- Chương một: Tôn Giáo của Chúng Ta Tào Động Tông
- Chương hai: Tự Viện, Tăng Lữ, Nghi Lễ
- Chương ba: Tông Chỉ, Giáo Nghĩa và Thánh Điển
- Chương bốn: Sinh Hoạt Tín Ngưỡng Của Đàn Tín Đồ
- Chương năm: Di Tích Của Lưỡng Tổ Đại Sư
- Chương sáu: Tư Liệu Tham Khảo
- Chương bảy: Tiểu Sử Tác Giả Đông Long Chơn
- Chương cuối: Lời Cuối Sách
Nguyên tác: Azuma Ryushin (Đông Long Chơn) - Việt dịch: Thích Như Điển
Chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc và quý Phật Tử tại Mỹ Châu – Úc Châu ấn tống 2008
Tự Viện, Tăng Lữ, Nghi Lễ
III. Tự Viện, Tăng Lữ, Nghi Lễ
III.3 Bổn Tôn, Phật Tượng Và Pháp Cụ
III.3.1 Già Lam và Bổn Tôn
Trong Già Lam tự viện của Tông Tào Động, an trí tôn tượng Phật ngay chính giữa Chánh Điện, tất nhiên cách phối trí sao cho phù hợp với không gian và hoàn cảnh, để người lễ Phật và khách tham quan dễ nhìn, hẳn nhiên không đơn thuần cho việc lễ bái, mà còn ẩn tàng cả một triết lý cao siêu nữa. Bởi vì, như trước đã nói, Bổn Tôn của Tào Động Tông là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Thích Tôn).
Thật không sai nếu cho rằng Điện Phật là Trung Tâm của Già Lam, tất nhiên phải thờ tượng Phật ở tại Bổn Đường (Chánh Điện). Ở Đại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự, tôn tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Phật Hiện tại) thờ ở giữa, hai bên trái và phải thờ Phật A Di Đà (Phật quá khứ) và Phật Di Lặc (Phật vị lai). Tại Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự thờ Phật ở chính giữa và hai bên thờ Tôn Giả Ca Diếp và Tôn Giả A Nan. Tại Đại Thừa Tự, huyện Ishinakawa, phố Kanezawa thờ Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Phổ Hiền ở hai bên. Tại Chùa Vĩnh Quang, Ishikawa, phố Hakui thờ Bồ Tát Quan Âm, Bồ Tát Hư Không Tạng ở hai bên.
Các tự viện thuộc Tông Tào Động vốn thờ tôn tượng Phật song không hầu hết như thế. Tại Phật Điện chỉ an trí Bổn Tôn, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Tam Tôn, tại Sơn Môn thờ tượng Nhân Vương, La Hán v.v... tại Tăng Đường thờ Bồ Tát Văn Thù, tại chỗ tắm thờ Bạt Đà Bà La Tôn Giả, tại Đông Ty (nhà xí) thờ Điểu Sô Sa Ma Minh Vương v.v... đại loại như thế để phân biệt rõ đâu là Chánh Điện, không phải là Pháp Đường hoặc liêu xá, hoặc nhà Từ Đường. Những tôn tượng Phật và các tượng khác v.v... cũng đổi thay tùy theo lịch sử và điều kiện của tự viện nữa, từ đó các loại Điện Đường thành hình ngày càng trở nên đa dạng như vậy.
Song dù sao đi nữa, ý nghĩa tôn thờ Tôn Tượng không có gì khác ngoài sự biểu lộ tâm thành của người lễ bái. Khi thành tâm lễ bái, ta phải hiểu rằng, những tôn tượng Phật trở nên sống động đối với người lễ và những tôn tượng Phật hàm dung một ý nghĩa vô cùng quan trọng.
III.3.2 Tượng Phật
Tôn tượng Phật thật tế có nhiều loại như tượng Như Lai (Phật), tượng Bồ Tát, tượng Minh Vương, tượng Thiên Thần, về hình thức, có nhiều hình dáng khác nhau, có nhiều tượng đứng, tượng ngồi mỗi tượng hàm chứa ý nghĩa mỗi khác.
