Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần [3.4b]

18/04/201318:17(Xem: 11522)
Phần [3.4b]

Tạng Luật
Vinayapitaka

Phân Tích Giới Tỷ-Kheo Ni
(Bhikkhunivibhanga)

Tỳ kheo Indacanda Nguyệt Thiêndịch
---o0o---

IV. CHƯƠNG ƯNG ĐỐI TRỊ (Pācittiyakaṇḍaṃ)(tiếp theo)

PHẦN LÕA THỂ - ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT

[220] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, nhiều tỷ-kheo ni lõa thể tắm chung với các cô điếm ở một bến tắm nơi giòng sông Aciravatī. Các cô điếm đã chế giễu các tỷ-kheo ni ấy rằng:

- Các bà đại đức ơi, vì điều gì mà các bà thực hành Phạm hạnh trong lúc đang còn trẻ vậy? Chớ không phải là các dục lạc nên được thỏa thích hay sao? Khi nào trở nên già cả, khi ấy các bà sẽ thực hành Phạm hạnh, như thế các bà sẽ vớ được cả hai đầu mối.

Trong khi bị các cô điếm chế giễu, các tỷ-kheo ni ấy đã mắc cở. Sau đó, các tỷ-kheo ni ấy đã đi về tu viện và đã kể lại sự việc ấy cho các tỷ-kheo ni. Các tỷ-kheo ni đã kể lại sự việc ấy cho các tỷ-kheo. Các tỷ-kheo đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy sau khi thuyết Pháp thoại đã bảo các tỷ-kheo rằng:

- Này các tỷ-kheo, như thế thì ta sẽ quy định điều học cho các tỷ-kheo ni vì mười điều lợi ích: Nhằm đem lại sự tốt đẹp cho hội chúng, ...(như trên)... và nhằm sự hỗ trợ Luật. Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào lõa thể tắmthì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[221] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Lõa thể tắm: vị ni không quấn y hoặc không choàng y rồi tắm. Trong lúc thực hiện thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Khi tắm xong thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

[222] Vị ni có y (choàng tắm) bị cướp đoạt, hoặc vị ni có y (choàng tắm) bị hư hỏng, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN LÕA THỂ - ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ:

[223] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, vải choàng tắm của các tỷ-kheo ni đã được đức Thế Tôn cho phép. Các tỷ-kheo ni nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Vải choàng tắm đã được đức Thế Tôn cho phép” rồi đã mặc những vải choàng tắm không đúng kích thước. Các vị trong khi để lòng thòng ở phía trước và phía sau rồi đi đó đây. Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo ni nhóm Lục Sư lại mặc những vải choàng tắm không đúng kích thước?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo ni nhóm Lục Sư mặc những vải choàng tắm không đúng kích thước, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao các tỷ-kheo ni nhóm Lục Sư lại mặc những vải choàng tắm không đúng kích thước vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Trong khi cho thực hiện vải choàng tắm, vị tỷ-kheo ni nên bảo làm theo kích thước. Ở đây, kích thước này là chiều dài bốn gang tay, chiều rộng hai gang theo gang tay của đức Thiện Thệ. Nếu vượt quá mức ấy thì (vải choàng tắm) nên được cắt bớt và phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[224] Vải choàng tắm nghĩa là vật mà vị ni quấn vào rồi tắm.

Trong khi cho thực hiện: trong khi (tự) làm hoặc trong khi bảo làm. Nên bảo làm theo kích thước. Ở đây, kích thước này là chiều dài bốn gang tay chiều rộng hai gang theo gang tay của đức Thiện Thệ.[1]Nếu vị (tự) làm hoặc bảo làm vượt quá mức ấy thì phạm tội tác ác (dukkaṭa) trong lúc thực hiện. Do sự đạt được thì nên cắt bớt rồi nên sám hối tội ưng đối trị (pācittiya).

[225] Vị ấy tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong, vị ấy phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa làm xong, vị ấy phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Vị ấy tự mình hoàn tất phần những người khác chưa làm xong, vị ấy phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Những người khác hoàn tất phần những người khác chưa làm xong, vị ấy phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Vị tự làm hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Được làm bởi người khác, vị có được rồi sử dụng thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

[226] Vị ni làm theo kích thước, vị ni làm nhỏ hơn, do người khác làm quá kích thước sau khi có được thì cắt bớt rồi sử dụng, vị ni làm mái che hoặc tấm lót nền hoặc khung màn chắn xung quanh hoặc nệm hoặc gối kê, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN LÕA THỂ - ĐIỀU HỌC THỨ BA:

[227] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, y bằng vải y đắt giá của vị tỷ-kheo ni nọ đã được làm xấu xí, đã được khâu vụng về. Tỷ-kheo ni Thullanandā đã nói với tỷ-kheo ni ấy điều này:

- Này ni sư, vải y này của cô tuyệt đẹp nhưng y đã được làm xấu xí, đã được khâu vụng về.

- Này ni sư, tôi tháo rời ra, có phải cô sẽ khâu lại?

- Này ni sư, đúng vậy. Tôi sẽ khâu lại.

Khi ấy, vị tỷ-kheo ni ấy đã tháo rời y ấy rồi đã trao cho tỷ-kheo ni Thullanandā. Tỷ-kheo ni Thullanandā (nghĩ rằng): “Ta sẽ khâu lại, ta sẽ khâu lại” nhưng không khâu lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) khâu lại. Sau đó, vị tỷ-kheo ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỷ-kheo ni. Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao ni sư Thullanandā sau khi bảo tháo rời y của vị tỷ-kheo ni rồi không khâu lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) khâu lại?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói tỷ-kheo ni Thullanandā sau khi bảo tháo rời y của vị tỷ-kheo ni rồi không khâu lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) khâu lại, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao tỷ-kheo ni Thullanandā sau khi bảo tháo rời y của vị tỷ-kheo ni rồi không khâu lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) khâu lại vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào khi đã tháo rời hoặc bảo tháo rời y của vị tỷ-kheo ni, vị ni ấy sau đó không gặp trở ngại vẫn không khâu lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) khâu lại ngoại trừ trong bốn ngày hoặc năm ngày thì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[228] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Của vị tỷ-kheo ni: của vị tỷ-kheo ni khác.

Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y.

Khi đã tháo rời: sau khi tự mình tháo rời.

(Sau khi) bảo tháo rời: sau khi bảo người khác tháo rời.

Vị ni ấy sau đó không gặp trở ngại: khi trở ngại không có.

Vẫn không khâu lại: không tự mình khâu lại.

Không nỗ lực trong việc bảo (người khác) khâu lại: không chỉ thị người khác.

Ngoại trừ trong bốn ngày hoặc năm ngày: trừ ra trong bốn ngày hoặc năm ngày.

(Nghĩ rằng): “Ta sẽ không khâu lại, ta sẽ không nỗ lực trong việc bảo (người khác) khâu lại,” trong việc buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

[229] Người nữ đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị ni ấy khi đã tháo rời hoặc bảo tháo rời y sau đó không gặp trở ngại vẫn không khâu lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) khâu lại ngoại trừ trong bốn ngày hoặc năm ngày thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Người nữ đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị ni ấy khi đã tháo rời hoặc bảo tháo rời y sau đó không gặp trở ngại vẫn không khâu lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) khâu lại ngoại trừ trong bốn ngày hoặc năm ngày thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Người nữ đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị ni ấy khi đã tháo rời hoặc bảo tháo rời y sau đó không gặp trở ngại vẫn không khâu lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) khâu lại ngoại trừ trong bốn ngày hoặc năm ngày thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Vị ni ấy khi đã tháo rời hoặc bảo tháo rời vật phụ tùng khác sau đó không gặp trở ngại vẫn không khâu lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) khâu lại ngoại trừ trong bốn ngày hoặc năm ngày thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Vị ni ấy khi đã tháo rời hoặc bảo tháo rời y hoặc vật phụ tùng khác của người nữ chưa tu lên bậc trên sau đó không gặp trở ngại vẫn không khâu lại cũng không nỗ lực trong việc bảo (người khác) khâu lại ngoại trừ trong bốn ngày hoặc năm ngày thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Người nữ chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Người nữ chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Người nữ chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

[230] Trong khi có trở ngại, vị ni đã tầm cầu nhưng không có được (thời gian), trong khi làm vị ni ấy vượt quá bốn ngày hoặc năm ngày, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN LÕA THỂ - ĐIỀU HỌC THỨ TƯ:

[231] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ni sau khi trao y tận tay của các tỷ-kheo ni rồi ra đi du hành trong xứ sở với y nội và thượng y. Các y ấy được để lại lâu ngày trở nên mốc meo. Các tỷ-kheo ni đem phơi nắng các y ấy. Các tỷ-kheo ni đã nói với các tỷ-kheo ni ấy điều này:

- Này các ni sư, các y bị mốc meo này là của vị nào vậy?

Khi ấy, các tỷ-kheo ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỷ-kheo ni. Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo ni sau khi trao y tận tay của các tỷ-kheo ni lại ra đi du hành trong xứ sở với y nội và thượng y?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo ni sau khi trao y tận tay của các tỷ-kheo ni rồi ra đi du hành trong xứ sở với y nội và thượng y, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao các tỷ-kheo ni sau khi trao y tận tay của các tỷ-kheo ni lại ra đi du hành trong xứ sở với y nội và thượng y vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào trải qua năm ngày thiếu vắng y hai lớp (saṅghāṭi) thì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[232] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Trải qua năm ngày thiếu vắng y hai lớp (saṅghāṭi): trong năm ngày vị ni không quấn hoặc không trùm hoặc không phơi nắng năm y, trải qua năm ngày thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).[2]

[233] Khi đã trải qua năm ngày, nhận biết là đã trải qua, phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Khi đã trải qua năm ngày, có sự hoài nghi, phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Khi đã trải qua năm ngày, (lầm) tưởng là chưa trải qua, phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Khi chưa trải qua năm ngày, (lầm) tưởng là đã trải qua, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Khi chưa trải qua năm ngày, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Khi chưa trải qua năm ngày, nhận biết là chưa trải qua, thì vô tội.

[234] Trong năm ngày vị ni quấn hoặc trùm hoặc phơi nắng năm y, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN LÕA THỂ - ĐIỀU HỌC THỨ NĂM:

[235] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có tỷ-kheo ni nọ sau khi đi khất thực đã trải ra tấm y bị ẩm ướt rồi đi vào trong trú xá. Có vị tỷ-kheo ni khác đã choàng lên y ấy rồi đi vào làng để khất thực. Vị ni kia đi ra đã hỏi các tỷ-kheo ni rằng:

- Này các ni sư, các vị có nhìn thấy y của tôi không?

Các tỷ-kheo ni đã kể lại sự việc ấy cho vị tỷ-kheo ni ấy. Khi ấy, vị tỷ-kheo ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao vị tỷ-kheo ni trùm y của tôi mà không hỏi ý?

Sau đó, vị tỷ-kheo ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỷ-kheo ni. Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao vị tỷ-kheo ni trùm y của vị tỷ-kheo ni mà không hỏi ý?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói vị tỷ-kheo ni trùm y của vị tỷ-kheo ni mà không hỏi ý, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao vị tỷ-kheo ni trùm y của vị tỷ-kheo ni mà không hỏi ý vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào sử dụng y căn bản (của vị ni khác) thì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[236] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Y căn bản nghĩa là y nào đó trong năm y của người nữ đã tu lên bậc trên. Vị ni quấn hoặc trùm y chưa được vị ni kia cho, hoặc chưa hỏi ý vị ni kia thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

[237] Người nữ đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị sử dụng y căn bản thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Người nữ đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị sử dụng y căn bản thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Người nữ đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị sử dụng y căn bản thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Vị ni sử dụng y căn bản của người nữ chưa tu lên bậc trên thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Người nữ chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Người nữ chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Người nữ chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

[238] Vị ni kia cho, vị ni có hỏi ý vị ni kia rồi quấn hoặc trùm lên, vị ni có y bị cướp đoạt, vị ni có y bị hư hỏng, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN LÕA THỂ - ĐIỀU HỌC THỨ SÁU:

[239] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, gia đình hộ độ của tỷ-kheo ni Thullanandā đã nói với tỷ-kheo ni Thullanandā điều này:

- Thưa ni sư, tôi sẽ dâng y đến hội chúng tỷ-kheo ni.

