Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

6. Đám Tang

12/04/201107:13(Xem: 7386)
6. Đám Tang

THIỀN TÀO ĐỘNG NHẬT BẢN
Nguyên tác: Azuma Ryushin (Đông Long Chơn) - Việt dịch: Thích Như Điển
Chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc và quý Phật Tử tại Mỹ Châu – Úc Châu ấn tống 2008

Chương bốn:
Sinh Hoạt Tín Ngưỡng Của Đàn Tín Đồ

V. Sinh Hoạt Tín Ngưỡng Của Đàn Tín Đồ

V.6 Đám Tang

V.6.1 Tại Sao Làm Lễ Đám Tang?

Đức Thích Tôn, Khai Tổ của Phật Giáo vì mọi người mà hoằng dương Chánh Pháp. Không biết Ngài có dạy cho đệ tử xuất gia và Tín Đồ nghi thức tang lễ chăng, thật sự không thấy, nhưng sau khi Đức Phật nhập diệt, những vị đệ tử Ngài và Tín Đồ cử hành lễ Trà Tỳ và tống táng vô cùng bi thảm với đất trời buồn thương. Xá Lợi Ngài được chia ra khắp nơi để cử hành nghi thức tang lễ. Cuộc đời Thiền Sư Đạo Nguyên dường như không cử hành tang lễ nào cho người chết, nhưng sau khi thị tịch, môn hạ cử hành tang lễ vô cùng long trọng đầy đủ các nghi thức tống táng, vì họ vô cùng kính tiếc Ngài

Phật Giáo Nhật Bản được gọi là Phật Giáo tang lễ (Phật Giáo làm đám ma), bởi vì hầu hết chư Tăng các chùa đều rành tang sự, trong khi đó những vị khai sáng dường như hoàn toàn không biết việc nầy. Thật ra, những người kinh doanh bất hảo, những vị Tăng thiếu lý tưởng đã cử hành những tang sự không bình thường chỉ chú trọng vấn đề kinh tế, tụng đọc thật dài nhưng chẳng hiểu nghĩa kinh, chỉ mong gia đình cúng dường hậu hỉ, làm cho tang gia mõi mệt, mất cả niềm tin, mất thời gian người đi đưa đám, chẳng có ý nghĩa gì cả. Có hai điều bất lợi khi cử hành tang lễ rườm rà, thứ nhất, nghi lễ tống táng có rườm rà bao nhiêu đi nữa, đối với hương linh người chết cũng chẳng đi tới đâu, thứ hai, nghi thức như thế chỉ tạo cho người đời nhận thức nghi lễ tang sự một cách sai lạc, dẫn đến trường hợp cử hành lễ tang cho người còn đang sống một cách sờ sờ..

Trước thật tế đó, chỉ có hai điều cần phải lưu tâm, trước nhất đối với Tăng lữ phải sớm nhận thức và điều chỉnh lại nghi thức đám ma tùy từng nơi, thứ hai đừng để người đời đàm tiếu về đám tang hay làm đám tang trước khi chết, chẳng phải là hợp lý tí nào cả, bởi vì hoặc là quá thiên trọng về thân xác nầy của mình hoặc là lệ thuộc và chạy theo tiếng thị phi ở đời?

Tin tưởng tâm linh, phụng thờ Tổ Tiên đã có trong người Nhật từ xa xưa, khi Phật Giáo đến Nhật Bản, dung hòa và phát triển thêm. Dù các chùa ở Nara chẳng có nghi thức tang lễ, không có nghĩa trang, nhưng đó là trường hợp ngoại lệ, đừng cho rằng Phật Giáo Nhật Bản tách rời vấn đề tang lễ.
Tại sao phải cử hành nghi thức tang lễ?

Rõ ràng là để cầu nguyện hương linh người quá vãng siêu thoát cõi u đồ, xoa dịu, an ủi, vỗ về nỗi đau của gia đình, nỗi đau như dao cắt của những người thân, giúp cho tinh thần của người ở lại đủ nghị lực để sống và làm việc. Khác với những sinh vật như chó mèo v.v...con người phải nhiều ưu việt, có tình cảm, có hiểu biết và luôn luôn tôn trọng và kính ngưỡng người thân. Do những lý do ấy, Tăng lữ và Tín Đồ cố gắng tổ chức Tang Lễ. Nếu không phải như vậy, dù tổ chức tang lễ linh đình đến bao nhiêu đi nữa, cũng chỉ là câu chuyện qua đường mà thôi.

V.6.2 Đám Ma Theo Tào Động Tông

Nghi thức tống táng của Tông Tào Động có hai loại, đó là: nghi thức tang lễ cho Chư Tăng và nghi thức tang lễ cho Đàn Tín Đồ.

Nghi thức tang lễ cho Đàn Tín Đồ do Tăng lữ thực hiện đơn giản với chi tiết tuần tự như sau:
• Chẩm Kinh (nghĩa là tụng Kinh lúc vừa mới mất).
• Thông Dạ (nghĩa là tụng Kinh qua đêm).
• Nghi Thức Tống Táng.
• Thu Cốt (gọi là nghi lễ an vị).