Tôn tượng Đức Thích Ca Mâu Ni Phật, vị Giáo Chủ, khai Tổ của Phật Giáo, tọa Thiền tay bắt ấn kiết già luôn luôn thờ chính giữa trên Phật Điện hay trong Bổn Đường. Ngoài ra, ngày lễ Phật Đản (mồng 8 tháng 4 gọi là Hanamatsuri) và lễ Nhập Niết Bàn (nhằm ngày 15 tháng 2), thường treo thêm tranh họa Phật đản sanh hay cảnh nhập Phật Niết Bàn.
Tôn Tượng A Di Đà Như Lai, vị Giáo Chủ của cõi Tây Phương Cực Lạc tượng trưng Phật trong quá khứ, thờ một bên Đức Thích Ca Mâu Ni trong Phật Điện Đại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự.
Còn tôn tượng Thập Tam Phật gồm Đức Thích Ca, Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền
Bồ Tát là 3 vị ở chính giữa và 10 vị Phật khác phối trí thờ thêm vào, song đa phần tượng tranh, được tôn thờ vào các ngày cầu siêu như:
• Tượng Bất Động thờ vào ngày cúng sơ thất
• Tượng Thích Ca thờ vào ngày cúng nhị thất
• Tượng Văn Thù thờ vào ngày cúng tam thất
• Tượng Phổ Hiền thờ vào ngày cúng tứ thất
• Tượng Địa Tạng thờ vào ngày cúng ngũ thất
• Tượng Di Lặc thờ vào ngày cúng Lục thất
• Tượng Dược Sư thờ vào ngày cúng chung thất
• Tượng Quan Âm thờ vào ngày cúng bách Nhật
• Tượng Thế Chí thờ vào ngày cúng giáp năm
• Tượng Di Đà thờ vào ngày cúng 3 năm
• Tượng A Súc Phật thờ vào ngày cúng 7 năm
• Tượng Đại Nhật thờ vào ngày cúng 13 năm
• Tượng Hư Không Tạng thờ lễ cúng 33 năm.
Bồ Tát Văn Thù biểu trưng trí tuệ của Phật, hình dáng là một vị Tăng cỡi Sư Tử đang nằm, thờ tại Tăng Đường, như một vị Bổn Tôn.
Bồ Tát Quán Thế Âm biểu tượng cho trí tuệ và từ bi của Phật, mà đặc biệt mọi người ai ai cũng biết đến Ngài, thờ tại liêu chúng xuất gia như một vị Bổn Tôn.
Bồ Tát Hư Không Tạng biểu trưng cho công đức trí tuệ và từ bi của Phật vô cùng rộng lớn và cao cả như hư không, thờ tại liêu của chúng Tăng như một vị Bổn Tôn.
Bồ Tát Phóng Quang chỉ cho Đức Quan Thế Âm Bồ Tát và Địa Tạng Vương Bồ Tát hợp thành, mà không phải riêng Bồ Tát nào. Còn Bồ Tát Địa Tạng, có thệ nguyện rộng sâu, có hạnh nguyện quảng đại siêu việt an định đại địa. Trên lầu Sơn Môn của Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự, có thờ hai tượng Bồ Tát Quan Âm và Bồ Tát Địa Tạng. Còn tại Phóng Quang Đường ở Tổ Viện, thờ vị Bồ Tát Phóng Quang, là Địa Tạng Bồ Tát. Còn tại Phóng Quang Đường của Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự, thờ tôn tượng Phật Thích Ca Mâu Ni. Tại Thường Chiếu Điện, thờ tượng Bồ Tát Quan Thế Âm như vị Bổn Tôn. Vả lại, các tự viện địa phương thuộc Tông Tào Động, thờ Bồ Tát Địa Tạng, bởi vì có nhiều người tin và thường đến đó để lễ bái nguyện cầu.
Bồ Tát Di Lặc, còn gọi là Phật Vị Lai bởi vì Bồ Tát sẽ hạ sanh thành Phật, sau Đức Thích Tôn nhập diệt vào khoảng 56 triệu bảy ngàn vạn năm, nơi thế giới nầy một lần nữa. Tại Phật Điện Đại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự, thờ bên cạnh Đức Thích Ca Tam Tôn.
Bồ Tát Phổ Hiền, vị Bồ Tát có bổn nguyện biểu trưng cho đức của Phật. Nếu Bồ Tát Văn Thù biểu trưng cho Trí Tuệ, Bồ Tát Phổ Hiền chỉ cho Hạnh Nguyện. Tại Phật Điện chùa Đại Thừa, huyện Ishikawa, thờ bên cạnh Thích Ca Tam Tôn.
