Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần [3.4c]

18/04/201318:18(Xem: 7983)
Phần [3.4c]

Tạng Luật
Vinayapitaka

Phân Tích Giới Tỷ-Kheo Ni
(Bhikkhunivibhanga)

Tỳ kheo Indacanda Nguyệt Thiêndịch
---o0o---

IV. CHƯƠNG ƯNG ĐỐI TRỊ (Pācittiyakaṇḍaṃ)(tiếp theo)

PHẦN NHÀ TRIỂN LÃM TRANH - ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT:

[295] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tranh ảnh gợi cảm được thực hiện ở nhà triển lãm tranh nơi công viên của đức vua Pasenadi xứ Kosala. Nhiều người đi để xem nhà triển lãm tranh. Các tỷ-kheo ni nhóm Lục Sư cũng đã đi để xem nhà triển lãm tranh. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Tại sao các tỷ-kheo ni lại đi để xem nhà triển lãm tranh, giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?

Các tỷ-kheo ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo ni nhóm Lục Sư lại đi để xem nhà triển lãm tranh?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo ni nhóm Lục Sư đi để xem nhà triển lãm tranh, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao các tỷ-kheo ni nhóm Lục Sư lại đi để xem nhà triển lãm tranh vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào đi để xem hí viện của đức vua hoặc nhà triển lãm tranh hoặc khu vườn hoặc công viên hoặc hồ senthì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[296] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Hí viện của đức vuanghĩa là bất cứ nơi nào được xây dựng cho đức vua giải trí và hưởng lạc.

Nhà triển lãm tranhnghĩa là bất cứ nơi nào được xây dựng cho mọi ngưòi giải trí và hưởng lạc.

Khu vườnnghĩa là bất cứ nơi nào được xây dựng cho mọi ngưòi giải trí và hưởng lạc.

Công viênnghĩa là bất cứ nơi nào được xây dựng cho mọi ngưòi giải trí và hưởng lạc.

Hồ sennghĩa là bất cứ nơi nào được xây dựng cho mọi ngưòi giải trí và hưởng lạc.

Vị ni đi để xem thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Đứng ở nơi ấy nhìn thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya). Sau khi rời khỏi khu vực lân cận của quang cảnh, vị lại nhìn nữa thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Vị đi để xem mỗi một nơi thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Đứng ở nơi ấy nhìn thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya). Sau khi rời khỏi khu vực lân cận của quang cảnh, vị lại nhìn nữa thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

[297] Vị ni đứng ở trong tu viện nhìn thấy, vị ni nhìn thấy trong khi đi ra hoặc đi về lại, khi có việc cần phải làm vị ni đi rồi nhìn thấy, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN NHÀ TRIỂN LÃM TRANH - ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ:

[298] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ni sử dụng ghế cao và ghế nệm lông thú. Dân chúng trong khi đi dạo quanh các trú xá nhìn thấy rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Tại sao các tỷ-kheo ni lại sử dụng ghế cao và ghế nệm lông thú, giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?

Các tỷ-kheo ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo ni lại sử dụng ghế cao và ghế nệm lông thú?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo ni sử dụng ghế cao và ghế nệm lông thú, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao các tỷ-kheo ni lại sử dụng ghế cao và ghế nệm lông thú vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào sử dụng ghế cao hoặc ghế nệm lông thú thì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[299] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Ghế caonghĩa là sự vượt quá kích thước được đề cập đến.

Ghế nệm lông thúnghĩa là được thực hiện với các lông thú đã được mang lại.

Sử dụng: vị ni ngồi xuống hoặc nằm xuống trên chỗ ấy thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

[300] Vị ni sử dụng sau khi đã cắt các chân của ghế cao, vị ni sử dụng sau khi đã hủy bỏ các lông thú của ghế nệm lông thú, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN NHÀ TRIỂN LÃM TRANH - ĐIỀU HỌC THỨ BA:

[301] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ni nhóm Lục Sư xe chỉ sợi. Dân chúng trong khi đi dạo quanh các trú xá nhìn thấy rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Tại sao các tỷ-kheo ni lại xe chỉ sợi, giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?

