- Chương một: Tôn Giáo của Chúng Ta Tào Động Tông
- Chương hai: Tự Viện, Tăng Lữ, Nghi Lễ
- Chương ba: Tông Chỉ, Giáo Nghĩa và Thánh Điển
- Chương bốn: Sinh Hoạt Tín Ngưỡng Của Đàn Tín Đồ
- Chương năm: Di Tích Của Lưỡng Tổ Đại Sư
- Chương sáu: Tư Liệu Tham Khảo
- Chương bảy: Tiểu Sử Tác Giả Đông Long Chơn
- Chương cuối: Lời Cuối Sách
Nguyên tác: Azuma Ryushin (Đông Long Chơn) - Việt dịch: Thích Như Điển
Chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc và quý Phật Tử tại Mỹ Châu – Úc Châu ấn tống 2008
Tôn Giáo của Chúng Ta
Tào Động Tông
II. Tào Động Tông Và Lịch Sử Hình Thành
II.3 Lưỡng Tổ Đại Sư
• Thiền Sư Đạo Nguyên
• Thiền Sư Oánh Sơn
II.3.1 Lưỡng Tổ
Giống như những Tông Phái khác, Tông Tào Động gọi Tổ Sư là Lưỡng Tổ. Tác phẩm “Tào Động Tông Tông Chế” cho rằng: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là Bổn Tôn. Cao Tổ Thừa Dương Đại Sư (Jojo Daishi) và Thái Tổ Thường Tế Đại Sư (Josai Daishi) là Lưỡng Tổ. Điểm đặc biệt của Tông Tào Động là một Tông có hai vị Tổ cho nên gọi là Lưỡng Tổ, không sử dụng thuật ngữ Tông Tổ.
Lưỡng Tổ, theo văn tự, nghĩa là hai vị Tổ Sư, khai sáng Tông Tào Động. Thiền Sư Đạo Nguyên, còn gọi là Thừa Dương Đại Sư, do Minh Trị Thiên Hoàng sắc phong Đại Sư, được truy phong là Cao Tổ. Thiền Sư Oánh Sơn, do Minh Trị Thiên Hoàng sắc phong là Thường Tế Đại Sư, người xiển dương và quảng bá giáo điển của Thiền Sư Đạo Nguyên nên được gọi là Thái Tổ. Trong tác phẩm nầy, không gọi Thiền Sư Đạo Nguyên là Đại Sư, Cao Tổ mà chỉ gọi là Thiền Sư Đạo Nguyên, cũng không gọi Đạo Hiệu Đại Sư của Thái Tổ, mà chỉ gọi là Thiền Sư Oánh Sơn mà thôi, thậm chí cũng chẳng dùng chữ Thừa Dương Đại Sư để xưng tán Thiền Sư Oánh Sơn, có lẽ gọi như thế để cho mọi người dễ cảm hơn, thân thiện hơn và gần gũi hơn và biết đến nhiều hơn. Cao Tổ là tổ phụ, Tổ phụ của Tổ phụ gọi là Cao Tổ Phụ, còn có nghĩa là Tiên Tổ, những đời trước xa thật là xa. Những vị Thiên Tử đầu tiên của Trung Hoa khai mở những vương triều cũng được gọi là Cao Tổ, như Hán Cao Tổ (Hán Lưu Bang); Đường Cao Tổ (Đường Lý Nguyên) rất là nổi tiếng. Mỗi Tông mỗi phái đều có vị khai Tổ được gọi là Cao Tổ như Cao Tổ Hoằng Pháp Đại Sư; Cao Tổ Nhật Liên Đại Bồ Tát v.v…
Thái Tổ là vị khởi sự kế thừa, mà vốn chỉ cho những vị Đế Vương đời kế thừa đầu tiên, ở Trung Hoa và bán đảo Triều Tiên như thời Hậu Lương có Châu Toàn Trung, thời Nguyên có Jingisukan Thành Cát Tư Hản, ở Cao Ly có Vương Kiến v.v... được gọi là Thái Tổ. Ngoài ra, có một số Tông Phái có một vị Cao Tổ còn gọi là Thái Tổ, như Thái Tổ Thân Loan Thánh Nhơn được xưng tán rất là quen thuộc. Dù được gọi là Cao Tổ hay Thái Tổ, đều là bậc trưởng thượng, những vị Tổ đời trước là những vị Thỉ Tổ vậy. Nhưng danh hiệu tuyên xưng như Cao Tổ hay Thái Tổ được chấp nhận và quyết định tại hội nghị Đại Bổn Sơn Quản Thủ vào năm Minh Trị thứ 10 . Tông Tào Động còn gọi các vị Tổ Sư như Cao Tổ là Nghiêm Phụ còn Thái Tổ là Từ Mẫu.