Bồ Tát Chiêu Bảo Thất Lang Đại Quyền Tu Lý là Thần Hộ Pháp thờ tại chùa A Dục Vương Quảng Lợi Tự, núi Chiêu Bảo Sơn, tỉnh Chiết Giang, Trung Hoa cho nên có tên như vậy. Truyền thuyết kể rằng lúc Thiền Sư Đạo Nguyên về lại Nhật sau thời gian du học ở Trung Hoa, có một người tùy tùng theo hộ trì giúp đỡ cho Phật pháp phát triển và bảo hộ thân mạng cho Thiền Sư, cho nên đối diện với bàn thờ Bổn Tôn trên Phật Điện hoặc Bổn Đường, an trí tôn tượng vị Bồ Tát nầy, với y phục của bậc Đế Vương, tay phải đưa lên ngang trán, nhìn lên, mặt hướng vào bên trong, xoay lưng ra bên ngoài.
Bồ Tát Bạt Đà Bà La (Tôn Giả) ngộ đạo khi đi tắm cho nên trở thành Bổn Tôn của phòng tắm.
Bồ Tát Điểu Sô Sa Ma Minh Vương là bậc Minh Vương nguyện diệt trừ dơ nhớp nên trở thành Bổn Tôn của Đông Ty (nhà xí). Còn Bất Động Minh Vương tùy tùng Đại Nhật Như Lai, giải trừ những việc ác. Không phải chỉ riêng vị Minh Vương nào đó có duyên với Tông Tào Động song hầu như tất cả các tự viện thuộc Tông Tào Động đều thờ vị Bất Động Minh Vương.
Vi Đà Thiên vốn là vị Thần trong Thần Thoại Ấn Độ, về sau được Phật Giáo nhập chung vào trở thành vị Thần hộ pháp Già Lam, lo phụng sự, bảo hộ giữ gìn thực phẩm cho chư Tăng. Truyền thuyết kể rằng Ngài mặc áo giáp, đeo kiếm báu trên vai, hai tay chấp lại, rất hảo tướng, hộ trì Phật Pháp, đánh dẹp tà ma chạy về cõi Trời Vi Đà. Thường thường tôn tượng của Ngài an trí tại nhà Kho. Sáng mồng năm mỗi tháng, có hồi hướng kinh văn cho Ngài Vi Đà Thiên nầy trong thời tụng Kinh.
Long Thiên là những vị Long Thiên Hộ Pháp, còn Đại Thiện Thần là những vị Thần bảo hộ Phật pháp. Chư Tăng và những vị Thầy cúng thường viết trên bài vị hai hàng: “Phụng Thỉnh Long Thiên Hộ Pháp Đại Thiện Thần – Bạch Sơn Diệu Lý Đại Quyền Hiện”, rồi để trên sàn nhà trong phòng ở, khi lễ bái đọc Kinh xong thường cầu nguyện mong Phật sự thành tựu viên mãn.
Biện Tài Thiên nói tắt là Biện Thiên, vị Thần trong thần thoại Ấn Độ trong hình thức người nữ, giỏi âm nhạc, giỏi biện thuyết, tài phước, trí tuệ và Phật pháp.
Trà Chỉ Ni Thiên cũng là vị Thần trong thần thoại Ấn Độ, về sau được thờ chung với con cáo trắng và Thần Lúa, gọi là Thần Đạo Hà. Khi Thiền Sư Đạo Nguyên về quê hương vị Thần Đạo Hà của Nhật hiện ra, được truyền tụng chữa được nhiều bệnh hiểm nghèo. Ở chùa Diệu Nghiêm Tự (Myogonji), huyện Aichi, phố Phong Xuyên có thờ và trên toàn nước Nhật ai cũng biết Thần Phong Xuyên Đạo Hà nầy.
Tứ Thiên Vương là những vị Thần từ cõi trời đến để hộ trì Phật Pháp ở khắp bốn phương, vốn cũng là vị Thần trong thần thoại Ấn Độ.
Phương Đông có vị Trì Quốc Thiên.
Phương Nam có vị Tăng Trưởng Thiên.
Phương Tây có vị Quảng Mục Thiên.
Phương Bắc có vị Đa Văn Thiên hay còn gọi là Tỳ Sa Môn Thiên.