Các tỷ-kheo ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo ni lại xe chỉ sợi?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo ni xe chỉ sợi, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao các tỷ-kheo ni lại xe chỉ sợi vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào xe chỉ sợi thì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[302] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Chỉ sợinghĩa là có sáu loại chỉ sợi: loại bằng sợi lanh (khomaṃ), loại bằng bông vải (kappāsikaṃ), loại bằng tơ lụa (koseyyaṃ), loại bằng sợi len (kambalaṃ), loại bằng gai thô (sāṇam), loại bằng chỉ bố (bhaṅgaṃ).

Xe (chỉ): vị ni tự mình xe (chỉ). Khi khởi sự thì phạm tội tác ác (dukkaṭa), mỗi một vòng quay thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya) .

[303] Vị ni xe lại chỉ sợi đã được xe (không tốt hoặc bị đứt), vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN NHÀ TRIỂN LÃM TRANH - ĐIỀU HỌC THỨ TƯ:

[304] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ni phục vụ người tại gia. Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo ni lại phục vụ người tại gia?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo ni phục vụ người tại gia, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao các tỷ-kheo ni lại phục vụ người tại gia vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào phục vụ người tại giathì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[305] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Phục vụ người tại gianghĩa là vị ni nấu cháo hoặc bữa ăn hoặc vật thực loại cứng hoặc giặt tấm vải choàng hoặc khăn đội đầu cho người tại gia thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

[306] Trường hợp nước cháo khi có bữa thọ thực của hội chúng, khi cúng dường bảo tháp, vị ni nấu cháo hoặc bữa ăn hoặc vật thực loại cứng hoặc giặt tấm vải choàng hoặc khăn đội đầu cho người phục vụ của bản thân, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN NHÀ TRIỂN LÃM TRANH - ĐIỀU HỌC THỨ NĂM:

[307] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo ni nọ đã đi đến gặp tỷ-kheo ni Thullanandā và nói điều này:

- Thưa ni sư, hãy đến. Hãy giải quyết sự tranh tụng này.

Tỷ-kheo ni Thullanandā đã trả lời rằng:

- Tốt thôi!

Rồi không giải quyết cũng không nỗ lực cho việc giải quyết. Sau đó, vị tỷ-kheo ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỷ-kheo ni. Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao ni sư Thullanandā khi được vị tỷ-kheo ni nói rằng: “Thưa ni sư, hãy đến. Hãy giải quyết sự tranh tụng này” đã trả lời rằng: “Tốt thôi!” lại không giải quyết cũng không nỗ lực cho việc giải quyết?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói tỷ-kheo ni Thullanandā khi được vị tỷ-kheo ni nói rằng: “Thưa ni sư, hãy đến. Hãy giải quyết sự tranh tụng này” đã trả lời rằng: “Tốt thôi!” rồi không giải quyết cũng không nỗ lực cho việc giải quyết, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao tỷ-kheo ni Thullanandā khi được vị tỷ-kheo ni nói rằng: “Thưa ni sư, hãy đến. Hãy giải quyết sự tranh tụng này” đã trả lời rằng: “Tốt thôi!” lại không giải quyết cũng không nỗ lực cho việc giải quyết vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào khi được nói bởi vị tỷ-kheo ni rằng: ‘Thưa ni sư, hãy đến. Hãy giải quyết sự tranh tụng này’ đã trả lời rằng: ‘Tốt thôi!’ Vị ni ấy sau đó không gặp trở ngại vẫn không giải quyết cũng không nỗ lực cho việc giải quyết thì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[308] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Bởi vị tỷ-kheo ni: bởi vị tỷ-kheo ni khác.

Sự tranh tụngnghĩa là có bốn sự tranh tụng: sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách, sự tranh tụng liên quan đến tội, sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ.