Tỷ-kheo ni Thullanandā đã tạo chướng ngại (nói rằng):

- Các người có nhiều phận sự, có nhiều công việc cần phải làm.

Vào lúc bấy giờ, ngôi nhà của gia đình ấy bị cháy. Những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Tại sao ni sư Thullanandā lại ngăn cản việc bố thí của chúng tôi khiến chúng tôi bị xa lìa cả hai là tài sản và phước báu?

Các tỷ-kheo ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao ni sư Thullanandā lại ngăn cản lợi lộc về y của nhóm?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói tỷ-kheo ni Thullanandā ngăn cản lợi lộc về y của nhóm, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao tỷ-kheo ni Thullanandā lại ngăn cản lợi lộc về y của nhóm vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào ngăn cản lợi lộc về y của nhómthì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[240] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Nhómnghĩa là hội chúng tỷ-kheo ni được đề cập đến.

Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y (có kích thước) tối thiểu cần phải chú nguyện để dùng chung.

Ngăn cản: vị ngăn cản (hỏi rằng): “Các người bố thí y này như thế nào?” thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Vị ngăn cản vật phụ tùng khác thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Vị ngăn cản y hoặc vật phụ tùng khác của nhiều vị tỷ-kheo ni hoặc của một vị tỷ-kheo ni hoặc của người nữ chưa tu lên bậc trên thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

[241] Vị ni ngăn cản sau khi chỉ rõ sự lợi ích, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN LÕA THỂ - ĐIỀU HỌC THỨ BẢY:

[242] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có y ngoài hạn kỳ phát sanh đến hội chúng tỷ-kheo ni. Khi ấy, hội chúng tỷ-kheo ni có ý định phân chia y ấy nên tụ hội lại. Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ni học trò của tỷ-kheo ni Thullanandā đang đi vắng. Tỷ-kheo ni Thullanandā đã nói với các tỷ-kheo ni ấy điều này:

- Này các ni sư, các tỷ-kheo ni đang đi vắng, trong khi ấy y sẽ không được chia.

Rồi đã ngăn cản sự phân chia y. Các tỷ-kheo ni (nghĩ rằng): “Trong khi ấy y sẽ không được chia” nên đã ra đi. Đến khi các tỷ-kheo ni học trò trở về lại, tỷ-kheo ni Thullanandā đã bảo người phân chia y ấy. Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao ni sư Thullanandā lại ngăn cản sự phân chia y đúng Pháp?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói tỷ-kheo ni Thullanandā ngăn cản sự phân chia y đúng Pháp, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao tỷ-kheo ni Thullanandā lại ngăn cản sự phân chia y đúng Pháp vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào ngăn cản sự phân chia y đúng Phápthì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[243] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Sự phân chia y đúng Phápnghĩa là hội chúng tỷ-kheo ni có sự hợp nhất tụ hội lại rồi phân chia.

Ngăn cản: vị ngăn cản (hỏi rằng): “Có thể phân chia y này như thế nào?” thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

[244] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị ngăn cản thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ngăn cản thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị ngăn cản thì vô tội.

Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, thì vô tội.

[245] Vị ni ngăn cản sau khi chỉ rõ sự lợi ích, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN LÕA THỂ - ĐIỀU HỌC THỨ TÁM:

[246] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỷ-kheo ni Thullanandā cho y của sa-môn đến các kịch sĩ, các vũ công, các người nhào lộn, các người ảo thuật, các người đánh trống (bảo rằng):

- Hãy nói lời khen ngợi về ta ở đám đông.

Các kịch sĩ, các vũ công, các người nhào lộn, các người ảo thuật, các người đánh trống đã nói lời khen ngợi về tỷ-kheo ni Thullanandā ở đám đông rằng:

- Ni sư Thullanandā là vị ni nghe nhiều, chuyên đọc tụng thuộc lòng, tự tin, rành rẽ về thuyết Pháp thoại. Hãy dâng cho ni sư. Hãy phục vụ cho ni sư.

Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao ni sư Thullanandā lại cho y của sa-môn đến người nam tại gia?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói tỷ-kheo ni Thullanandā cho y của sa-môn đến người nam tại gia, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao tỷ-kheo ni Thullanandā lại cho y của sa-môn đến người nam tại gia vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào cho y của sa-môn đến người nam tại gia hoặc nam du sĩ ngoại đạo hoặc nữ du sĩ ngoại đạo thì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[247] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Người nam tại gianghĩa là bất cứ người nam nào sống trong căn nhà.

Nam du sĩ ngoại đạonghĩa là bất cứ người nam thành tựu pháp du sĩ trừ ra tỷ-kheo và sa-di.

Nữ du sĩ ngoại đạonghĩa là bất cứ người nữ nào thành tựu pháp du sĩ trừ ra tỷ-kheo ni, vị ni tu tập sự, và sa-di ni.

Y của sa-môn nghĩa là đề cập đến việc làm thành được phép đã được thực hiện. Vị cho thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

[248] Vị ni cho đến cha mẹ, vị ni cho mượn (trong thời hạn), vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN LÕA THỂ - ĐIỀU HỌC THỨ CHÍN:

[249] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, gia đình hộ độ của tỷ-kheo ni Thullanandā đã nói với tỷ-kheo ni Thullanandā điều này:

- Thưa ni sư, nếu chúng tôi có khả năng, chúng tôi sẽ dâng y đến hội chúng tỷ-kheo ni.

Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ni sống qua mùa (an cư) mưa, có ý định phân chia y nên đã tụ họp lại. Tỷ-kheo ni Thullanandā đã nói với các tỷ-kheo ni ấy điều này:

- Này các ni sư, hãy chờ đợi. có sự mong mỏi về y cho hội chúng tỷ-kheo ni.

Các tỷ-kheo ni đã nói với tỷ-kheo ni Thullanandā điều này:

- Này ni sư, hãy đi và tìm hiểu về y ấy.

Tỷ-kheo ni Thullanandā đã đi đến gặp gia đình ấy, sau khi đến đã nói với những người ấy điều này:

- Này các đạo hữu, hãy dâng y đến hội chúng tỷ-kheo ni.

- Thưa ni sư, chúng tôi không thể dâng y đến hội chúng tỷ-kheo ni.

Tỷ-kheo ni Thullanandā đã kể lại sự việc ấy cho các tỷ-kheo ni. Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao ni sư Thullanandā khi sự mong mỏi về y không chắc chắn lại để cho vượt quá thời hạn về y?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói tỷ-kheo ni Thullanandā khi sự mong mỏi về y không chắc chắn lại để cho vượt quá thời hạn về y, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao tỷ-kheo ni Thullanandā khi sự mong mỏi về y không chắc chắn lại để cho vượt quá thời hạn về y vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào khi sự mong mỏi về y không chắc chắn lại để cho vượt quá thời hạn về y thì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[250] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Sự mong mỏi về y không chắc chắnnghĩa là lời nói đã được phát ra rằng: “Nếu chúng tôi có khả năng, chúng tôi sẽ dâng y.”

Thời hạn về y nghĩa là khi Kaṭhina không được thành tựu thì tháng cuối cùng của mùa mưa, khi Kaṭhina được thành tựu thì năm tháng.

Để cho vượt quá thời hạn về y: khi Kaṭhina không được thành tựu vị để cho vượt quá ngày cuối cùng của mùa mưa thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya). Khi Kaṭhina được thành tựu vị để cho vượt quá ngày Kaṭhina hết hiệu lực thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

[251] Khi y không chắc chắn, nhận biết là y không chắc chắn, vị để cho vượt quá thời hạn về y thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Khi y không chắc chắn, có sự hoài nghi, vị để cho vượt quá thời hạn về y thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Khi y không chắc chắn, (lầm) tưởng là được chắc chắn, vị để cho vượt quá thời hạn về y thì vô tội.

Khi y được chắc chắn, (lầm) tưởng là không chắc chắn, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Khi y được chắc chắn, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Khi y được chắc chắn, nhận biết là được chắc chắn, thì vô tội.

[252] Vị ni cản trở sau khi chỉ rõ sự lợi ích, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN LÕA THỂ - ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI:

[253] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có ngôi trú xá được dành cho hội chúng đã được người nam cư sĩ nọ cho xây dựng. Vào dịp lễ của ngôi trú xá ấy, người ấy có ý định dâng y ngoài hạn kỳ đến cả hai hội chúng. Vào lúc bấy giờ, kaṭhina của cả hai hội chúng đã được thành tựu. Khi ấy, người nam cư sĩ ấy đã đi đến gặp hội chúng và cầu xin sự thâu hồi Kaṭhina. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy sau khi thuyết Pháp thoại đã bảo các tỷ-kheo rằng:

- Này các tỷ-kheo, ta cho phép thâu hồi Kaṭhina. Và này các tỷ-kheo, Kaṭhina nên được thâu hồi như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi.Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thâu hồi Kaṭhina. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi.Hội chúng thâu hồi Kaṭhina. Đại đức nào đồng ý với việc thâu hồi Kaṭhina, vị ấy nên im lặng; vị nào không đồng ý, có thể nói lên.

Kaṭhina đã được hội chúng thâu hồi. Sự việc được hội chúng đồng ý nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[254] Sau đó, người nam cư sĩ ấy đã đi đến gặp hội chúng tỷ-kheo ni và cầu xin sự thâu hồi Kaṭhina. Tỷ-kheo ni Thullanandā (nghĩ rằng): “Sẽ có y cho chúng ta” nên đã ngăn cản sự thâu hồi Kaṭhina. Khi ấy, người nam cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Tại sao các tỷ-kheo ni không cho sự thâu hồi Kaṭhina của chúng tôi?

Các tỷ-kheo ni đã nghe được người nam cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao ni sư Thullanandā lại ngăn cản sự thâu hồi Kaṭhina đúng Pháp?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói tỷ-kheo ni Thullanandā ngăn cản sự thâu hồi Kaṭhina đúng Pháp, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao tỷ-kheo ni Thullanandā lại ngăn cản sự thâu hồi Kaṭhina đúng Pháp vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào ngăn cản sự thâu hồi Kaṭhina đúng Pháp thì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).”

[255] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là vị “tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Sự thâu hồi Kaṭhina đúng Phápnghĩa là hội chúng tỷ-kheo ni có sự hợp nhất tụ hội lại rồi thâu hồi.

Ngăn cản: vị ngăn cản (hỏi rằng): “Có thể thâu hồi Kaṭhina này như thế nào?” thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

[256] Đúng Pháp, nhận biết là đúng Pháp, vị ngăn cản thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ngăn cản thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Đúng Pháp, (lầm) tưởng là sai Pháp, vị ngăn cản thì vô tội.

Sai Pháp, (lầm) tưởng là đúng Pháp, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Sai Pháp, nhận biết là sai Pháp, thì vô tội.

[257] Vị ni ngăn cản sau khi chỉ rõ sự lợi ích, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

Phần Lõa thể là phần thứ ba.

*******

PHẦN DÙNG CHUNG - ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT:

[258] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ni hai (người) nằm chung trên một chiếc giường. Dân chúng trong lúc dạo quanh các trú xá nhìn thấy rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Tại sao các tỷ-kheo ni hai (người) lại nằm chung trên một chiếc giường, giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?