Đặc biệt, không có tượng Tứ Thiên Vương để thờ, nhưng khi lễ Vu Lan, trong Trai Đàn Đại Thí Cô Hồn, thấy tên của bốn vị Thiên Vương nầy viết lên trên lá phang treo phía trước.
Đại Hắc Thiên, vị thần hộ trì việc ăn uống và phước đức, cũng là vị Thần theo truyền thống thần thoại của Ấn Độ. Về sau, được thờ chung với Đại Quốc Chủ Thần, một trong 7 vị thần ban phước và gọi là Phước Thần. Tại Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự, thờ vị Đại Hắc Thiên nầy trong Khố Viện.
Tam Bảo Đại Hoang Thần còn gọi là ông Táo, là vị Thần hộ trì Phật pháp, trừ khử việc bất tịnh. Tại chùa Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự, vị thần nầy được thờ trong Tổ Viện với Đại Nhật Như Lai, A Di Đà Như Lai, được xem như là hóa thân quyền hiện của Bồ Tát Văn Thù giải trừ bảy nạn và chứng minh gia hộ cho người cầu phước thọ linh nghiệm.
Nhân Vương là vị Thần đứng ngoài cổng Sơn Môn, bên trái là Mật Tích Kim Cang và bên phải là Na La Diên Kim Cang. Mật Tích Kim Cang biểu trưng lý Đức, với hình dáng khuôn miệng của người nữ mở ra (A). Na La Diên Kim Cang biểu trưng trí của Đức với hình dáng khuôn miệng của người nam ngậm lại (Hồng).
Thập Lục Thiên Thần phát xuất từ Kinh Bát Nhã, nguyên do khi Đức Phật Thích Ca giảng Kinh Bát Nhã, có 16 vị Thần hiện ra phát tâm bảo hộ và giữ gìn Kinh Bát Nhã. Tết đến có lễ hội cầu nguyện Bát Nhã, tranh tượng được treo lên và Kinh Bát Nhã được thọ trì. Trong bức tranh đó, Đức Thích Tôn an vị tại chính giữa, hai bên là Bồ Tát Thường Đề và Bồ Tát Pháp Dũng, chung quanh có 16 vị Thiện Thần vây quanh thủ hộ. Khi dịch Kinh Bát Nhã, Pháp Sư Huyền Trang Tam Tạng cho họa và treo thêm hình của Thâm Diệu Đại Tướng nữa.
Thập Bát Thiện Thần: Ngoài 16 vị Thiện Thần, còn có hai vị Phạm Thiên và Đế Thích Thiên, những vị Thần giữ gìn Già Lam và hộ trì Phật Pháp.
Thổ Địa Thần, không nhất thiết là thần giữ gìn đất đai và vườn tược của chùa, song có thể nghĩ là một trong những Chư Thiên Thiện Thần.
Già Lam Thần không nhất thiết là thần bảo hộ những kiến trúc chùa. Như trước đã nói, Có 19 Thiên Thần, sau có Hỏa Đức Thánh Quân đều là một trong những vị Thần Già Lam và là một trong Chư Thiện Thần.
Táo Công Chơn Tể là Thần hộ trì bếp núc chủ yếu là nồi niêu.
Trấn Thủy Thổ Địa Thần cũng giống với Già Lam Thần là Thần giữ gìn hộ trì Già Lam của chùa, như Bạch Sơn Thần Xã bảo hộ Đại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự. Ở những Tự Đường khác, thờ Ái Đãng Đại Quyền Hiện (Thắng Quân Địa Tạng Tôn); Dũng Tuyền Đạo Hà; Thiên Chiếu Đại Thần Cung; Kim Tỳ La Xã là những Sơn Thần v.v... Tại Tổ Viện Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự thờ Ốc Đại Vương Quyền Hiện Xã v.v...
Thập Lục La Hán là 16 vị A La Hán, hộ trì Phật pháp, thường được thờ trên lầu của gác chuông, hoặc trong Chánh Điện, hoặc thờ riêng trong La Hán Đường. Thông thường, tượng làm bằng gỗ hoặc tranh họa. Có nhiều hình tượng La Hán như 4 vị, 18 vị hay 500 vị, A La Hán được nhiều người sùng bái, cho nên có nhiều chùa thờ các vị A La Hán và tổ chức Lễ Hội La Hán nữa.