II.3.2 Cao Tổ Đạo Nguyên Thiền Sư
Nếu cho rằng mỗi Tông có mỗi Tổ Sư, đặc biệt với Tông Tào Động hoàn toàn không phải, mà gọi là Lưỡng Tổ. Tại sao có đến hai vị Tổ? Bởi vì giáo đoàn Tông Tào Động do hai vị Thiền Sư Đạo Nguyên và Thiền Sư Oánh Sơn thành lập, hay nói cách khác nếu không có hai vị Thiền Sư Đạo Nguyên và Thiền Sư Oánh Sơn thì không có Tông Tào Động.
Thiền Sư Đạo Nguyên là vị Tổ Sư được truyền thừa gián tiếp từ Đức Thích Ca ở Ấn Độ, qua các vị Tổ Trung Hoa, cuối cùng thực hành pháp môn tọa thiền, từ đó mạng mạch Phật Pháp được truyền thừa vào Nhật và tạo thành phong cách riêng biệt. Hơn nữa, Thiền Sư Đạo Nguyên soạn tác phẩm “Phổ Khuyến Tọa Thiền Nghi” giảng rõ ý nghĩa và phương pháp tọa thiền dựa trên căn bản người Nhật. Vấn đề tại sao Tọa Thiền là đúng chánh pháp được giải thích rõ ràng hơn trong tác phẩm “Biện Đạo Thoại”. Ở Nhật ngôi Chùa chủ trương thành lập đạo tràng tọa Thiền đầu tiên đúng chánh Pháp là Chùa Hưng Phước Tự, Kyoto, phương pháp hành trì như thế nào được ghi rõ trong tác phẩm “Học Đạo Dụng Tâm Tập”, ngay cả sáu tác phẩm “Vĩnh Bình Thanh Quy” (Eihei Shingi) cũng ghi lại những vấn đề như truyền thống hành trì, sinh hoạt Chùa Viện, pháp môn tọa Thiền ở Nhật và những Thanh Quy, quy củ trong đạo tràng v.v... Nhật Bản cũng là quốc gia cử hành lễ Phật Thành Đạo, kỷ niệm ngày giác ngộ của Đức Thích Tôn, một việc làm vô cùng ý nghĩa về phương diện lịch sử, minh xác nguồn gốc Phật Giáo. Ngoài ra, tác phẩm “Chánh Pháp Nhãn Tạng” gồm 95 quyển giải thích rõ những pháp môn tọa Thiền nguyên thỉ, thuần túy Phật Giáo ở Nhật.
Như vậy, Thiền Sư Đạo Nguyên minh định Phật Pháp có chỗ đứng rất thuần túy và chính thống ở Nhật. Thời Ngài, thế hệ đệ tử đầu tiên như Hoài Tráng được chăm sóc kỹ lưỡng để tiếp tục kế thừa mạng mạch Phật Pháp, những chùa như Hưng Thánh Tự, Vĩnh Bình Tự ở huyện Fukui được xây dựng thật đẹp. Do vậy, phải nói rằng Thiền Sư Đạo Nguyên xứng đáng được tôn xưng là một vị Tổ Sư chính thống.
II.3.3 Thái Tổ Oánh Sơn Thiền Sư
Thiền Sư Đạo Nguyên viên tịch lúc mới 54 tuổi. Chùa Vĩnh Bình xảy ra nhiều điều không vui trong một thời gian khá lâu, suốt thời Thiền Sư Hoài Tráng, đời thứ hai và Thiền Sư Nghĩa Giới, đời thứ ba, Tăng Đoàn bị hỗn loạn về tư tưởng, bè phái và tình cảm v.v... nội bộ xảy ra những cuộc tranh chấp kịch liệt, thời gian được gọi là “Vĩnh Bình Tự Tam Đại Tương Luận” hay “Vĩnh Bình Tự Nội Bộ Phân Tranh”. Người chứng kiến tất cả ngọn ngành của thời gian nầy là Thiền Sư Oánh Sơn, đệ tử dễ thương của Thiền Sư Nghĩa Giới.
Thiền Sư Oánh Sơn là người có căn cơ khế hợp, chịu khó lắng nghe và lãnh thọ kinh nghiệm truyền thừa đúng Chánh Pháp của Tông Phong Vĩnh Bình Đạo Nguyên. Thế cho nên không những Ngài ổn định được mọi sự tranh chấp đối lập mà còn dung hòa thống nhất tất cả mọi quan điểm với hoài mong tiếp nối sứ mệnh người xưa, duy trì mạng mạch Phật Pháp và làm sao cho Phật pháp duy trì được xiển dương quảng bác. Ngài còn nhận lãnh trách nhiệm từ Thiền Sư Nghĩa Giới, mở chùa Đại Thừa, huyện Ishikawa về sau trở thành đời thứ hai. Ngài còn mở chùa Vĩnh Quang Tự, Tổng Trì Tự - Sojiji, nguyên thỉ ở huyện Ishikawa, phát triển một số việc làm cụ thể như:
Thứ nhứt, tiếp nối việc hành trì pháp môn Tọa Thiền như là căn bản của Tông phong, mà Thiền Sư Đạo Nguyên truyền lại. Tự bản thân Ngài tinh tấn thực hành Thiền Tọa rất nghiêm mật, chính trong tác phẩm “Động Cốc Ký” Ngài tự thuật rằng: “Cuộc đời suốt 41 năm dài kể từ khi xuất gia, chưa bao giờ nghỉ tọa Thiền một ngày nào cả”.