Thưa ni sư, hãy đến. Hãy giải quyết sự tranh tụng này: Thưa ni sư, hãy đến. Hãy xét xử sự tranh tụng này.

Vị ni ấy sau đó không gặp trở ngại: khi không có trở ngại.

Không giải quyết: không tự mình giải quyết.

Không nỗ lực cho việc giải quyết: không chỉ thị cho vị khác. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ không giải quyết cũng không nỗ lực cho việc giải quyết,” trong việc buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

[309] Người nữ đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị ni không giải quyết sự tranh tụng cũng không nỗ lực cho việc giải quyết thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Người nữ đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị ni không giải quyết sự tranh tụng cũng không nỗ lực cho việc giải quyết thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Người nữ đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị ni không giải quyết sự tranh tụng cũng không nỗ lực cho việc giải quyết thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Vị ni không giải quyết cũng không nỗ lực cho việc giải quyết sự tranh tụng của người nữ chưa tu lên bậc trên thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Người nữ chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Người nữ chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Người nữ chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

[310] Khi có trường hợp trở ngại, vị ni tìm kiếm nhưng không đạt được (cơ hội), vị ni bị bệnh, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN NHÀ TRIỂN LÃM TRANH - ĐIỀU HỌC THỨ SÁU:

[311] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỷ-kheo ni Thullanandā tự tay cho vật thực loại cứng loại mềm đến các kịch sĩ, các vũ công, các người nhào lộn, các người ảo thuật, các người đánh trống (nói rằng):

- Hãy nói lời khen ngợi về ta ở đám đông.

Các kịch sĩ, các vũ công, các người nhào lộn, các người ảo thuật, các người đánh trống đã nói lời khen ngợi về tỷ-kheo ni Thullanandā ở đám đông rằng:

- Ni sư Thullanandā là vị ni nghe nhiều, chuyên đọc tụng thuộc lòng, tự tin, rành rẽ về thuyết Pháp thoại. Hãy dâng cho ni sư. Hãy phục vụ cho ni sư.

Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao ni sư Thullanandā lại tự tay cho vật thực loại cứng loại mềm đến người nam tại gia?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói tỷ-kheo ni Thullanandā tự tay cho vật thực loại cứng loại mềm đến người nam tại gia, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao tỷ-kheo ni Thullanandā lại tự tay cho vật thực loại cứng loại mềm đến người nam tại gia vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào tự tay cho vật thực cứng hoặc vật thực mềmđến người nam tại gia hoặc nam du sĩ ngoại đạo hoặc nữ du sĩ ngoại đạo thì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[312] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là vị “tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Người nam tại gianghĩa là bất cứ người nam nào sống trong căn nhà.

Nam du sĩ ngoại đạonghĩa là bất cứ người nam nào thành tựu pháp du sĩ trừ ra tỷ-kheo và sa-di.

Nữ du sĩ ngoại đạonghĩa là bất cứ người nữ nào thành tựu pháp du sĩ trừ ra tỷ-kheo ni, cô ni tu tập sự, và sa-di ni.

Vật thực cứngnghĩa là trừ ra năm loại vật thực, nước và tăm xỉa răng, phần còn lại gọi là vật thực cứng.

Vật thực mềmnghĩa là năm loại vật thực (gồm có) cơm, súp, bánh, cá, thịt.

