vực xã hội v.v... mà được biệt lệ. Thật ra, có rất ít những người được như thế, nếu không nói là rất hiếm. Viện Điện Hiệu Cư Sĩ (Đại Tỉ) là cách đặt Giới Danh nói lên công đức, địa vị mà Viện Điện Hiệu ấy đã, tùy theo xã hội, đoàn thể, Giáo Đoàn, của ngôi chùa ấy v.v...
• Đạo Hiệu và Giới Danh
Đạo Hiệu biểu hiện đức độ của vị ấy. Giới Danh là tên của người khi thọ giới. Giới Danh của Tông Tào Động có một sự chọn lựa chữ thật là chín chắn, như: Vịnh Tùng Viện, Hạc Phùng Tiên Thọ Cư Sĩ như ta đã thấy, trường hợp như thế rất phổ thông. Bốn chữ Đạo Hiệu và Giới Danh đặc biệt có liên hệ với Kinh Điển, Tổ Duyên, do tham cứu thơ văn bằng chữ Hán mà có những chữ như thế để tương xứng khi không cần dùng tục danh nữa.
• Đại Cư Sĩ (Đại Tỉ) hay Cư Sĩ (Đại Tỉ)
Đại Cư Sĩ (Đại Tỉ) dành riêng cho Viện Điện Hiệu. Còn Cư Sĩ (Đại Tỉ) dành cho Viện Hiệu và Vị hiệu. Cư Sĩ, Đại Tỉ là những tín đồ tại gia, nhiệt tâm tham thiền. Tín Đồ cũng có thể tự xưng là Cư Sĩ hay Đại Tỉ.
• Tín Sĩ, Tín Nữ
Đây là cách gọi chung chung cho các Đàn Tín Đồ theo Vị Hiệu, cao nhất là Viện Điện Hiệu và Viện Hiệu. Thông thường, họ là những người không có chức phận, những tín đồ bình thường nghe và thọ nhận lời dạy, gần gũi Chư Tăng, gọi là Tín Sĩ, Tín Nữ.
• Đồng Tử, Đồng Nữ
Đa số tuổi lên 4, lên 5 hoặc giả chết từ 7 tuổi trở xuống, chưa tới 15 tuổi, gọi những đứa trẻ ấy theo Vị Hiệu là Đồng Tử, Đồng Nữ.
• Hài Nhi (Hài Nữ)
Anh nhi từ lúc mới sanh cho đến 2, 3 tuổi, những trẻ “ấu nhi” được đặt theo Vị hiệu là Hài Nhi hay Hài Nữ.
• Thủy Tử
Những thai nhi chết khi sanh ra được đặt theo Vị Hiệu. Nói chung, Hài nhi, Anh nhi, Thủy Tử thường chỉ đặt Giới Danh và Vị Hiệu.
• Thiền Định Môn (Thiền Định Ni)
Ni cũng có Vị hiệu, đặc biệt lúc sanh tiền chuyên tâm thiền định, thuần tín Tam Bảo, thân cận thiện hữu. Thiền Định Môn và Ni được gọi không phải chỉ cho người xuất gia làm Tăng lữ (Ni Tăng).
Vả lại, theo Pháp Danh của Tịnh Độ Chơn Tông, phải bắt buộc, nếu nói không quá đáng, chữ đầu dùng chữ Thích. Ngắn cho vào chữ Dự, để so sánh với Giới Danh dài hơn. Còn Tông Nhật Liên cho vào đó chữ Diệu. Tùy theo Tông Phái, có sự phân biệt Giới Danh khác nhau như thế.