Thứ hai, lãnh thọ pháp môn tọa thiền của Thiền Sư Đạo Nguyên trong “Phổ Khuyến Tọa Thiền Nghi”, ghi lại tất cả những điều vi diệu, những sở đắc trong thời gian tinh tấn thực hành Thiền định, trong tác phẩm “Tọa Thiền Dụng Tâm Ký” khiến cho nhứt thời Thiền tọa phổ biến khắp mọi nơi.
Thứ ba, căn cứ “Vĩnh Bình Thanh Quy”, thanh quy lý tưởng và dựa vào nguyên tắc thích hợp, để bổ sung thêm và biên soạn tác phẩm “Oánh Sơn Hòa Thượng Thanh Quy”, mà trong Thanh Quy nầy phân định rõ ràng những công việc lễ bái từng ngày, từng tháng và từng năm một cách cụ thể. Tác phẩm “Oánh Sơn Hòa Thượng Thanh Quy” về sau hầu như được ứng dụng trong các đạo tràng tu hành của những tự viện thuộc Tông Tào Động, được xem như quyển sách gối đầu để thực hành, không ai mà không biết đến.
Thứ tư, lập trường của Thiền Sư Đạo Nguyên rất chính thống, thuần túy và nhứt quán được ghi lại trong tác phẩm “Truyền Quang Lục”. Tác phẩm nầy giải thích rõ những vấn đề truyền thống, lịch sử, tâm linh v.v... của tác phẩm “Chánh Pháp Nhãn Tạng”.
Thứ năm, căn cứ nguyên bản “Chánh Pháp Nhãn Tạng” của Thiền Sư Đạo Nguyên, cả Tông môn nổ lực sưu tập, chỉnh lý, nghiên cứu học tập, kế thừa tông chỉ, không cho thất lạc.
Thứ sáu, góp nhặt những mẫu chuyện đời của Thiền Sư Như Tịnh, bổn sư của Thiền Sư Đạo Nguyên và Thiền Sư Đạo Nguyên, Thiền Sư Hoài Tráng, Thiền Sư Nghĩa Giới viết thành các tác phẩm như “Tam Đại Tôn Hành Trạng Ký”, “Động Sơn Truyền Đăng Viện Ngũ Lão Ngộ Tắc Tịnh Hành Nghiệp Lược Ký”, trùng tu các mộ tháp chư vị Tổ Sư ở chùa Vĩnh Thừa và Vĩnh Quang.
Đặc biệt, tại khai sơn đường của chùa Vĩnh Quang, Thiền Sư Oánh Sơn ghi lại sự nghiệp vĩ đại, công hạnh xử trí và việc điều hành giáo đoàn.
Thứ bảy, như trên đã nói, không chỉ đối với Tăng lữ phải hòa hợp mà người tại gia cũng được Ngài khuyên nên vui hòa với nhau. Đa phần tín đồ thuộc tầng lớp nông dân địa phương cho nên phải có sự hòa hợp, hòa kính tin thân nhau. Ngoài ra, Ngài còn soạn thảo nhiều tác phẩm ghi chú, hướng dẫn các chùa viện điều hành và giải quyết vấn đề ổn thỏa những vấn đề trong chùa, bởi vì nếu không có sự hộ trì của đàn na tín thí, Tăng đoàn khó có thể tu hành trong các tự viện được. Hơn nữa, Ngài cho rằng: “Phải kính tín đồ như Phật”, mà quan điểm nầy, ngay cả Ngài Đạo Nguyên Thiền Sư cũng chưa trọn vẹn.
Thứ tám, tiếp tục duy trì thành phần nữ giới trong các Phật sự, tôn trọng chư Ni như kính trọng Tăng, đặt pháp tự cho Ni và giao cho chức trụ trì nữa, mà phải nói rằng đây là những việc làm mới nhất, ngay cả khi Thiền Sư Đạo Nguyên còn sanh tiền không thực hiện được.