Nói chung, nghi thức tống táng là một trong những Pháp sự cần thiết, xin ghi lại chi tiết rõ ràng, để biết một cách cụ thể và tổng quát. Nhưng gần đây có nhiều tác phẩm nhiều loại khác nhau như: nhập môn, tự điển biên soạn, phân tích, giải thích rành mạch tất cả những Pháp sự thuộc nghi thức tống táng từ lúc lâm chung cho đến khi viên mãn, được bày bán đầy dẫy trên các kệ sách của những quầy sách, tiệm sách. Ai muốn nghiên cứu tường tận, xin đọc số sách ấy cho biết, hoặc loại đơn giản; hoặc loại ghi rõ từng chi tiết đều có. Trong đó sẽ được giải thích những điểm quan trọng rõ ràng hơn. Sâu sắc hơn ở trong đó đứng từ lập trường chuyên môn có thể thấy rõ chỗ sai trái, ngộ giải. Dẫu sao cũng nên đọc, cả lễ tống táng và pháp sự, thì sẽ thực hiện được một cách đứng đắn hoàn toàn. Sẽ được tuần tự giải thích một cách tỉ mỉ. Đồng thời đối với phương diện ấy ở đây cũng sẽ cố gắng giải thích những điểm chính so với những sách giải thích chi tiết kia. Ở đây sẽ giải thích về nội dung cùng ý nghĩa có tính cách căn bản về nghi lễ tống táng của Đàn Tín Đồ thuộc Tào Động Tông mà thôi.

V.6.2.1 Chẩm Kinh

Tụng Kinh lúc lâm chung. Vị Tăng đứng trên phía đầu của người mất đọc một biến Kinh “Phật Di Giáo”, ba biến “Xá Lợi Văn”, và Văn Hồi Hướng. Ngày xưa tụng Kinh “Thông Dạ” tụng suốt đêm, bây giờ ngay cả “Chẩm Kinh” cũng còn tụng lược, như “Phật Di Giáo Kinh” bản kinh Đức Thích Tôn thuyết khi lâm chung, gọi là lời giảng dạy cuối cùng. Thiền Sư Đạo Nguyên trích dẫn trong phần “Chánh Pháp Nhãn Tạng” và “Bát Đại Nhơn Giác”.

V.6.2.2 Thông Dạ

Kinh tụng suốt đêm, vị Tăng đối trước quan tài đọc “Tu Chứng Nghĩa”, “Xá Lợi Lễ Văn” hay những Kinh khác, rồi xướng Văn Hồi Hướng. Vị Tăng ấy đặt cho người mất một Giới Danh viết lên trên bài vị, bằng gỗ trắng, để giữa quan tài. Về giới danh nầy sẽ giải thích phía sau. Sở dĩ gọi là Thông Dạ vì ngày xưa tụng Kinh suốt đêm. Còn bây giờ tục lệ nầy hầu như bị chìm trong quên lãng. Thật sự trước sự ra đi vĩnh biệt đầy buồn thương ấy, việc tưởng niệm là cần thiết, nên an ủi gia đình người mất trong lúc nầy tốt hơn.

V.6.2.3 Nghi Tống Táng

Thế phát và thọ giới được cử hành trước khi di thể nhập quan, bởi vì lúc sanh tiền người mất sống hình thức tại gia, bây giờ mới xuất gia, phải cạo tóc. Việc nầy còn mang một ý nghĩa là cạo bỏ những phiền não và thọ giới làm đệ tử Phật, phát nguyện sống đời phạm hạnh. Thật sự, người nầy khi còn sống chỉ xuất gia trên nguyên tắc thôi, thực tế chưa cạo tóc và chưa thọ giới, bây giờ chết rồi, mới có thể cử hành nghi thức nầy chung một lần với tang lễ, trước tiên là cạo tóc. Vị Thầy Chủ Lễ đọc bài kệ như sau:

“Lưu chuyển trong ba cõi,
Ân ái chưa đoạn lìa.
Nay xả thân, tịch diệt.
Thật sự báo ân xưa”
Hoặc
“Cạo bỏ râu tóc,
cầu cho chúng sanh,
xa lìa phiền não,
cứu cách tịch diệt“
Đọc ba lần, rồi lấy dao cạo tóc người mất, hoặc cạo sạch hoặc chỉ cạo một phần, hoặc chỉ làm động tác cạo mà thôi.
Tiếp theo là thọ giới, Thầy Chủ Lễ xướng lên
“Đệ tử vốn tạo các ác nghiệp,
Đều do vô thỉ tham, sân, si.
Từ thân, miệng, ý phát sanh ra,
Tất cả hôm nay xin sám hối.”

Chư Tăng thay thế cho người mất hòa theo. Sau đó trao Tam Quy, Tam Tụ Tịnh Giới và 10 Giới Trọng trong 16 điều giới cấm. Tiếp theo đọc văn huyết mạch về huyết mạch thọ tả (nghĩa là thuộc giòng hệ nào chẳng hạn), rồi hướng về bàn thờ Hương Linh đọc:

“Chúng sanh thọ Phật giới,
Được vào địa vị Phật.
Đồng với bậc Đại Giác
Trở thành đệ tử Phật.
Nam Mô Đại Từ Bi
Xót thương và gia hộ”.
Tụng Kinh Nhập Liệm.