Cho:vị ni cho bằng thân hoặc bằng vật được gắn liền với thân hoặc bằng cách buông ra thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya). Vị ni cho nước uống và tăm xỉa răng thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

[313] Vị ni bảo (người khác) cho không (tự mình) cho, vị ni cho sau khi đã để gần bên, vị ni cho vật thoa bên ngoài, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN NHÀ TRIỂN LÃM TRANH - ĐIỀU HỌC THỨ BẢY:

[314] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỷ-kheo ni Thullanandā sử dụng y nội trợ (āvasathacīvaraṃ) không chịu xả bỏ; các vị ni khác đến thời kỳ không có được (để sử dụng). Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao ni sư Thullanandā lại sử dụng y nội trợ không chịu xả bỏ?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói tỷ-kheo ni Thullanandā sử dụng y nội trợ không chịu xả bỏ, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao tỷ-kheo ni Thullanandā lại sử dụng y nội trợ không chịu xả bỏ vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào sử dụng y nội trợ không chịu xả bỏ thì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[315] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Y nội trợnghĩa l�� đã được bố thí (nói rằng): “Các tỷ-kheo ni đến thời kỳhãy sử dụng.”

Sử dụng không chịu xả bỏ: vị ni sau khi sử dụng trong hai ba đêm, sau khi giặt vào ngày thứ tư, vẫn sử dụng không chịu xả bỏ cho vị tỷ-kheo ni, hoặc cô ni tu tập sự, hoặc vị sa-di ni thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

[316] Khi chưa xả bỏ, nhận biết là chưa xả bỏ, vị sử dụng thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Khi chưa xả bỏ, có sự hoài nghi, vị sử dụng thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Khi chưa xả bỏ, (lầm) tưởng là đã xả bỏ, vị sử dụng thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Khi đã xả bỏ, (lầm) tưởng là chưa xả bỏ, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Khi đã xả bỏ, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Khi đã xả bỏ, nhận biết là đã xả bỏ, thì vô tội.

[317] Sau khi đã xả bỏ rồi sử dụng, vị ni sử dụng khi đến phiên lần nữa, các tỷ-kheo ni khác đến thời kỳ không có, vị ni có y bị cướp đoạt, vị ni có y bị hư hỏng, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN NHÀ TRIỂN LÃM TRANH - ĐIỀU HỌC THỨ TÁM:

[318] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỷ-kheo ni Thullanandā sau khi không xả bỏ chỗ trú ngụ đã ra đi du hành. Vào lúc bấy giờ, chỗ trú ngụ của tỷ-kheo ni Thullanandā bị cháy. Các tỷ-kheo ni đã nói như vầy:

- Này các ni sư, chúng ta hãy mang đồ đạc ra ngoài đi.

Một số vị ni đã nói như vầy:

- Này các ni sư, chúng ta sẽ không mang ra ngoài. Bất cứ vật gì bị hư hỏng, tất cả sẽ không có liên quan đến chúng ta.

Tỷ-kheo ni Thullanandā sau khi quay trở về lại chỗ trú ngụ ấy đã hỏi các tỷ-kheo ni rằng:

- Này các ni sư, các cô có mang đồ đạc ra ngoài không?

- Này ni sư, chúng tôi đã không mang ra ngoài.

Tỷ-kheo ni Thullanandā phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo ni trong khi chỗ trú ngụ bị cháy lại không mang đồ đạc ra ngoài?

Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao ni sư Thullanandā khi chưa xả bỏ chỗ trú ngụ lại ra đi du hành?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói tỷ-kheo ni Thullanandā khi chưa xả bỏ chỗ trú ngụ lại ra đi du hành, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao tỷ-kheo ni Thullanandā khi chưa xả bỏ chỗ trú ngụ lại ra đi du hành vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào khi chưa xả bỏ chỗ trú ngụ mà ra đi du hànhthì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[319] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Chỗ trú ngụnghĩa là có gắn cánh cửa được đề cập đến.

Khi chưa xả bỏ mà ra đi du hành: Sau khi chưa xả bỏ cho vị tỷ-kheo ni, hoặc cô ni tu tập sự, hoặc vị sa-di ni, trong khi vượt qua hàng rào của chỗ trú ngụ được rào lại vị ni phạm tội ưng đối trị (pācittiya). Trong khi vượt qua vùng phụ cận của chỗ trú ngụ không được rào lại, vị ni phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

[320] Khi chưa xả bỏ, nhận biết là chưa xả bỏ, vị ra đi thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Khi chưa xả bỏ, có sự hoài nghi, vị ra đi thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Khi chưa xả bỏ, (lầm) tưởng là đã xả bỏ, vị ra đi thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Vị ni ra đi khi chưa xả bỏ chỗ không có gắn cánh cửa thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Khi đã xả bỏ, (lầm) tưởng là chưa xả bỏ, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Khi đã xả bỏ, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Khi đã xả bỏ, nhận biết là đã xả bỏ, thì vô tội.