Thứ chín, xây dựng rất nhiều chùa, chăm lo việc đào tạo thế hệ đệ tử. Thiền Sư Đạo Nguyên chỉ xây được hai ngôi chùa, nuôi được ba vị đệ tử. Nhưng Thiền Sư Oánh Sơn tạo ra bảy ngôi chùa và có hơn sáu người đệ tử tiếp tục kế truyền. Sau đó chẳng bao lâu, Thiền Sư Minh Phong (Meiho) đệ tử lớn nhất của Thiền Sư Oánh Sơn phát triển thêm 12 chùa. Đến thời Thiền Sư Nga Sơn (Gasan) cội cây được chiết thành 25 cành, cứ như thế lần lượt các môn hạ phát sanh cho đến thời Thiền Sư Nga Sơn, Chùa Tổng Trì, đệ tử được rải đều khắp toàn quốc. Bây giờ tổng cộng là 15.000 ngôi chùa, trong số đó 70 phần trăm là những tự viện thuộc Tào Động Tông mà Thiền Sư Oánh Sơn và Thiền Sư Nga Sơn là những vị Tổ kế thừa và trực tiếp điều hành. Với sự phát triển rất thiết thực ấy, Thiền Sư Oánh Sơn được tôn kính là vị Tổ trong giáo đoàn.
II.3.4 Cuộc Đời Của Cao Tổ Đạo Nguyên Thiền Sư
II.3.4.1 Sinh Trưởng Tại Kyoto
Thiền Sư Đạo Nguyên, Cao Tổ là người Nhật, sanh ra trong một giai cấp thượng lưu, tại Cửu Ngả Áp (Koganosho), Kyoto giữa thời đại Kamakura, thời đại mà xã hội chính trị bước sang thời kỳ quá độ, giai cấp quý tộc phải đối đầu với giai cấp Võ Sĩ. Ngài sinh năm thứ 2 Chính Trị - Seiji. Thân phụ là Nội Các Đại Thần, Cửu Ngã Thông Thân (Gamichichika) và thân mẫu là con gái của Nhiếp Chính Quan Bạch Đằng Nguyên Cơ Phòng (Fujiwara Motofusa).
II.3.4.2 Xuất Gia và Tu Hành
Năm lên ba tuổi, Ngài mồ côi cha và tám tuổi mồ côi mẹ. Trước tình cảnh đau thương như thế, Ngài cảm nhận cuộc đời vô thường, đầy đớn đau. Năm lên 14, năm Kiến Bảo Nguyên Niên, Ngài xin phép Thúc phụ đến Tỷ Duệ Sơn, xuất gia với Tăng Chánh Công Viên (Koen), tọa chủ Tông Thiên Thai, trở thành Tăng Sĩ của Tông Thiên Thai, một Tông Phái dành cho con cái của những nhà quyền quý đương thời, thường hay đến xuất gia học đạo tại các chùa như Tỷ Duệ Sơn, Cao Dã Sơn, chùa ở Nara.
Trong thời gian tu học tại Tỷ Duệ Sơn, Ngài cưu mang hoài nghi rằng nếu từ lúc sanh ra, con người vốn có Tánh Phật song tại sao phải tu hành, bởi vì giáo học của Tông Thiên Thai thuộc giáo lý Đại Thừa Phật Giáo cho rằng ai cũng là Phật, thế thì đã là Phật tại sao phải tu. Thật ra, hoài nghi nầy không phải chỉ riêng Ngài mà dường như là một phong trào ưu tư về lý tưởng thành Phật và pháp môn tu hành để thành Phật. Nói theo ngôn ngữ bây giờ, ưu tư con người là gì? Và tại sao con người phải sống, thọ nhận những sự khổ não như vậy?
Thế nhưng tại Tỷ Duệ Sơn chẳng có ai giải đáp cho Thiền Sư Đạo Nguyên thỏa mãn. Năm 15 tuổi, năm Kiến Bảo thứ 2, Ngài hạ sơn đến tham bái với Tăng Chánh Công Dận (Koin), chùa Tam Tỉnh song cũng không được giải thích thấu đáo. Thời gian Ngài lưu lại chùa Tam Tỉnh, có một sự kiện xảy ra là Tăng đồ của Tỷ Duệ Sơn tranh chấp xảy ra hỏa hoạn thiêu rụi Đường Tháp, Ngài nhận thấy ở với Công Dận Tăng Chánh cũng khó có thể duy trì chánh tín. Ngài Công Dận Tăng Chánh là bạn của Thiền Sư Vinh Tây (Eisai), chùa Kiến Nhân (Kennin) tại Kyoto, mà Thiền Sư Vinh Tây là Tăng của Thông Thiên Thai, người thổi ngọn gió Thiền đến Nhật truyền thừa cho Ngài Xán Tăng, viên tịch năm thứ 3 Kiến Bảo. Năm Kiến Bảo thứ 5, Ngài 18 tuổi, được sự giới thiệu của Thiền Sư Công Dận, Ngài trở thành đệ tử học Thiền Lâm Tế với Hòa Thượng Minh Toàn (Myozen), một trong những vị đệ tử của Ngài Vinh Tây, bởi vì Thiền Sư Đạo Nguyên nghĩ rằng đương thời Thiền là thời kỳ cuối của Phật Giáo, nên chọn Hòa Thượng Minh Toàn học Thiền. Gặp Ngài, Hòa Thượng Minh Toàn biết là một vị Tăng nhiệt tâm cầu đạo, liền hứa khả tận tâm truyền trao áo nghĩa của Thiền, song cho đến năm sau, Ngài vẫn không sao giải tỏa những hoài nghi của mình cho nên lúc 24 tuổi, Năm Trinh Ứng thứ 2, Ngài từ giả Hòa Thượng Minh Toàn lên đường sang Trung Hoa cầu học.