Sau khi thế phát, thọ giới xong đưa di thể nhập quan, tụng chú Đại Bi Tâm Đà La Ni, rồi Hồi Hướng.
Đại Dạ niệm tụng, kham tiền niệm tụng.
Đại dạ thật ra viết đúng là Đãi Dạ, gọi là đêm chờ đợi hỏa táng di thể người mất. Chư Tăng luân phiên niệm Phật để hộ niệm cho người mất nhận ra con đường vãng sanh và cầu nguyện hương linh được siêu thoát. Chư Tăng còn niệm mười danh hiệu Phật như:
Thanh tịnh pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật,
Viên mãn báo thân Lô Xá Na Phật,
Thiên bách ức hóa thân Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật,
Thập phương Tam Thế nhứt thiết Chư Phật,
Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh,
Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát,
Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát,
Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát,
Chư Tôn Bồ Tát Ma Ha Tát,
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật.
Sau đó đọc ba biến “Xá Lợi Lễ Văn“, tụng Hồi Hướng.

Cử Kham niệm tụng:
Cử Kham, nghĩa là đem áo quan vào nơi làm lễ như chỗ để áo quan tại chùa, tại nhà, hay tại nghĩa địa) cũng có nghĩa là di chuyển quan tài. Chư Tăng tiếp tục niệm Phật, tụng kinh cầu siêu hương linh, tụng “Đại Bi Tâm Đà La Ni” đánh trống, đánh phèn la 3 tiếng.

Tiếp theo, Chư Tăng và người thân đứng hai bên cổ quan tụng Kinh “Đại Bảo Lầu Các Thiện Trụ Bí Mật Căn Bản Đà La Ni”. Áo quan được di chuyển đi vòng 3 lần qua bên mặt rồi an vị lại chỗ cũ. Tụng chú “Đại Bảo Lầu Các Thiện Trụ Bí Mật Căn Bản Đà La Ni“ để cầu gia bị cho hương linh thoát khỏi những thế giới khổ đau, bước chân lên con đường thanh tịnh, tạo công đức thiện nghiệp. Di chuyển quan tài ba lần về phía bên phải là Hữu nhiễu Tam Cân (đi nhiễu bên phải ba vòng) học theo cách đi nhiễu của người Ấn Độ để biểu lộ ý nghĩa cung kính.

Bây giờ nghi thức nầy không còn làm riêng tại nơi quàn quan tài nữa, chỉ cử hành một lần tại nhà người mất thôi, bởi vì phải tùy thuận vào hoàn cảnh cá biệt khác nhau.
Nhập Kham Phúng Kinh.

Những nghi thức như: Đại (Đãi) Dạ Niệm Tụng. Cử Kham Niệm Tụng gọi là Nội Phúng Tụng, mà Nội Phúng Tụng nguyên gốc là những nghi thức cử hành trong giai đoạn đầu của việc tống táng cho đến Thông Dạ (Đãi Dạ Phúng Kinh). Có khi tụng Kinh Thông Dạ chung cũng tốt thôi. Nếu người mất chưa thọ giới, vị Thầy Chủ Lễ cử hành việc thọ giới trước.

Dẫn Đạo Pháp Ngữ:
Vị Thầy Chủ Lễ đến trước quan tài (có 2 loại là hỏa táng hoặc thổ táng), đốt hương, chuyền hương từ tay trái sang tay phải, rồi chuyển ngược lại từ tay phải sang tay trái, đưa lên trên trời vẽ một vòng tròn, rồi tuyên pháp ngữ. Như người dẫn đường cho hương linh đi vào thế giới giác ngộ của chư Phật, trước tiên vị Thầy Chủ Lễ giảng về ý nghĩa Pháp vô thường căn bản trong đạo Phật, tán dương công đức của người mất, cầu nguyện hương linh nương nhờ phước đức thoát khỏi u minh, mà đối với Thiền Tông, đây là trọng tâm của việc làm lễ chôn cất.
Điếu từ, Điện chia buồn:
Điếu từ, điện chia buồn v.v... nội dung của những văn điếu cho người mất, những điếu từ, những điện văn là chia buồn cùng gia đình và tán dương sự nghiệp của hương linh lúc sanh tiền.

Sơn Đầu Niệm Tụng
Sơn Đầu có nghĩa là nhà chùa. Nếu việc Nội Phúng Kinh được cử hành tại nơi tổ chức tang lễ thì Dẫn Đạo Pháp Ngữ và Sơn Đầu Niệm Tụng cử hành tại chùa. Sơn Đầu Niệm Tụng nghĩa là cắt tóc, thọ giới và ghi danh vào hệ thống hệ phái cho người mất. Thông thường vị Thầy Chủ Lễ trình bày và giảng nghĩa cho biết là đã trở thành đệ tử Phật, khi Ngài dẫn đạo pháp ngữ và những người đệ tử mới nầy của Đức Phật sẽ giác ngộ, trở thành bông hoa đẹp trong vườn hoa ấy, và trở về với biển thanh tịnh, sống đời an lạc.
Tiếp theo cúng trà và đốt nhang, tiễn đưa hương linh về thế giới an lành. Đây chính là ý nghĩa của việc niệm tụng Kinh văn.
Tụng Kinh xong, xướng 10 danh hiệu Phật hoặc đọc “Tu Chứng Nghĩa” và phẩm “Phổ Môn Quan Âm”, lúc nầy tang quyến và những người đi đám lần lượt lên thắp hương và chia buồn. Thắp hương xong, tụng Hồi Hướng.

An Vị Phúng Kinh:
Sau khi cử hành lễ tống táng, linh vị người mất sẽ được an vị ở nhà hoặc ở chù, Thầy Chủ Lễ tụng chú Đại Bi Tâm Đà La Ni để cầu nguyện hương linh tiêu diêu Tịnh Độ rồi tụng văn Hồi Hướng.