Các tỷ-kheo ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo ni hai (người) lại nằm chung trên một chiếc giường?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo ni hai (người) nằm chung trên một chiếc giường, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao các tỷ-kheo ni hai (người) lại nằm chung trên một chiếc giường vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Các tỷ-kheo ni nào hai (người) nằm chung trên một chiếc giườngthì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[259] Các vị (ni) nào: là bất cứ các vị (ni) nào ...(như trên)...

Các tỷ-kheo ni: các người nữ đã tu lên bậc trên được đề cập đến.

Hai (người) nằm chung trên một chiếc giường: khi một vị ni đang nằm vị ni kia nằm xuống thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya). Hoặc cả hai cùng nằm thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya). Sau khi đứng dậy rồi cùng nằm xuống lại thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

[260] Khi một vị ni đang nằm thì vị kia ngồi, hoặc cả hai đều ngồi, các vị ni bị điên, các vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN DÙNG CHUNG - ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ:

[261] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ni hai (người) nằm chung tấm trải tấm đắp.[3]Dân chúng trong lúc dạo quanh các trú xá nhìn thấy rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Tại sao các tỷ-kheo ni hai (người) lại nằm chung tấm trải tấm đắp, giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?

Các tỷ-kheo ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo ni hai (người) lại nằm chung tấm trải tấm đắp?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo ni hai (người) nằm chung tấm trải tấm đắp, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao các tỷ-kheo ni hai (người) lại nằm chung tấm trải tấm đắp vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Các tỷ-kheo ni nào hai (người) nằm chung tấm trải tấm đắp thì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).”

[262] Các vị (ni) nào: là bất cứ các vị (ni) nào ...(như trên)...

Các tỷ-kheo ni: các người nữ đã tu lên bậc trên được đề cập đến.

Hai (người) nằm chung tấm trải tấm đắp: sau khi trải ra bằng chính tấm ấy họ lại đắp bằng chính tấm ấy thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

[263] Chung tấm trải tấm đắp, nhận biết chung tấm trải tấm đắp, hai vị dùng chung thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Chung tấm trải tấm đắp, có sự hoài nghi, hai vị dùng chung thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Chung tấm trải tấm đắp, (lầm) tưởng là khác tấm trải tấm đắp, hai vị dùng chung thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Chung tấm trải, khác tấm đắp thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Khác tấm trải, chung tấm đắp thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Khác tấm trải tấm đắp, (lầm) tưởng là chung tấm trải tấm đắp, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Khác tấm trải tấm đắp, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Khác tấm trải tấm đắp, nhận biết là khác tấm trải tấm đắp, thì vô tội.

[264] Sau khi chỉ rõ sự sắp xếp[4]rồi (cả hai) nằm xuống, các vị ni bị điên, các vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN DÙNG CHUNG - ĐIỀU HỌC THỨ BA:

[265] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỷ-kheo ni Thullanandā là vị ni nghe nhiều, chuyên đọc tụng thuộc lòng, tự tin, rành rẽ về thuyết Pháp thoại. Bhaddā Kāpilānī cũng là vị ni nghe nhiều, chuyên đọc tụng thuộc lòng, tự tin, rành rẽ về thuyết Pháp thoại và được xem là nổi bật. Dân chúng (nghĩ rằng): “Ni sư Bhaddā Kāpilānī là vị ni nghe nhiều, chuyên đọc tụng thuộc lòng, tự tin, rành rẽ về thuyết Pháp thoại và được xem là nổi bật” nên thăm viếng Bhaddā Kāpilānī trước tiên sau đó mới thăm viếng tỷ-kheo ni Thullanandā. Tỷ-kheo ni Thullanandā có bản chất ganh tỵ (nghĩ rằng): “Nghe nói các cô này ít ham muốn, tự biết đủ, tách ly, không tụ hội thì chính các cô này sống có nhiều sự giao hảo có nhiều sự khuếch trương” rồi đi tới lui, rồi đứng lại, rồi ngồi xuống, rồi nằm xuống, rồi đọc tụng, rồi bảo đọc tụng, rồi học bài ở phía trước Bhaddā Kāpilānī.

Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao ni sư Thullanandā lại cố ý quấy rầy ni sư Bhaddā Kāpilānī?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói tỷ-kheo ni Thullanandā cố ý quấy rầy Bhaddā Kāpilānī, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao tỷ-kheo ni Thullanandā lại cố ý quấy rầy Bhaddā Kāpilānī vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào cố ý quấy rầy vị tỷ-kheo ni thì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[263] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Vị tỷ-kheo ni: là vị tỷ-kheo ni khác.

Cố ý: sự vi phạm trong khi biết, trong khi có ý định, sau khi đã suy nghĩ, sau khi đã khẳng định.

Quấy rầy: Vị ni (nghĩ rằng): “Do việc này sự không thoải mái sẽ có cho người này ” không hỏi ý rồi đi tới lui, hoặc đứng lại, hoặc ngồi xuống, hoặc nằm xuống, hoặc đọc tụng, hoặc bảo đọc tụng, hoặc học bài ở phía trước thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

[267] Người nữ đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị ni cố ý quấy rầy thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Người nữ đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị ni cố ý quấy rầy thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Người nữ đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị ni cố ý quấy rầy thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Người nữ chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Người nữ chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Người nữ chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

[268] Không có ý định quấy rầy, hỏi ý rồi đi tới lui hoặc đứng lại hoặc ngồi xuống hoặc nằm xuống hoặc đọc tụng hoặc bảo đọc tụng hoặc học bài ở phía trước, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN DÙNG CHUNG - ĐIỀU HỌC THỨ TƯ:

[269] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỷ-kheo ni Thullanandā không chăm sóc người nữ đệ tử bị ốm đau cũng không nỗ lực kiếm người chăm sóc. Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao ni sư Thullanandā lại không chăm sóc người nữ đệ tử bị ốm đau cũng không nỗ lực kiếm người chăm sóc?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói tỷ-kheo ni Thullanandā không chăm sóc người nữ đệ tử bị ốm đau cũng không nỗ lực kiếm người chăm sóc, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao tỷ-kheo ni Thullanandā lại không chăm sóc người nữ đệ tử bị ốm đau cũng không nỗ lực kiếm người chăm sóc vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào không chăm sóc người nữ đệ tử bị ốm đau cũng không nỗ lực kiếm người chăm sócthì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[270] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Bị ốm đaunghĩa là bị bệnh.