II.3.4.3 Vị Thầy Chính – Như Tịnh Thiền Sư
Văn hóa Nhật phát triển từ Trung Hoa, một trong những nơi được xem là chiếc nôi Phật Giáo. Thời đó, ai ai về chốn Tổ ở Trung Hoa, cũng vì mục đích cầu đạo, tìm con đường Phật pháp chơn chánh. Thế nhưng lúc bấy giờ Thiền môn Trung Hoa, chư Tăng đã sa đọa, có quá nhiều hạng người vô danh tiểu tốt, tiếp tay với quyền hành thế gian, không còn bổn nguyện, còn những bậc đạo cao đức trọng dường như bị nhận chìm vào thế tục. Trước hoàn cảnh như vậy, Thiền Sư Đạo Nguyên ngán ngẫm, nhiều lúc có ý định trở về quê nhà. Tình cờ gặp Thiền Sư Như Tịnh, đời thứ 31 thuộc Thiên Đồng Sơn Cảnh Đức Tự, tại Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang, Ngài liền phát nguyện tinh tấn tu hành một cách mãnh liệt suốt thời gian khá dài cho đến năm Gia Lục nguyên niên, năm Ngài 26 tuổi, chứng đắc “thân tâm thoát lạc”.
Đối với Thiền Sư Đạo Nguyên, Thiền Sư Như Tịnh là một ân nhân vạch ra con đường giải thoát chân chánh, thật chứng để Ngài Đạo Nguyên đi suốt cuộc đời của mình. Trong lịch sử Phật Giáo Trung Hoa, Thiền Sư Như Tịnh là người không có danh vị, cả đời che thân chỉ một chiếc áo gai, ngồi thiền miên mật, tu hành không thối chuyển. Khi gặp Thiền Sư Như Tịnh lần đầu tiên, Thiền Sư Đạo Nguyên liền nhận ra một Thiền Sư khả kính đầy ấn tượng, nghe trong lòng dâng lên một niềm cảm kích và tự nói rằng “gặp được thánh nhân”. Hơn nữa, qua cuộc đời hành đạo của Thiền Sư Đạo Nguyên, có thể nói rằng danh của Thiền Sư Như Tịnh được lưu truyền cho hậu thế.
II.3.4.4 Thân Tâm Thoát Lạc
“Thân Tâm Thoát Lạc” nghĩa là thân tâm được giải thoát hoàn toàn, bởi vì cởi bỏ tất cả những gì trói buộc và cột chặt từ xưa. Thật ra, ai cũng có thể là con người thân tâm thoát lạc, bởi vì dẫu ở đâu, bất cứ lúc nào, sống cuộc sống an nhiên là tự do rồi. Một khi đã rõ biết, Phật cũng chẳng phải có mà phàm phu cũng không, chẳng phải tu hành mới được chứng đắc giải thoát. Mỗi cánh tay cử động, mỗi bước chân đi, mỗi hơi thở trong từng khoảng thời gian ấy, chính là hành trạng của một vị Phật đang sống. Chỉ điều nầy thôi, bất cứ vật gì cũng phải lưu tâm và tất cả đều bắt đầu từ đây và từ đây tiếp nhận vào, ngoài ra hầu như không có việc khác. Tất cả là hư ngôn, là những giả tưởng, cho nên sau khi Thiền Sư Đạo Nguyên về nước, tiếng nói đầu tiên của Ngài là “mắt vẫn nằm ngang ngay trên sống mũi” và “không thủ hoàn hương” (tay không trở lại cố hương). Thật tế, thâm tâm thoát lạc chẳng phải là điều gì đặc biệt giống như mắt bao giờ cũng nằm ngang trên mũi rất tự nhiên ai ai cũng biết, chẳng có gì đặc biệt cả, do vậy nói rằng trở về quê hương bằng hai tay không.