III.2 Thất Đường Già Lam

III.2.1 Sự Thay Đổi Kiến Trúc Của Tự Viện

Già Lam, nguyên ngữ bằng tiếng Sanscrit cổ, Ấn Độ là Shangarama, còn gọi là Tinh Xá, Chùa, Tự Viện. Kiến trúc Tự Viện Nhật Bản ảnh hưởng trực tiếp từ bán đảo Triều Tiên, gián tiếp từ Trung Hoa. Từ thời Bình An (Heian), mỹ thuật kiến trúc Nhật Bản mô phỏng theo hai dạng mỹ thuật kiến trúc Triều Tiên có từ thời Phi Điểu, và mỹ thuật Trung Hoa từ thời nhà Đường. Đến thời Kamakura, lối kiến trúc đó bị loại bỏ đi thay bằng lối kiến trúc thời Tống (Trung Hoa) hòa với lối kiến trúc thời Thất Đinh. Đến thời Đào Sơn mỹ thuật kiến trúc trở nên đẹp vô cùng, tạo nên phong cách mỹ thuật đặc biệt của thời đại nầy. Còn thời đại Giang Hộ (Edo), lại theo phong cách đơn giản, hiện đại và độc lập, theo lối phong cách Âu Châu.

Kiến trúc Chùa, đặc biệt vào thời Kamakura thể hiện trọn vẹn phong cách Thiền ảnh hưởng mô thức Trung Hoa thời Đường, còn gọi là phong cách Thiền Tông, có nhiều điểm giống Lâm Tế Tông, Hoàng Bích Tông, Tào Động Tông, hẳn nhiên cũng không thiếu nhiều điểm khác biệt đặc thù.

III.2.2 Già Lam Của Tào Động Tông Là Nơi Chính Để Tu Hành

Thiền Sư Đạo Nguyên phối hợp những phiên bản Tự Viện Trung Quốc và Ấn Độ, suy nghĩ kiến tạo đạo tràng trang nghiêm của Tông Tào Động. Chùa Vĩnh Bình kiến tạo mô phỏng theo Chùa Thiên Đồng Sơn Cảnh Đức ở tỉnh Chiết Giang, Trung Hoa (bây giờ gọi là Thiên Đồng Tự). Tông Tào Động vẫn sử dụng từ “Thất Đường Già Lam“ có lẽ từ thời Giang Hộ (Edo), không có căn cứ nào chỉ cho nguyên thỉ của chữ nầy. Song cũng có thuyết cho rằng Tông Tào Động gọi là Thất Đường Già Lam cho những ngôi Chùa đầy đủ 7 gian như: Sơn Môn, Phật Điện, Pháp Đường, Khố Viện, Tăng Đường, Dục Thất và Đông Ty. Ngoài ra, Chùa còn có tháp 3 tầng, tháp 5 tầng hay Đa Bảo Tháp, Xá Lợi Tháp v.v... những tháp nầy không gồm chung trong Thất Đường Già Lam. Chùa Thiền hay đặc biệt là Chùa của Tào Động Tông không có Tháp, nếu có, tháp được xây sau hoặc là xây với lý do nào đó, còn Chùa thuộc Tông Pháp Tướng và Tông Chơn Ngôn có xây tháp.

Hình thức Thất Đường Già Lam của Tông Tào Động theo thứ tự từ bên ngoài đi vào là: Sơn Môn, Phật Điện, Pháp Đường, bên mặt là Khố Viện, trước có Dục Thất (phòng tắm rửa), bên trái là Tăng Đường, trước có Đông Ty (nhà vệ sinh). Tất cả đều có hành lang bao bọc xung quanh trở thành một hình vuông vức. Ngoài Thất Đường còn có những tòa nhà liên quan được xây dựng thêm. Càng về sau, ở những ngôi chùa nhỏ Thất Đường đơn giản chỉ còn Bổn Đường (Chánh Điện), Khố Lý (nhà kho), Khai Sơn Đường (Chỗ Thờ Tổ), Vị Bia Đường (nơi thờ vong). Cũng có nhiều hình thức biến dạng khác như thêm lầu chuông hay cổng tam quan, song chỉ là những trường hợp riêng biệt mà thôi. Nói chung các chùa đều giống nhau như thế, bởi trước nhất phải hợp với khả năng cho nên phải đơn giản, sẽ giải thích rõ về Thất Đường Già Lam dưới đây.

III.2.3 Sơ Lược Về Thất Đường Già Lam

Sơn Môn vừa chỉ cho cổng chính vào Chùa, vừa chỉ cho thế giới thanh tịnh, không có phiền não khổ đau. Cổng chùa thường có ba cửa, cửa lớn ở chính giữa, hai cửa nhỏ ở hai bên, còn gọi là Cổng Tam Quan, cũng gọi là Tam Môn. Ngoài ra, còn có những tên khác là: Quán Mộc Môn, Dược Y Môn, Anh Môn, Nhị Trọng Môn v.v... Tông Tào Động thường dùng Anh Môn và Nhị Trọng Môn. Ở phần hai bên trước cổng, thường an trí các vị Nhơn Vương. Trên Anh Môn (lầu) thường đặt tượng Phật, Bồ Tát hay các vị La Hán. Trên cao, treo một Phạn Chung (Đại Hồng Chung). Nếu chùa lớn, ngoài Sơn Môn còn có Tổng Môn (chỉ có một cửa ra vào), Tam Tùy Quan, Đống Môn, Dược Y Môn và Sắc Sứ Môn còn gọi là Hương Đường Môn.