Hỏa Đức Thánh Quân, theo truyền thuyết cổ của Trung Hoa, là sự hiển linh của Thần Nông, người đầu tiên chế thuốc có quyến thuộc là những vị Hỏa Bộ Thánh Chúng. Trên điện Phật thường treo những tranh nầy, gọi là vị Thần trừ hỏa tai.
Giám Trai Sứ Giả, còn gọi là vị sứ giả của nhà Trù, Thần giữ gìn và chăm lo việc ăn uống của chư Tăng, thường được thờ trong Khố Viện.
Kiều Trần Như Tôn Giả, gọi tắt là Trần Như Tôn Giả là một trong năm người đệ tử đầu tiên của Phật được nghe Pháp và chứng ngộ, được xưng tán là Đệ Nhứt Ngộ Đạo Phạm Hạnh, cho nên thờ Ngài là một trong những vị Thánh Tăng trong Tăng Đường. (như thờ trong Thiền Đường chùa Đoan Long, huyện Fujisan). Như trong quyển danh sách chư Tăng đệ tử Phật kiết hạ an cư theo thứ tự hạ lạp, tên của Ngài Trần Như Tôn Giả ghi đầu sổ.
Tân Đầu Lô Tôn Giả là một vị trong 16 vị La Hán, đầu bạc mi dài, có nhiều thần thông, thường được thờ trong Tăng Đường hoặc Thực Đường, hoặc thường được thờ ngay cửa vào Chánh Điện, nhiều người tin rằng xoa vuốt tượng nầy sẽ không bệnh hoạn.
Truyền Đại Sĩ người đời nhà Lương (496 – 569) sanh tại tỉnh Chiết Giang, Trung Hoa, Họ Truyền, tên Hấp là một Phật Tử thuần tín Tam Bảo, lãnh hội rốt ráo những giáo huấn của Tổ Đạt Ma Đại Sư. Ngài cũng còn được xem là hóa thân của Bồ Tát Di Lặc, xây dựng tàng Kinh các, vì thế tôn tượng của Truyền Đại Sĩ thường được thờ trong tàng Kinh các.
Đạo Liễu Đại Quyền Hiện, còn gọi là Đạo Liễu Đại Tát Đỏa, khai sơn Chùa Tối Thừa, huyện Kanagawa, phố Chisada, mà Thiền Sư Liễu Am Huệ Minh đứng hầu. Chùa Ngài có phong cách kiến trúc đặc biệt, phải nói rằng, toát lên một sức mạnh phi thường. Sau khi Thiền Sư viên tịch đã hóa thành Thiên Cẩu, biến vào không trung. Có nhiều người tin và cầu nguyện Ngài gia hộ cho nên ở Nhật ai cũng biết Chùa Tối Thừa và gọi Ngài rất thân thiện là Ông Đạo Liễu.
Tam Xích Phường Quyền Hiện xuất thân ở huyện Nagano, thâm tín Bồ Tát Quan Thế Âm xuất gia năm lên 7, trở thành một trong 12 tu sĩ của Tam Xích Phường, khai sơn Chùa Thu Diệp, huyện Sizuoka vào năm Đại Đồng thứ 4 (809), chứng đắc thần thông cho nên sau khi viên tịch được thờ tại Tạng Vương Đường, huyện Nigata. Năm Minh Trị thứ 6 (1873) Chùa Thu Diệp bị phế bỏ và dời về Thùy Tế (Suisai), huyện Sizuoka. Hầu hết các chùa thuộc Tông Tào Động đều thờ Tam Xích Phường Quyền Hiện, được gọi là Đại Ngư Thần để trừ hỏa tai.
Bạch Sơn Diệu Lý Đại Quyền Hiện, Thần hộ trì cho Phật Pháp Tăng, mà Bạch Sơn vốn là tên của một trong ba danh sơn Nhật Bản, nằm trên 3 huyện Fukui, Ishikawa và Kỳ Phụ. Thời kỳ Nara, Đại Sư Thái Đăng khai sơn thờ Đức Quan Thế Âm 11 mặt. Trước và sau khi Thiền Sư Đạo Nguyên Thiền Sư sang Trung Hoa du học đã từng lưu tại đây được Bạch Sơn Diệu Lý Quyền Hiện hộ trì công việc soạn thảo “Bích Nham Lục”.