II.3.4.5 Hưng Thánh Tự
Năm lên 28 tuổi là năm An Trinh nguyên niên, Thiền Sư Đạo Nguyên lên bờ tại Kyushu. Trở về cố hương Kyoto với bộ cà sa của người du Tăng, Ngài đến thăm chùa Kiến Nhân trước nhất. Hòa Thượng Minh Toàn đã viên tịch khi Thiền Sư Đạo Nguyên còn ở Trung Hoa. Ngài đến chùa Cực Lạc ở trong một thảo am, sau đó Ngài qua An Dưỡng Viện. Năm 34 tuổi, năm Thiên Phước nguyên niên Ngài bắt đầu xây chùa Hưng Phước, tại đó Ngài xây Tăng Đường trang nghiêm như Tăng Đường ở Trung Hoa. Ngài ở chùa Hưng Phước tổng cộng 10 năm dạy Phật Pháp và Thiền cho trên 2000 người thọ giới. Ngài còn tạo hàng trăm cơ sở khác. Đặc biệt, Ngài biên soạn nhiều tác phẩm như “Phổ Khuyến Tọa Thiền Nghi”; “Biện Đạo Thoại”, “Học Đạo Dụng Tâm Tập”, “Điển Tọa Giáo Huấn”, đặc biệt tác phẩm “Chánh Pháp Nhãn Tạng”.
Với tình thầy trò, Thiền Sư Hoài Tráng, cao đệ của Ngài cũng ghi chép lời thầy giảng lại thành tác phẩm “Chánh Pháp Nhãn Tạng Tùy Văn Ký”, trong thời gian Thiền Sư Đạo Nguyên ở chùa Hưng Thánh vừa tọa thiền, vừa xiển dương Phật pháp giáo hóa rất nhiều người.
Thế nhưng, lập trường của Thiền Sư Đạo Nguyên thuộc tân hưng Phật Giáo (Phật Giáo cải cách) giống như tân hưng Phật Giáo Tịnh Độ Niệm Phật, cho nên Tỷ Duệ Sơn được thành lập trước tiên rồi cả một tăng đoàn tại Kyoto mới được thành lập, sau nầy tất cả đều nhận lãnh sự đàn áp bách hại và chùa Hưng Thánh bị thiêu rụi hoàn toàn.
II.3.4.6 Vĩnh Bình Tự
Năm Ngài 44 tuổi nhằm năm Khoan Nguyên nguyên niên, Ngài rời chùa Hưng Thánh đến Chỉ Tỷ Áp (Binosho) ở Việt Tiền, nơi có những tín đồ tin lục độ Ba La Mật, góp tiền dâng cúng đất ở Việt Tiền để làm việc nghĩa. Địa danh ấy cũng gọi là Việt Châu, giống như tên địa danh mà Thiền Sư Như Tịnh xuất thân. Nghe tin ấy, Ngài cảm động vô cùng. Ở Việt Tiền, Ngài ở những chùa cổ như Kiết Phong Tự, Thiền Sư Phong Tự v.v... và kiến tạo Đại Phật Tự (Daibutsuji). Sau nầy, Đại Phật Tự đã đổi thành Vĩnh Bình Tự vào năm Khoán Nguyên thứ 3, lúc Ngài 46 tuổi.
Thiền Sư Đạo Nguyên ở chùa Vĩnh Bình trước sau là 10 năm, chuyên chú hoàn thành tác phẩm “Chánh Pháp Nhãn Tạng”, đồng thời chế định thanh quy của Tăng Đoàn. Ngài vừa dạy dỗ đệ tử xuất gia vừa giáo hóa cho những đệ tử tại gia tại Kamakura. Thiền Sư Đạo Nguyên xem Chùa Vĩnh Bình như chỗ ẩn cư tránh mọi giao tiếp với bên ngoài, song không phải sống cô độc. Dẫu sao đi nữa, Ngài mở rộng con đường đạo cho nhiều người, mà hầu hết những người kế thừa Ngài đều tu đúng chánh pháp. Phải nói rằng đó chính là kết quả từ nổ lực của Ngài.
II.3.4.7 Thị Tịch Lúc 54 Tuổi
Thế nhưng, thời kỳ vô thường biến hoại của Thiền Sư Đạo Nguyên cũng đến. Thân thể Ngài bị ung nhọt, hành hạ Ngài ác liệt. Vì yêu mến chùa Vĩnh Bình, Ngài không muốn rời xa cho nên Ngài thệ rằng mãi mãi không rời nơi đây, song Ngài phải nhận lời thỉnh cầu của tín đồ về Kinh Đô (Kyoto). Cư sĩ Giác Niệm, đệ tử tại gia với Thiền Sư Hoài Tráng cao đệ và môn đồ hết lòng phụng dưỡng chữa trị song trải qua 20 ngày nghỉ ngơi, Ngài thị tịch ngày 28 tháng 8 âm lịch, nhằm Kiến Trường năm thứ 5 với tuổi đời là 54.