Điện Phật còn gọi là Đại Hùng Phong Điện, Đại Hùng Điện, Đại Điện v.v... tọa lạc ngay chính giữa, trong đó có Tu Di Đàn thờ Đức Bổn Tôn Thích Ca Mâu Ni ngay trung tâm, hai bên trái phải của Phật, mỗi bên an trí một tượng Bồ Tát. Đa phần, thờ Đức Phật Thích Ca ở giữa (vị khai Tổ của Phật Giáo). Tôn Giả Ca Diếp trưởng tử Phật, Sơ Tổ Thiền Tông. Tôn Giả A Nan đệ tử thị giả của Đức Phật Thích Ca, vị Tổ Sư thứ hai, thị giả hầu Phật được nghe nhiều lời giảng nhất. Ngoài ra, còn thờ Tam Tôn Phật: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (biểu hiện Đức Phật trong hiện tại), Đức A Di Đà Như Lai (biểu hiện Đức Phật trong quá khứ). Đức Di Lặc Như Lai (biểu hiện Đức Phật trong tương lai). Tam Tôn Phật cũng còn được hiểu là: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Bồ Tát Văn Thù (biểu trưng cho trí tuệ Phật) và Bồ Tát Phổ Hiền (biểu trưng hạnh nguyện Phật). Phía đông của Phật Điện (từ ngoài nhìn vào phía bên mặt) thờ Đàn Thổ Địa hay thờ Bồ Tát Chiêu Bảo Thất Lang Đại Quyền Tu Lý. Phía Tây (phía trái từ ngoài nhìn vào) là Tổ Sư Đàn, thờ Sơ Tổ Đạt Ma. Thông thường bàn thờ làm bằng gạch hay đá, có chỗ để bày dâng lễ cúng. Đặc biệt, phần nghi lễ được tổ chức tại Phật Điện.

Pháp Đường là nơi vị Trụ Trì thuyết Pháp cho Tăng sĩ đang tu tập. Khi thuyết Pháp vị Trụ Trì được cung kính như đại diện chư Phật, chư vị Tổ Sư có trách nhiệm truyền trao giáo Pháp cho thính chúng, cho nên trong Pháp Đường không thiết tượng Phật nào cả. Tại Đại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự, có đặt tượng Đức Quan Thế Âm Bồ Tát biểu trưng tâm từ bi bao la của Phật, một lý do khác, như đã trình bày ở trước, ở Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự, Tổ Đường chính là Pháp Đường, nơi đó là Đại Tổ Đường được xem là một Đạo Tràng thuyết pháp của Tổ khai sơn Thiền Sư Oánh Sơn. Giữa Tổ Đường là Pháp Đường cũng còn có ý nghĩa là tôn trọng giữ gìn lời giáo huấn của Tổ. Tại Đại Tổ Đường nầy, đàn trên cao ở chính giữa, thờ tượng Tổ khai sơn Thiền Sư Oánh Sơn, hai bên trái phải thờ Thiền Sư Đạo Nguyên, Cao Tổ và thờ Thiền Sư Nga Sơn Chiêu Thạc, vị Tổ thứ hai của Tổng Trì Tự. Ngoài ra, các tượng của chư vị Tổ Sư cũng được thờ tại đây. Tại Pháp Đường thường có những thời Kinh sáng, trưa, tối và hầu như tất cả nghi lễ quan trọng đều cử hành tại đây.

Khố Viện hay Khố Lý thờ tượng Vi Đà Thiên và tượng Đại Hắc Thiên còn gọi là Đài Hương Tích, vừa là nơi chứa thực phẩm cho chư Tăng thường trụ và khách Tăng, vừa là nơi thâu nhận thực phẩm cúng dường, cũng là chỗ xay thóc.

Dục Thất, nhà tắm, có thờ tượng Tôn Giả Bạt Đà Bà La. Trong Chùa, Tăng Đường, Đông Ty và Dục Thất là ba nơi cần phải giữ thật trang nghiêm yên tĩnh, tuyệt đối cấm không được cười đùa, nói chuyện riêng tư, không được tạo ra âm thanh ồn ào. Ngay cả, tắm rửa kỳ cọ thân thể cho thanh tịnh cũng quan trọng như những việc tu hành khác.

Tăng Đường có nơi gọi là Vân Đường, cũng còn gọi là Tuyển Phật Trường, mà những chữ nầy được treo ngay ở chính giữa. Thông thường người ta còn gọi nơi nầy là Tọa Thiền Đường nhưng Tông Tào Động không gọi là Tọa Thiền Đường vì gọi như thế nghĩa là phân biệt chỗ hành thiền khác với nơi ăn uống. Tăng Đường là nơi mà chư Thánh Tăng và chư Bồ Tát thường lui tới, vốn gọi là Thánh Tăng Đường. Trong Thất Đường Già Lam của Tông Tào Động cũng có những nơi quan trọng biểu trưng hiện hữu của Thần Thánh, cũng có thể gọi là nhiệm mầu thiêng liêng, mà tuyệt đối không ai, cả người trong Chùa lẫn người ở ngoài tự ý vào được.

Đồng thời, Tăng Đường chia làm hai phần, bên ngoài là nơi dùng cơm, uống nước của chư Tăng, bên trong còn gọi là Nội Đường hay Đường Nội thờ chư vị Thánh Tăng như Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Quan Thế Âm, cũng có Chùa thờ Tôn Giả Kiều Trần Như, trên cái Trang ngay chính giữa. Bên dưới thiết kế những chỗ ngồi thiền, gọi là Trường Liên Sàng, là những cái đơn cao chừng một mét, rộng chừng một chiếc chiếu (Tatami), để ngồi Thiền mặt hướng vào tường hoặc cửa sổ.