Người nữ đệ tử nghĩa là người nữ sống chung trú xá được đề cập đến.

Không chăm sóc: không tự mình chăm sóc.

Không nỗ lực kiếm người chăm sóc: không chỉ thị người khác. (Nghĩ rằng): “Ta sẽkhông chăm sóc cũng không nỗ lực kiếm người chăm sóc,” trong việc buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya). Vị không chăm sóc người nữ học trò hoặc người nữ chưa tu lên bậc trên cũng không nỗ lực kiếm người chăm sóc thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

[271] Trong khi có nguy hiểm, sau khi tìm kiếm không có được (người chăm sóc), vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN DÙNG CHUNG - ĐIỀU HỌC THỨ NĂM:

[272] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, Bhaddā Kāpilānī đã vào mùa (an cư) mưa ở thành Sāketa. Vị ni ấy vì công việc cần làm nào đó đã phái người đưa tin đi đến gặp tỷ-kheo ni Thullanandā (nhắn rằng):

- Nếu ni sư Thullanandā có thể cho tôi chỗ trú ngụ thì tôi có thể đi đến Sāvatthi.

Tỷ-kheo ni Thullanandā đã nói như vầy:

- Hãy đi đến, tôi sẽ cho.

Sau đó, Bhaddā Kāpilānī đã từ thành Sāketa đi đến thành Sāvatthi. Tỷ-kheo ni Thullanandā đã cho Bhaddā Kāpilānī chỗ trú ngụ.

Vào lúc bấy giờ, tỷ-kheo ni Thullanandā là vị ni nghe nhiều, chuyên đọc tụng thuộc lòng, tự tin, rành rẽ về thuyết Pháp thoại. Bhaddā Kāpilānī cũng là vị ni nghe nhiều, chuyên đọc tụng thuộc lòng, tự tin, rành rẽ về thuyết Pháp thoại, và được xem là nổi bật. Dân chúng (nghĩ rằng): “Ni sư Bhaddā Kāpilānī là vị ni nghe nhiều, chuyên đọc tụng thuộc lòng, tự tin, rành rẽ về thuyết Pháp thoại, và được xem là nổi bật” nên thăm viếng Bhaddā Kāpilānī trước tiên sau đó mới thăm viếng tỷ-kheo ni Thullanandā. Tỷ-kheo ni Thullanandā có bản chất ganh tỵ (nghĩ rằng): “Nghe nói các cô này ít ham muốn, tự biết đủ, tách ly, không tụ hội thì chính các cô này sống có nhiều sự giao hảo có nhiều sự khuếch trương” rồi đã nổi giận bất bình lôi kéo Bhaddā Kāpilānī ra khỏi chỗ trú ngụ. Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao ni sư Thullanandā sau khi đã cho Bhaddā Kāpilānī chỗ trú ngụ lại nổi giận bất bình rồi lôi kéo ra?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói tỷ-kheo ni Thullanandā sau khi đã cho Bhaddā Kāpilānī chỗ trú ngụ lại nổi giận bất bình rồi lôi kéo ra, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao tỷ-kheo ni Thullanandā sau khi đã cho Bhaddā Kāpilānī chỗ trú ngụ lại nổi giận bất bình rồi lôi kéo ra vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào sau khi đã cho vị tỷ-kheo ni chỗ trú ngụ lại nổi giận bất bình rồi lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra thì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[273] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

(Đến) vị tỷ-kheo ni: đến vị tỷ-kheo ni khác.

Chỗ trú ngụnghĩa là có gắn liền với cánh cửa được đề cập đến.

Sau khi đã cho: sau khi tự mình cho.

Nổi giận, bất bình:không được hài lòng, có tâm bực bội, sanh khởi lòng cay cú.

Lôi kéo ra: Sau khi nắm lấy ở trong phòng rồi lôi kéo ra phía trước thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya). Sau khi nắm lấy ở phía trước rồi l��i kéo ra bên ngoài thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya). Với một lần ra sức, mặc dầu làm (vị kia) vượt qua nhiều cánh cửa vẫn phạm (một) tội ưng đối trị (pācittiya).

Bảo lôi kéo ra: vị ra lệnh người khác thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Được ra lệnh một lần, mặc dầu (vị kia) vượt qua nhiều cánh cửa (vị ra lệnh) vẫn phạm (một) tội ưng đối trị (pācittiya).

[274] Người nữ đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị ni sau khi đã cho chỗ trú ngụ lại nổi giận bất bình rồi lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo rathì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Người nữ đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị ni sau khi đã cho chỗ trú ngụ lại nổi giận bất bình rồi lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo rathì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Người nữ đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị ni sau khi đã cho chỗ trú ngụ lại nổi giận bất bình rồi lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo rathì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của vị ni ấy thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo rakhỏi chỗ không gắn liền với cánh cửa thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của vị ni ấy thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Vị ni lôi kéo hoặc bảo lôi kéo người nữ chưa tu lên bậc trên ra khỏi chỗ có gắn liền với cánh cửa hoặc không gắn liền với cánh cửa thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của cô ấy thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Người nữ chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Người nữ chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Người nữ chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