Thất Phước Thần tiêu trừ 7 nạn là vị Thần ban cho 7 loại phước đó là: Thần Huệ Tỉ Tu, Đại Hắc Thiên, Tỳ Sa Môn Thiên, Biện Tài Thiên, Phước Lộc Thọ, Thọ Lão Thiên, Bố Đại Tôn. Các chùa thuộc Tông Tào Động thờ Thất Phước Thần, được biết như: Chùa Tùy Nguyên, Chùa Long Giác, Chùa Đổng Quang, huyện Simahane, nơi đó gọi là Xuất Vân Quốc Thất Phước Thần Linh Trường, được nhiều người từ nơi khác liên tục đến hành hương chiêm bái.
Ngoài ra, tại Điện Phật, Khai Sơn Đường hay Bổn Đường còn thờ tôn tượng Đạt Ma Đại Sư, Sơ Tổ Thiền Tông Trung Hoa, Đại Sư Động Sơn, Tổ của Tông Tào Động Trung Hoa, Thiền Sư Như Tịnh, bổn sư của Thiền Sư Đạo Nguyên, Lưỡng Tổ Đại Sư, Khai Sơn Thiền Sư, Lịch Đại Trụ Chức, Khai Sơn (tất cả đều được thờ ở Khai Sơn Đường) v.v... đôi khi còn phải thích nghi hoàn cảnh đặc biệt của Chùa đó, thờ chư Phật, chư vị Bồ Tát và chư Thiên Thiện Thần v.v....
III.3.3 Pháp Cụ
Pháp cụ còn gọi là Phật cụ là những đồ dùng trong Đạo, mà chư Tăng thường dùng trong khi hành lễ hoặc cử hành nghi lễ trong nhiều phương diện khác nhau, song có mục đích và ý nghĩa phụng sự đạo pháp. Xin được lần lượt giới thiệu như sau:
Tu Di Đàn là Án thờ với hình thức như một đài mang tên ngọn núi Tu Di, Ấn Độ, được thiết kế ngay giữa Bổn Đường hay Phật Điện, trên đó an trí tượng Phật rất trang nghiêm.
Đồ trải là những tấm vải trải trên Tu Di Đàn.
Tiền Ngột là cái án thờ đặt phía trước Đàn Tu Di, kê cao gần sát Đài, trên đó có lò hương đặt chính giữa, hai bên là bình hoa và có một cặp nến, được gọi là ngũ cụ túc. Ngoài ra trước án còn treo những tấm lụa ở ba phương, mà cả ba phương đó đều có lò hương để vị chủ lễ cắm hương vào.
Đả Phu là miếng vải trải lên trên ghế phía trước.
Bái Phu là chỗ ngồi ở chính giữa dành cho vị Chủ Lễ lễ bái.
Tọa Nhục là cái đệm ngồi, trên ấy có để sẵn tràng hạt và cây phất trần dài màu tím để vị sám chủ sử dụng trước khi lễ bái và ngồi xuống.
Lễ Bàn là bục bước lên án cao khi lễ bái.
Dẫn Thủy là hành lang thoáng mát nối từ Bổn Đường đến Đại Điện.
Mộc Ngư là cái mõ chạm hình rồng hoặc cá bằng gỗ tròn, để báo hiệu giờ tụng kinh trên Phật Điện hay Bổn Đường bằng nhiều hồi.
Khánh Tử là cái chuông để gần mõ, hình tròn làm bằng kim loại, cũng có khi treo trên giá gần chỗ ngồi, dùng để báo hiệu bắt đầu tụng kinh hay kết thúc một câu kinh. Chuông lớn gọi là Đại Khánh Tử, còn Tiểu Khánh dùng như ra lệnh tiếng mõ khi đọc kinh. Cũng có khánh cầm tay để hướng dẫn chúng. Tất cả khánh, chuông đều có chung công dụng báo hiệu nhịp uyển chuyển trong chúng khi tụng kinh, cũng dùng để đi cúng đám cầu siêu ở ngoài mộ hoặc ở nhà thí chủ.
Kiến Đài là bàn dành riêng cho vị Trụ Trì hay Bổn Sư xem sách, xướng lễ, giảng Kinh v.v... Thông thường những kinh sách, giảng dạy cần thiết và những sớ cầu an, cầu siêu, phục nguyện hồi hướng v.v... của những thời thuyết pháp, giảng dạy hay tụng kinh sáng trưa tối đều để ở đây. Án không cao cũng không thấp cho nên dù ngồi hay đứng đều đọc được.