Còn có những cái Đơn khác gọi là Hàm Quỹ, mặt bằng độ chừng 30 cm làm bằng gỗ, bên trong Hàm Quỹ (cái rương) đựng y áo và bình bát, phía dưới trải ra làm chỗ nghỉ, còn gọi là Tịnh Duyên, bởi vì chỗ nầy, vật nầy cũng dùng để làm nơi ăn uống. Tịnh Duyên có ý là ăn uống trong sạch thanh tịnh. Ngay cả ở bên ngoài cũng có kê những chiếc Đơn như thế.

Bên ngoài còn có những giá treo chuông gọi là Tăng Đường Chuông, Ngoại Đường Chuông và có cả Pháp Cổ (trống) cũng như những pháp cụ khác để báo hiệu khi cần thiết. Những việc như đọc sách, viết lách, cạo tóc, khâu vá v.v.., đều thực hiện trong liêu chúng. Mô hình liêu chúng là giữa liêu đặt tượng Bồ Tát Quan Thế Âm, hoặc tượng Hư Không Tạng Bồ Tát, chỉ có Hàm Quỹ (cái rương) và Tịnh Duyên (chỗ ăn) và liêu chúng gần Tăng Đường.
Đông Ty là Tiện Sở (cầu xí) cũng còn gọi là Tây Tịnh, nhưng chữ nầy bây giờ không còn dùng đến nữa, ở nơi nầy thường để tượng Điểu Sô Sa Ma Minh Vương.

III.2.4 Trường Hợp Những Tự Viện Thông Thường

Tóm lại, các vấn đề xây dựng như thế nào, ai xây, xây ở đâu, khi nào của các chùa thuộc Tông Tào Động lệ thuộc vào vấn đề xã hội địa phương và nguyện vọng của mọi người nữa. Thật ra, mỗi chùa có mỗi điều kiện, mỗi tính cách và mỗi mục đích khác nhau, không thể phán đoán chung chung được, tuy nhiên, có thể phân loại ra như sau:

Thứ nhất, Tu Hành Tự là tự viện như một đạo tràng dùng để tu tập và tọa thiền. Những tự viện nầy vốn có liên hệ với Tông Tào Động từ xưa, như Lưỡng Đại Bổn Sơn, mà dù cho chùa ấy có gì đặc biệt đi chăng nữa, thì vấn đề căn bản vẫn là chỗ để tu hành theo Tông Tào Động

Thứ hai, Bồ Đề Tự là tự viện để lễ bái và phụng thờ Ngài Hoằng Pháp Đại Sư, Ngài Quan Thế Âm, Thất Phước Thần, Linh Trường, thường thấy nơi các chùa thuộc Tông Pháp Tướng, Tông Hoa Nghiêm, Tông Thiên Thai, Tông Chơn Ngôn v.v... về sau dù đã đổi sang Tông Tào Động nhưng vẫn còn giữ tôn phong cũ.

Thứ ba, Kỳ Thọ Tự là chùa thờ Đức Quan Âm, Ngài Dược Sư, Ngài Địa Tạng, Ngài Bất Động, các vị Tổ Sư, Thần Lúa, Thiên Cẩu v.v... vì nhu cầu của mọi người đến tự viện lễ bái cầu nguyện.

Thứ tư, Quán Quan Tự là chùa lịch sử danh lam thắng cảnh, gần gũi mọi người và cảnh trí đẹp, được nhiều người tới lui vãn cảnh.

Tuy nhiên, trừ Lưỡng Đại Bổn Sơn và những tự viện lớn, còn các chùa thuộc Tông Tào Động về hình thức căn bản là những Già Lam theo mô hình: Sơn Môn, Bổn Đường, Khai Sơn Đường, Vị Bi Đường, Khố Lý, Chung Lầu, Tọa Thiền Đường v.v... mà chúng ta lần luợt tiếp xúc với những phần nầy.

Sơn Môn thờ tượng Nhân Vương, trên lầu cao thờ tượng Phật, Bồ Tát, nhưng cũng có nơi không có, bởi vì những chùa nhỏ nhiều khi không có Sơn Môn (cửa ra vào) nữa, đôi khi chỉ khắc tên chùa trên phiến đá thay cho cổng tam quan.

Bổn Đường cũng còn gọi là Phật Điện hay Pháp Đường, bên trong thờ Bổn Tôn, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, hoặc thờ Tam Tôn, song chính giữa vẫn là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Thế nhưng, tùy theo sự thành lập của tự viện, có những đặc thù riêng, không phải hoàn toàn giống nhau, có chùa thờ Đức A Di Đà Như Lai, Đại Nhật Như Lai, Dược Sư Như Lai v.v... có chùa thờ Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, Bất Động Minh Vương, Biện Tài Thiên và cũng còn nhiều tượng khác nữa. Tựu trung vẫn là hình tượng chư Phật và chư Bồ Tát mà ở đây có thể rõ thêm rằng đó là đặc trưng Phật tánh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni rộng lớn bao la như thế.