[275] Vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vị ni không biết hổ thẹn, vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của vị ni ấy; vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vị ni bị điên, vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của vị ni ấy; vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vị ni thường gây nên các sự xung đột, ... vị ni thường gây nên sự cãi cọ, ... vị ni thường gây nên sự tranh luận, ... vị ni thường gây nên sự nói chuyện nhảm nhí, ... vị ni thường gây nên sự tranh tụng trong hội chúng, vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của vị ni ấy; vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra người đệ tử hoặc người học trò không thực hành phận sự đúng đắn, vị ni lôi kéo ra hoặc bảo lôi kéo ra vật dụng của vị ni ấy; vị ni bị điên; vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN DÙNG CHUNG - ĐIỀU HỌC THỨ SÁU:

[276] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, Caṇḍakālī sống thân cận với nam gia chủ với con trai gia chủ. Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao ni sư Caṇḍakālī lại sống thân cận với nam gia chủ với con trai gia chủ?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói tỷ-kheo ni Caṇḍakālī sống thân cận với nam gia chủ với con trai gia chủ, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao tỷ-kheo ni Caṇḍakālī lại sống thân cận với nam gia chủ với con trai gia chủ vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào sống thân cận với nam gia chủ hoặc với con trai gia chủ, vị tỷ-kheo ni ấy nên được nói bởi các tỷ-kheo ni như sau: ‘Này ni sư, chớ có sống thân cận với nam gia chủ với con trai gia chủ. Này ni sư, hãy tự tách riêng ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời này của sư tỷ.’ Và khi được nói như vậy bởi các tỷ-kheo ni mà vị tỷ-kheo ni ấy vẫn chấp giữ y như thế, vị tỷ-kheo ni ấy nên được các tỷ-kheo nhắc nhở đến lần thứ ba để từ bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế là điều tốt; nếu không dứt bỏ thì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[277] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Sống thân cận: sống thân cận với (hành động thuộc về) thân và khẩu không đúng đắn.

Nam gia chủnghĩa là bất cứ người nam nào sống trong căn nhà.

Con trai của gia chủnghĩa là bất cứ những người nào là con trai hoặc anh em trai.

[278] Vị tỷ-kheo ni ấy: vị ni nào sống thân cận là vị tỷ-kheo ni ấy.

Bởi các tỷ-kheo ni: bởi các tỷ-kheo ni khác. Các vị ni nào thấy, các vị ni nào nghe, các vị ni ấy nên nói rằng: “Này ni sư, chớ có sống thân cận với nam gia chủ với con trai gia chủ. Này ni sư, hãy tự tách riêng ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời này của sư tỷ.” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ni ấy) dứt bỏ, như thế là điều tốt; nếu (vị ni ấy) không dứt bỏ thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Các vị ni sau khi nghe mà không nói thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Vị tỷ-kheo ni ấy nên được kéo đến giữa hội chúng rồi nên được nói rằng: “Này ni sư, chớ có sống thân cận với nam gia chủ với con trai gia chủ. Này ni sư, hãy tự tách riêng ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời này của sư tỷ.” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ni ấy) dứt bỏ, như thế là điều tốt; nếu (vị ni ấy) không dứt bỏ thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

[279] Vị tỷ-kheo ni ấy nên được nhắc nhở. Và này các tỷ-kheo, nên được nhắc nhở như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo ni có kinh nghiệm, đủ năng lực:

Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo ni này tên (như vầy) sống thân cận với nam gia chủ với con trai gia chủ. Vị ni ấy không chịu từ bỏ sự việc ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên nhắc nhở tỷ-kheo ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đây là lời đề nghị.

Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo ni này tên (như vầy) sống thân cận với nam gia chủ với con trai gia chủ. Vị ni ấy không chịu từ bỏ sự việc ấy. Hội chúng nhắc nhở tỷ-kheo ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đại đức ni nào đồng ý việc nhắc nhở tỷ-kheo ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy, vị ni ấy nên im lặng; vị ni nào không đồng ý, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: ...(như trên)...

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni tên (như vầy) đã được hội chúng nhắc nhở để dứt bỏ sự việc ấy. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[280] Với lời đề nghị thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Với hai lời thông báo thì phạm các tội tác ác (dukkaṭa). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

[281] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị không dứt bỏ thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị không dứt bỏ thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị không dứt bỏ thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

[282] Vị ni chưa được nhắc nhở, vị ni dứt bỏ, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN DÙNG CHUNG - ĐIỀU HỌC THỨ BẢY:

[283] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ni đi du hành không cùng với đoàn xe ở trong quốc độ được xác định là có sự nguy hiểm, có sự kinh hoàng. Những kẻ vô lại làm nhơ. Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo ni lại đi du hành không cùng với đoàn xe ở trong quốc độ được xác định là có sự nguy hiểm, có sự kinh hoàng?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo ni đi du hành không cùng với đoàn xe ở trong quốc độ được xác định là có sự nguy hiểm có sự kinh hoàng, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao các tỷ-kheo ni lại đi du hành không cùng với đoàn xe ở trong quốc độ được xác định là có sự nguy hiểm có sự kinh hoàng vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào đi du hành không cùng với đoàn xe ở trong quốc độ được xác định là có sự nguy hiểm có sự kinh hoàngthì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[284] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Ở trong quốc độ: vị ni sống trong khu vực chiếm giữ của người nào tức là trong quốc độ của người ấy.

Có sự nguy hiểmnghĩa là ở trên con đường ấy, chỗ cắm trại của bọn cướp được thấy, chỗ ăn được thấy, chỗ đứng được thấy, chỗ ngồi được thấy, chỗ nằm được thấy.

Có sự kinh hoàngnghĩa là ở trên con đường ấy, dân chúng bị giết bởi bọn cướp được thấy, bị cướp giật được thấy, bị đánh đập được thấy.

Không cùng với đoàn xenghĩa là không có đoàn xe.