Thiên Cái là lọng lớn che treo trên tượng Phật ở Pháp Đường hay Bổn Đường thường làm bằng gỗ mạ vàng để trang nghiêm Phật, gọi là Phật Thiên Cái. Nếu treo tại Pháp Đường, trên chỗ ngồi của Chư Tăng gọi là Nhơn Thiên Cái. Ngoài ra, còn có lọng nhỏ dùng để che khi cung thỉnh chư Tôn Đức hay vị Trụ Trì quang lâm Chùa hoặc đi đám tang.
Điện Chung là quả chuông treo cố định tại nơi nào đó trong Bổn Đường hay Phật Điện để báo hiệu cho đại chúng biết lúc hành lễ hoặc nhóm họp. Khi Đạo Sư đăng đàn, thường gõ lên bảy hồi chung.
Phạm Chung cũng gọi là Đại Hồng Chung treo trong lầu chuông, gần như chùa nào cũng có. Phạm nghĩa là Thanh Tịnh.
Cổ Bạt là Trống và Phèng La. Trống dùng để báo giờ khắc, điểm giờ bắt đầu những pháp sự như báo hiệu giờ uống trà chẳng hạn. Trống là một pháp cụ dùng trong nhiều pháp sự khác nhau, còn Phèng La thường làm bằng đồng có dáng hình tròn sử dụng trong phạm vi nghi lễ cùng với trống nhỏ, lúc đi đám tang hay khi chẩn tế ngạ quỷ.
Bảng (Mộc Bảng) là bảng gỗ treo trước Tăng Đường hay Phương Trượng Đường dùng để báo hiệu bắt đầu tọa thiền hay thuyết giảng.
Vân Bảng là khánh đồng, trên đó có hình mây cuộn, thường cột treo tại nhà kho hay Lầu Chuông Trống, để báo hiệu giờ thọ trai.
Hoán Chung là chuông nhỏ mà Thiền Sư hay thị giả của Thiền Sư dùng để báo gọi từng thiền sinh vào phòng tham vấn, khi tham một mình.
Bang Ngư Cổ là cái mõ gỗ chắc, cứng dài có hình đầu rồng thân cá, treo ngoài chỗ trống trước Tăng Đường, để thông báo thọ trai. Ngày xưa chữ Bang có nghĩa là mõ Mộc Ngư (Mõ bằng gỗ).
Điển Lục là ghế kiểu Trung Hoa, chỗ ngồi nghĩ của Đạo Sư, khi thay đổi nghi lễ.
Cao Tọa là cái đài bằng gỗ có dựa và chỗ gác tay ở hai bên, dùng để ngồi thiền, thuyết pháp hay cử hành những nghi lễ khác.
Trà Dương Khí là những chén trà nhỏ bằng gỗ, để châm trà hay nước cúng dâng cúng Phật. Thỉnh thoảng cũng dùng tiếp khách quý.
Tửu Thủy Khí là chén đồng, mạ vàng, dùng đựng nước sái tịnh để Đạo Sư chú nguyện và tẩy tịnh trong những lễ: Thọ Giới, Chẩn Tế, Hằng Thuận v.v...
Tam Phương là khay bằng gỗ sơn màu dùng dâng đồ cúng Phật như hương hoặc những vật khác. Khay nầy cũng dùng vào việc tiếp nhận đồ cúng của khách thập phương viếng Chùa.
Phất Tử là cái phất trần có đuôi làm bằng lông thật là dài và mịn, dùng trong các đàn tràng lớn.
Như Ý như bàn tay bằng gỗ sơn son, cũng có loại bằng trúc, kim loại, bằng xương v.v... chiều dài thường là 30 cm đến 50 cm, vị Đạo Sư dùng trong nhiều nghi lễ. (chú thích của dịch giả. Việt Nam gọi là cái hốt, các vị Đạo Sư thường cầm trên tay khi không cầm phất tử).
Hốt là pháp khí bằng gỗ sơn son, hay bằng trúc, cũng có khi bằng xương giống như ngón trỏ, vị Đạo Sư hay Sư Cụ cầm trên tay khi tham thiền hay chỉ đạo những Phật sự quan trọng khác.