Trên bốn bức tường chung quanh Bổn Tôn trong Chánh Điện thường có 18 vị A La Hán. Hai bên tả hữu của Bổn Tôn thường thờ tượng Chiêu Bảo Thất Lang Đại Quyền Tu Lý Bồ Tát và tượng Đạt Ma Đại Sư. Sau Chánh Điện ngăn ra hai bên phải trái thờ linh vị của Tín Đồ Phật Tử.

Tại Bổn Đường (Chánh Điện) sáng, trưa, tối đều có tụng Kinh, nơi đây thường cử hành những nghi lễ cầu an, cầu siêu, thuyết pháp, lễ hằng thuận v.v...

Khai Sơn Đường tiếp giáp sau Bổn Đường, ở giữa thờ Ngài Cao Tổ Đạo Nguyên Thiền Sư hay Thái Tổ Oánh Sơn Thiền Sư. Ngoài hai vị Tổ Sư, còn thờ tượng bằng gỗ của vị Hòa Thượng khai sơn chùa ấy nữa. Hai bên phải trái thờ tượng của các vị Trụ Trì, linh vị của những người sáng lập chùa, nơi đây cũng thờ linh vị Tín Đồ nữa, miễn sao ở giữa có nơi làm lễ là được. Phía trước còn bàn kinh, có gối để lạy, có chuông mõ hai bên.

Vị Bi Đường là nơi linh vị Tín Đồ. Thông thường có thể thờ ở phía sau Chánh Điện hay Khai Sơn Đường, nhưng tùy địa phương Vị Bi Đường được xây riêng một nơi biệt lập bên ngoài Bổn Đường hay Khai Sơn Đường. Ở giữa, thờ tượng Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Mỗi gia đình có mỗi bàn thờ nhỏ và tự quản lý, cúng dường và tự mỗi gia đình đến chùa chăm sóc lấy.

Khố Lý được xây dựng ở bên phải Chánh Điện và mặt hướng về Chánh Điện. Nơi đây gồm có hành lang, phòng tiếp lễ vật, phòng khách, phòng ở của vị Trụ Trì, phòng ở của gia đình Trụ Trì, phòng sinh hoạt, phòng chuẩn bị, phòng ăn, phòng tắm, nhà vệ sinh v.v... Tùy theo chùa, Khố Lý lớn hay nhỏ, có chùa Khố Lý còn lớn hơn Chánh Điện nữa.

Tọa Thiền Đường được xây dựng phía bên trái hướng về Chánh Điện, đối diện tương xứng với khố lý. Cũng tùy điều kiện đất đai, đôi khi được thiết lập ngay tầng dưới của Khai Sơn Đường, những chùa không có Tọa Thiền Đường, có thể dùng Chánh Điện hay Khai Sơn Đường thay thế.

Lầu Chuông được thiết kế ở một góc vườn. Mỗi sáng tối thỉnh chuông nhứt định vào một thời điểm nào đó. Chùa nào không có lầu chuông, thường treo chuông bên ngoài cửa hay bên trong Chánh Điện.

Ngoài ra, trong vườn còn xây những nơi như: Đại Sư Đường, Trấn Thủ Đường, Đạo Hà Đường (nơi thờ Thần Lúa), Thần Xã, Sáng Khố v.v...

III.2.5 Công Việc Của Các Vị Tăng

Già Lam không phải chỉ thờ Phật, mà với người sống, nơi đây là những Đạo Tràng tu hành để thành Thánh, thành Phật. Già Lam của các chùa tu Thiền, như đề cập ở trên, được tổ chức theo thể thức sinh hoạt cộng đồng với mục đích tu hành. Riêng Thiền Tông, đặc biệt Tào Động Tông, có sự phối trí khác biệt. Chư Tăng ở chùa tu hành, tất cả nhất định phải phân công công việc để làm, không ai không làm việc, những công việc từ thời Lưỡng Tổ Đại Sư cho đến bây giờ vẫn thế. Được gọi là người tu, việc đầu tiên ở chùa, phải có khả năng làm việc hiệu quả. Không những chỉ riêng người tu ở chùa Tu Hành Tự, mà cho tất cả những tự viện lấy chùa Tu Hành Tự làm căn bản. Chư Tăng trong chùa phải làm việc được giải thích như sau:

Trụ Chức nghĩa là viết tắc của Chức Trụ Trì, người có trách nhiệm lớn lao đối với chùa. Với tư cách là “Tôn Giáo Pháp Nhơn” đại biểu cho chùa đó. Nếu chùa lớn, cũng còn xưng là Sơn Chủ thay cho Trụ Trì, đôi khi thay đổi gọi là Đường Đầu Hòa Thượng, mà thông thường gọi là Phương Trượng, Đường Đầu hoặc Hòa Thượng. Có nơi gọi vị Trụ Trì là Ojutsusan và Hòa Thượng là Ossan.

Quản Thủ là Chức Vụ của hai đại Bổn Sơn, cũng còn gọi là Quản Thủ Đại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự và Quản Thủ Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự. Ở hai Đại Bổn Sơn còn có vị Phó Quản Thủ, vị thứ hai sau Quản Thủ nữa.

Tây Đường là nơi ở của những vị Cao Đức do vị Trụ Trì cung thỉnh đến để chỉ đạo các Phật sự, bình thường vị Tăng nầy đứng sau vị Trụ Chức.

Giám Viện nghĩa là người thay thế vị Trụ Trì, làm Tổng Quản quán sát tất cả những công việc và mọi vấn đề hành chánh của chùa. Trước đây, vị nầy đứng đầu trong bảng Lục Hòa, mà có nơi gọi là Giám Tự. Ngoài ra còn có Phó Giám Viện thay thế việc điều hành mỗi khi vị Giám Viện vắng mặt .