II.3.5 Cuộc Đời Của Thái Tổ Oánh Sơn Thiền Sư
II.3.5.1 Sống ở Việt Tiền
Sau khi Cao Tổ - Thiền Sư Đạo Nguyên viên tịch, Thái Tổ - Thiền Sư Oánh Sơn lưu lại Việt Tiền đến năm Văn Vĩnh thứ 5, sau thời Kamakura tổng cộng 15 năm. Lúc bấy giờ sứ giả Mông Cổ đến Phủ Tể Tướng cấm việc giao thông làm cho chính quyền Bắc Điều Thời Tông kháng cự lại, đất nước đến lúc lâm nạn thật gian nan khổ sở. Thiền Sư Hoài Tráng, trưởng tử của Thiền Sư Đạo Nguyên là đời thứ 2 của Chùa Vĩnh Bình, Thiền Sư Nghĩa Giới, đệ tử Thiền Sư Hoài Tráng là đời thứ 3 của Chùa Vĩnh Bình, Thiền Sư Oánh Sơn là tổ thứ 4 kể từ Thiền Sư Đạo Nguyên.
Có một nhân duyên cảm ứng bất khả tư nghì, Thiền Sư Oánh Sơn sinh tại Đa Nhĩ (Tane), nằm dưới chân chùa Vĩnh Bình. Thân phụ của Ngài là Liễu Nhàn Thượng Tọa (Kyokan Joza) thật, hư không rõ. Thân mẫu Ngài là Hoài Quán Đại Tỷ (Ekan Daishi). Thật ra, việc nầy không rõ ràng lắm. Tuy nhiên một điều chắc chắn rằng Ngài không xuất thân từ giai cấp quý tộc như Thiền Sư Đạo Nguyên. Ngài có nhân duyên rất ít đối với thân phụ, nhưng lại có nhiều với Thiền Sư Đạo Nguyên.
II.3.5.2 Xuất gia và Tu Hành
Ưu Bà Di Minh Trí (Myochi), bà ngoại của Thiền Sư Oánh Sơn là người mà Thiền Sư Đạo Nguyên gặp đầu tiên lúc từ Trung Hoa về lập Chùa Kiến Nhân, Kyoto. Nói cách khác, bà Ngoại của Ngài rất kính tín Thiền Sư Đạo Nguyên, trước khi Ngài ra đời, phải chăng đây là duyên Phật của Ngài, cũng có thể gọi là túc duyên sẵn có, bởi vì gia đình Ngài rất sùng tín Tam Bảo, bà Ngoại, Ưu Bà Di Minh Trí và mẹ, Hoài Quán Đại Tỉ đều sùng tín Đức Quan Âm. Năm vừa lên 8, nhằm năm Kiến Trị nguyên niên, Ngài theo Ngoại đến chùa gặp Thiền Sư Nghĩa Giới, Tổ thứ 3 của chùa Vĩnh Bình, liền xin xuất gia làm đệ tử Phật. Thiền Sư Nghĩa Giới cũng sanh ra ở Việt Tiền, là người đồng hương của Thiền Sư Oánh Sơn. Từ năm 8 tuổi vào chùa Vĩnh Bình của Ngài Đạo Nguyên cho đến năm 58 tuổi Ngài viên tịch vẫn kiên giữ một phái duy nhất và tắm gội trong dòng pháp của Thiền Sư Đạo Nguyên, cho nên môn hạ của Vĩnh Bình cho rằng Thiền Sư Oánh Sơn thuần huyết thống, nếu không muốn nói là giống như đúc.
II.3.5.3 Ba Vị Tổ Sư: Nghĩa Giới, Hoài Tráng, Tịch Viên
Thiền Sư Nghĩa Giới lúc nào cũng muốn nối kết nhân duyên với Thiền Sư Đạo Nguyên, để được thân cận trong mọi điều kiện có thể. Thiền Sư Hoài Tráng và Thiền Sư Oánh Sơn cũng vậy. Riêng Thiền Sư Hoài Tráng là đệ tử sau cùng vào năm Hoằng An thứ 3. Tuy nhiên, khi Thiền Sư Oánh Sơn mới 13 tuổi mà Thiền Sư Hoài Tráng đã 82 rồi. Lúc Thiền Sư Hoài Tráng viên tịch, Thiền Sư Oánh Sơn xem như không còn lãnh thọ tôn chỉ Thiền Sư Đạo Nguyên trực tiếp nữa, bởi vì Thiền Sư Đạo Nguyên chỉ có 2 người đệ tử đặc biệt mà thôi. Nhờ nối kết được Phật duyên sâu xa như vậy, sau nầy Thiền Sư Oánh Sơn đương nhiên trở thành Tổ Sư, không ai khác hơn được.
Thiền Sư Tịch Viên cũng là đệ tử của Thiền Sư Đạo Nguyên từ lúc Ngài ở Trung Hoa về, kiến lập chùa Bảo Khánh (Hokyo) tại Ono. Lúc đó Ngài Tịch Viên mới có 19 tuổi rời cuộc sống thế gian xuất gia tu hành nghiêm túc, chứng ngộ giải thoát. Ngài Đạo Nguyên viên tịch, nội bộ chùa Vĩnh Bình bất ổn, Thiền Sư Nghĩa Giới và Thiền Sư Oánh Sơn tiễn đưa Thiền Sư Tịch Viên quy ẩn.