Đi du hành: Ở ngôi làng trong khoảng cách đi được của con gà trống thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya) theo mỗi một khoảng giữa của các ngôi làng (như thế) Không phải trong làng, ở trong rừng, thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya) theo từng khoảng cách nửa yojana.[5]

[285] Vị ni đi cùng với đoàn xe, vị ni đi trong vùng an toàn không có sự kinh hoàng, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN DÙNG CHUNG - ĐIỀU HỌC THỨ TÁM:

[286] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ni đi du hành không cùng với đoàn xe bên ngoài quốc độ (ở nơi) được xác định là có sự nguy hiểm, có sự kinh hoàng. Những kẻ vô lại làm nhơ. Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo ni lại đi du hành không cùng với đoàn xe bên ngoài quốc độ (ở nơi) được xác định là có sự nguy hiểm, có sự kinh hoàng?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo ni đi du hành không cùng với đoàn xe bên ngoài quốc độ (ở nơi) được xác định là có sự nguy hiểm có sự kinh hoàng, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao các tỷ-kheo ni lại đi du hành không cùng với đoàn xe bên ngoài quốc độ (ở nơi) được xác định là có sự nguy hiểm có sự kinh hoàng vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào đi du hành không cùng với đoàn xe bên ngoài quốc độ (ở nơi) được xác định là có sự nguy hiểm có sự kinh hoàngthì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[287] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Bên ngoài quốc độ: vị ni sống trong khu vực chiếm giữ của người nào thì trừ ra khu vực ấy, ở quốc độ của người khác.

Có sự nguy hiểmnghĩa là ở trên con đường ấy, chỗ cắm trại của bọn cướp được thấy, chỗ ăn được thấy, chỗ đứng được thấy, chỗ ngồi được thấy, chỗ nằm được thấy.

Có sự kinh hoàngnghĩa là ở trên con đường ấy, dân chúng bị giết bởi bọn cướp được thấy, bị cướp giật được thấy, bị đánh đập được thấy.

Không cùng với đoàn xenghĩa là không có đoàn xe.

Đi du hành: Ở ngôi làng trong khoảng cách đi được của con gà trống thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya) theo mỗi một khoảng giữa của các ngôi làng (như thế) Không phải trong làng, ở trong rừng, thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya) theo từng khoảng cách nửa yojana.

[288] Vị ni đi cùng với đoàn xe, vị ni đi trong vùng an toàn không có sự kinh hoàng, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN DÙNG CHUNG - ĐIỀU HỌC THỨ CHÍN:

[289] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ni đi du hành trong mùa (an cư) mưa. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo ni lại đi du hành trong mùa (an cư) mưa? Các vị đang dẫm đạp lên các loại cỏ xanh, đang hãm hại mạng sống của loài chỉ có một giác quan, và đang gây nên việc giết hại hàng loạt nhiều chúng sanh nhỏ nhoi.

Các tỷ-kheo ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo ni lại đi du hành trong mùa (an cư) mưa?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo ni đi du hành trong mùa (an cư) mưa, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao các tỷ-kheo ni lại đi du hành trong mùa (an cư) mưa vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào đi du hành trong mùa (an cư) mưathì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[290] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Trong mùa (an cư) mưa: sau khi đã không sống (an cư) ba tháng thời kỳ đầu hoặc ba tháng thời kỳ sau.

Đi du hành: Ở ngôi làng trong khoảng cách đi được của con gà trống thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya) theo mỗi một khoảng giữa của các ngôi làng (như thế) Không phải trong làng, ở trong rừng, thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya) theo từng khoảng cách nửa yojana.

[285] Vị ni đi vì công việc cần làm trong bảy ngày, vị ni đi khi bị quấy rối bởi một điều nào đó, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN DÙNG CHUNG - ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI:

[292] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ni đã sống mùa mưa ở ngay tại nơi ấy trong thành Rājagaha, đã sống mùa lạnh ở ngay tại nơi ấy, đã sống mùa nóng ở ngay tại nơi ấy. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Các hướng đi của các tỷ-kheo ni bị tắt nghẽn, tăm tối. Các hướng đi không còn được các vị ni này nhận ra nữa.

Các tỷ-kheo ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các tỷ-kheo ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỷ-kheo. Các tỷ-kheo đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự việc ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỷ-kheo rằng:

- Này các tỷ-kheo, như thế thì ta sẽ quy định điều học cho các tỷ-kheo ni vì mười điều lợi ích: Nhằm đem lại sự tốt đẹp cho hội chúng, ...(như trên)... nhằm sự tồn tại của Chánh Pháp, và nhằm sự hỗ trợ Luật. Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni đã sống qua mùa (an cư) mưa mà không ra đi du hành cho dầu chỉ năm hoặc sáu do tuần thì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[293] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Đã sống qua mùa (an cư) mưa nghĩa là đã sống (an cư) ba tháng thời kỳ đầu hoặc ba tháng thời kỳ sau.

Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ không ra đi du hành cho dầu chỉ năm hoặc sáu do tuần,” trong việc buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

[294] Khi có trường hợp nguy hiểm, vị ni tìm kiếm nhưng không có được vị tỷ-kheo ni thứ hai, vị ni bị bệnh, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

Phần Dùng Chung là phần thứ tư.

*******


[1]Nếu gang tay của đức Thiện Thệ là 0,25 cm thì kích thước vải choàng tắm của tỷ-kheo ni là 1 m x 0,5 m. Vải choảng tắm mưa của các tỷ-kheo lớn hơn: 1,50 m x 0, 625 m.

[2]Ngài Buddhaghosa giải thích rằng cứ mỗi y là tính một tội pācittiya.

[3]Đễ cho dễ hình dung, có thể nói là nằm chung chiếu chung mền.

[4]Ngài Buddhaghosa giảng rằng: “Các vị ni nằm xuống sau khi đã đặt ở giữa tấm y ca-sa, hoặc cây gậy chống, hoặc ngay cả sợi dây lưng thì không phạm tội.”

[5]Tài liệu The Buddhist Monastic Codecho biết khoảng cách của nửa yojana là 8 km hoặc 5 miles.

---o0o---

Nguồn: www.budsas.org

Trình bày: Linh Thoại

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567