Hậu Đường là chỗ hành trì của vị Tăng trực tiếp chỉ đạo.

Đơn Đầu là ngôi vị thứ hai của vị Tăng ở Hậu Đường đang hành trì và trực tiếp chỉ đạo.

Phó Tự là vị Tăng lo việc chi tiêu của chùa, lo trọn một trong 6 phép hòa kính.

Tri Khố là vị Tăng lo quản lý thức ăn, tiền bạc và giúp đỡ cho vị phó Trụ Trì.

Duy Na là người giúp đỡ cho vị Hậu Đường và Đơn Đầu, chỉ đạo và hướng dẫn chư Tăng tu hành, quản lý Tăng Đường, tụng khai Kinh và hồi hướng mỗi thời tụng Kinh, giữ vững kỷ cương một trong 6 phép hòa kính, tuy nhiên, có chùa xem đây là việc của vị Giám Tự.

Duyệt Chúng là vị giúp đỡ cho Duy Na, phần vụ thủ mõ.

Đường Hành cũng là nhiệm vụ của Duy Na và Duyệt Chúng, phải gõ khánh, tụng khai Kinh và hồi hướng trong mỗi thời công phu tụng Kinh.

Điển Tọa là vị Tăng lo việc ăn uống vâng giữ một trong 6 phép lục hòa.

Phó Điển còn gọi là Phạn Đầu, vị Tăng hổ trợ giúp việc cho Điển Tọa.

Trực Tế là vị Tăng chuyên lo việc chấp tác, trùng tu sửa chữa Già Lam, chữa đường sá, cũng là người vâng giữ một trong 6 phép lục hòa.

Tri Khách là vị Tăng lo việc tiếp đón khách.

Thị Chơn là vị Tăng chăm sóc chỗ thờ Tổ Khai Sơn.

Cúng Chơn là vị Tăng giúp đỡ Thị Chơn, cũng gọi là Truyền Cúng.
Tri Điện là vị Tăng quản lý Phật Điện và Pháp Đường. Người phụ tá gọi là Diện Hạnh.

Thượng Sự là vị Tăng lo việc thư ký, bảo quản văn thơ giấy tờ.

Tri Dục cũng còn gọi là Dục Chủ, vị Tăng quản lý nhà tắm.

Thị Cục Trưởng là vị Tăng thân cận, chăm lo và giúp đỡ vị Trụ Trì. Ở hai Đại Bổn Sơn những vị nầy hổ trợ vị Quản Thủ.

Thị Giả là vị Tăng thân cận hầu hạ vị Trụ Trì và Chư Tôn Đức đến thăm chùa. Có 5 loại Thị Giả chánh thức như:

Thiêu Hương Thị Giả, là người có trách nhiệm lo việc hương đăng và dâng hương cho vị Trụ Trì, mỗi khi có lễ.

Thư Trạng Thị Giả là vị lo vấn đề thư từ cho vị Trụ Trì.
Thỉnh Khách Thị Giả là vị Tăng lo ứng đối tiếp đãi khách của vị Trụ Trì.

Y Bát Thị Giả là vị Tăng lo Pháp Y cho vị Trụ Trì.

Thang Dược Thị Giả là vị Tăng lo thức ăn và thuốc men cho vị Trụ Trì.

Thông thường chỉ hai hay ba vị kiêm nhiệm luôn.

Thị Thánh nghĩa là Thị Giả của chư Thánh Tăng thờ tại Tăng Đường (như Ngài Văn Thù Bồ Tát), lo việc cúng dường nước hoặc trà nóng lên Bồ Tát.
Giảng Sư nghĩa là vị Thầy thường giảng nghĩa và thuyết pháp cho Chư Tăng và Tín Đồ.

Tạng Chủ tức là vị quản lý tạng Kinh và điện thờ có nhiều bảo vật.

Tịnh Đầu là vị Tăng quản lý Đông Ty (nhà xí).

Tấu Giả là vị Tăng có trách nhiệm thông tin cho khách hoặc những liêu xá, khi có những việc cần thiết.

Thủ Tọa là địa vị cao nhất của chư Tăng, còn gọi là Thượng Tọa.

Thư Ký nguyên là chức vụ Thị Giả Thư Trạng, phụ trách những công việc phụ giúp vị Thủ Tọa liêu, thường ngồi ở vị trí thứ hai sau Thượng Tọa.

Biện Sự là vị Tăng còn trẻ luôn ở bên vị Thư Ký, Thủ Tọa, nơi liêu Thủ Tọa.

Hành Giả là vị Tăng còn đang tu học, gần gũi thân cận, làm các công việc.
Ngoài ra, ở Điện Đường, Điện Ty, Đường Ty, Phật Điện, Pháp Đường khi có lễ, vị thỉnh chuông gọi là Chung Ty, vị lo công việc trong Tăng Đường gọi là Trực Đường, vị lo việc dọn dẹp gọi là Thanh Tảo Đương Phiên v.v... nhiều lắm không thể ghi chi tiết ra đây hết. Vả lại, còn có khá nhiều công việc như xuất bản, bố giáo, và nhiều việc không cần có chức vụ ở Lưỡng Bổn Sơn nữa, song tùy theo tính chất quy mô hay đơn giản của chùa, tùy theo địa phương, tùy theo xã hội mà công việc có thể tùy nghi sửa đổi thêm hay bớt.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567