II.3.5.4 Bình Thường Tâm Thị Đạo
Năm 22 tuổi nhằm vào năm Chánh Ứng thứ 2, Ngài giã từ Thiền Sư Nghĩa Sơn hạ sơn đến cư trú tại chùa Đại Thừa ở Gia Hạ, quyết tâm ngồi thiền đến chứng ngộ. Năm 27 tuổi nhằm vào năm Vĩnh Nhân thứ 2, Ngài học về Thiền Công Án (đề tài) “Bình Thường Tâm Thị Đạo” liền khai ngộ, được Thiền Sư Nghĩa Giới ấn chứng.
“Bình thường tâm thị đạo” là một công án hỏi đáp rất nổi tiếng của hai vị Thiền Tăng đời nhà Đường ở Trung Quốc, đó là Thiền Sư Nam Tuyền Phổ Nguyện và đệ tử là Thiền Sư Triệu Châu Tòng Niệm. Triệu Châu hỏi rằng: “Cốt tủy của Phật giáo là gì?” Nam Tuyền Thiền Sư đáp: “Tâm bình thường là đạo”.
Tâm bình thường là đạo nghĩa là tâm bình thường là cốt tủy của Phật đạo vậy. Bình thường tâm chúng ta rất tự tại, không lưu tâm, tâm đó được gọi là tâm bình thường, tâm uyên nguyên, ngay thẳng. Thiền Sư Oánh Sơn đã lãnh hội tâm bình thường, cho nên Thiền Sư Nghĩa Giới ấn chứng là người kế thừa Đại Thừa vậy.
II.3.5.5 Khai Mở Chùa Vĩnh Quang và Chùa Tổng Trì
Năm 28 tuổi nhằm năm Vĩnh Nhân thứ 4, Ngài xây dựng Chùa Thành Mãn (Joman) ở Aba, huyện Tokushima. Có năm người đệ tử thọ giới với Ngài, sau đó có đến 70 người thọ giới. Thời gian ấy, Thiền Sư Nghĩa Giới cũng đã lớn tuổi cần người thị giả, nên Ngài phải về chùa Đại Thừa. Năm 35 tuổi, nhằm năm Càn Nguyên nguyên niên, Ngài trở thành vị trụ trì thứ 2 chùa Đại Thừa, đề xướng “Truyền Quang Lục”, và biên soạn tác phẩm “Tọa Thiền Dụng Tâm Ký”.
Năm 46 tuổi, nhằm năm Chánh Hòa thứ 2, Ngài khai sáng Chùa Vĩnh Quang, tại phố Hakui, thuộc Năng Đăng, soạn tác phẩm “Oánh Sơn Hòa Thượng Thanh Quy” và sao chép “Đổng Cốc Ký”. Hầu như tất cả các tác phẩm chú văn, trí văn đều làm ở đây (ghi chú các câu văn và phối trí lại lời văn). Ngài còn kiến tạo Ngũ Lão Phong, nuôi dưỡng nhiều đệ tử tại đây. Ngoài ra, Ngài còn thành lập nhiều chùa viện ở nơi khác. Sau nầy, Thiền Sư Minh Phong, cao đệ của Ngài, hộ trì và bảo quản Chùa Đại Thừa cũng như những cơ sở khác.
Năm 57 tuổi, nhằm năm Chánh Trung nguyên niên, Ngài khai sáng Chùa Tổng Trì, huyện Ishikawa, quận Phụng Chí (Fugeshi) thuộc Năng Đăng. Chùa Tổng Trì, về sau được Thiền Sư Nga Sơn, Cao Đệ hướng dẫn dần dần nơi đây trở thành chiếc nôi phát triển mạnh mẽ thành giáo đoàn Tông Tào Động, gọi là Đại Bổn Sơn Tông Tào Động, môn phong ấy là gạch nối cho thiên hạ ngồi chung lại với nhau. Phải nói rằng nếu không có Thiền Sư Oánh Sơn đăng trường (nhập cuộc), giáo đoàn Tông Tào Động không thể được như bây giờ.
II.3.5.6 Viên Tịch Tại Chùa Vĩnh Quang
Sinh ra và lớn lên ở miền Bắc và nửa đời hoạt động của Ngài cũng ở miền Bắc, dù phạm vi hoạt động không rộng lắm, nhưng rất thỉ chung. Sau nầy, Tông phái phát triển và mở rộng vượt qua ranh giới, khai sơn phá thạch đến các địa bàn khác và lan truyền ra toàn cõi Nhật Bản.
Vào ngày 15 tháng 8 âm lịch, năm Trung Chánh thứ hai , sau khi giao lại trách nhiệm cho Thiền Sư Nga Sơn tại chùa Tổng Trì, Thiền Sư Oánh Sơn trở về Chùa Vĩnh Quang, ngôi chùa trở thành nơi an nghỉ ngàn thu của Thiền Sư Oánh Sơn cũng như lưu giữ tro cốt của Ngài.