Trụ Trượng là cây gậy bằng gỗ, trúc, kim loại, xương v.v... dùng trong lúc quang lâm, khi nhận trách nhiệm trụ trì, khi đi hành cước, lúc thuyết pháp hoặc giáo giới cho giới tử. Trên đó, thường khắc những lời Kinh hay lời dạy của Tổ Sư.
Số Chu là tràng hạt 108 hạt, bằng gỗ hoặc nhựa, hình tròn, cứng hoặc mềm, dùng để niệm Phật, hoặc đeo trên cổ hoặc cầm trên tay, khi lễ bái, tụng Kinh, đốt nhang. Thiền Sư Đạo Nguyên dạy mang tràng hạt mà lễ lạy người khác là không nên, vì thế tu sĩ Tông Tào Động ít khi sử dụng đến hoặc tránh không lễ người khác lúc mang tràng hạt.
Xích còn gọi là thủ xích hay giới xích làm bằng gỗ dùng trong những đàn tràng thọ giới, tang lễ hoặc thọ trai, khi Đạo Sư sai bảo chư Tăng hay chỉ thị công việc lúc đọc Kinh. Khi vỗ thủ xích xuống mặt bàn vang lên âm thanh mạnh mẽ nên gọi là giới xích (răn bảo, dạy khuyên).
Tích Trượng là một loại gậy, bên trên đầu trượng bọc kim loại, để khi dộng xuống đất những vòng tròn của khoen kêu leng keng dùng để xua đuổi côn trùng, đề phòng việc sát sanh khi hành cước hoặc để báo cho tín chủ biết khi đi khất thực.
Trung Khải là cái quạt sơn son hai mặt.
Thủ Cân là dây nịt thường cột trong tay, ngày nay đeo ở ngón tay, thật ra đeo nơi lưng.
Ngũ Kiết Linh là chuông (linh) kim loại dùng vào lúc đi khất thực, lúc cầu nguyện.
Chấn Linh là chuông báo thức cho chư Tăng và những người đang hành trì, thường để ở trong Tăng Đường hay chỗ thờ Thánh Tăng.
Cảnh Sách là một thước bảng bằng gỗ cứng mỏng, dài một mét, phần trong hình trụ tròn đường kính khoảng bốn centimet để cầm tay, phần ngoài dát mỏng bề ngang cũng khoảng bốn centimet. Nếu bằng nửa loại nầy gọi là Đoản Sách.
Kinh Ngột là cái giá để Kinh có bốn chân, cũng gọi là Kinh Trác (kệ để Kinh).
Ứng Lượng Khí bình bát dùng cơm của chư Tăng. Có năm lớp lớn nhỏ bằng thiếc hoặc bằng gỗ sơn son chồng lên nhau bằng thiếc.
Cà Sa Văn Khố là cái đảy đựng hành lý như Cà Sa và quyển Kinh, thường đeo trên cổ thòng xuống đến ngực khi đi hành cước, còn bình thường để đầu giường.
Tọa Bồ là bồ đoàn để dùng khi ngồi Thiền, đường kính chừng 34 cm, cao chừng 10 cm hình tròn, bên trong nhồi bông cho cứng.
Toại Châm là cái chày có cán treo hình bát giác lớn chừng 1 xích (33,33 cm), cao chừng 3 đến 4 xích (~ 99,99 cm), đường kính chừng 5 đến 6 thốn (~ 16,65 cm), đặt trong Tăng Đường gần tượng của Thánh Tăng dùng để gọi lúc ăn cơm hay lúc cần liên lạc.
Bi là tấm bảng thông báo dựng hoặc treo trước Phương Trượng Đường, Tăng Đường hay hành lang.
Bảng là tấm bảng hình thức giống như tấm Bi nhưng dùng dán những thông báo nhân sự và những việc làm trong ngày hoặc ngày mai như phân công lo việc ẩm thực.
Ngạch là bức hoành dùng để treo những bức tranh họa, sách, giấy, bảng v.v... trên đầu cửa vào hoặc cửa phòng.
Liễn là câu đối treo nơi cửa hoặc chỗ ra vào, thường một cặp liễn nhỏ dài có viết chữ khắc tranh treo dọc theo cột của hai bên trái phải, trên đó ghi, chạm khắc công phu văn thơ rất đối nhau về ý nghĩa cũng như văn tự, mà gần như chùa nào cũng có, thường treo chung với Hoành Phi.