[321] Sau khi đã xả bỏ rồi ra đi, khi có sự nguy hiểm, sau khi tìm kiếm (người để trông nom chỗ trú ngụ) nhưng không có, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN NHÀ TRIỂN LÃM TRANH - ĐIỀU HỌC THỨ CHÍN:

[322] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ni nhóm Lục Sư học tập kiến thức nhảm nhí (tiracchānavijjaṃ). Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo ni lại học tập kiến thức nhảm nhí, giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?

Các tỷ-kheo ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo ni nhóm Lục Sư lại học tập kiến thức nhảm nhí?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo ni nhóm Lục Sư học tập kiến thức nhảm nhí, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao các tỷ-kheo ni nhóm Lục Sư lại học tập kiến thức nhảm nhí vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào học tập kiến thức nhảm nhíthì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[323] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Kiến thức nhảm nhínghĩa là bất cứ điều gì ở bên ngoài (thế tục) không liên hệ mục đích.

Học tập: vị ni học tập theo câu thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya) theo từng câu. Vị ni học tập theo âm thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya) theo từng âm.

[324] Vị ni học tập chữ viết, vị ni học tập sự ghi nhớ (thuộc lòng), vị ni học tập kinh paritta để hộ thân, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN NHÀ TRIỂN LÃM TRANH - ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI:

[325] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ni nhóm Lục Sư dạy kiến thức nhảm nhí (tiracchānavijjaṃ). Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo ni lại dạy kiến thức nhảm nhí, giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?

Các tỷ-kheo ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo ni nhóm Lục Sư lại dạy kiến thức nhảm nhí?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo ni nhóm Lục Sư dạy kiến thức nhảm nhí, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao các tỷ-kheo ni nhóm Lục Sư lại dạy kiến thức nhảm nhí vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào dạy kiến thức nhảm nhíthì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[326] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Kiến thức nhảm nhínghĩa là bất cứ điều gì ở bên ngoài (thế tục) không liên hệ mục đích.

Học tập: vị ni dạy theo câu thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya) theo từng câu. Vị ni dạy theo âm thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya) theo từng âm.

[327] Vị ni dạy chữ viết, vị ni dạy sự ghi nhớ (thuộc lòng), vị ni dạy kinh paritta để hộ thân, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

Phần Nhà Triển Lãm Tranh là phần thứ năm.

*******

PHẦN TU VIỆN - ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT:

[328] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỷ-kheo chỉ mặc có một y đang làm công việc may y ở trú xứ là thôn làng. Các tỷ-kheo ni không báo trước đã đi vào tu viện rồi đi đến gặp các tỷ-kheo ấy. Các tỷ-kheo phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo ni khi chưa báo trước lại đi vào tu viện?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo ni khi chưa báo trước lại đi vào tu viện, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao các tỷ-kheo ni khi chưa báo trước lại đi vào tu viện vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào chưa báo trước mà đi vào tu việnthì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỷ-kheo ni như thế.

[329] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ấy đã rời khỏi trú xứ ấy. Các tỷ-kheo ni (nghĩ rằng): “Các ngài đại đức đã đi khỏi” nên đã không đi đến tu viện. Sau đó, các tỷ-kheo ấy đã quay trở lại trú xứ ấy lần nữa. Các tỷ-kheo ni (nghĩ rằng): “Các ngài đại đức đã đi đến” nên đã báo trước rồi đi vào tu viện và đã đi đến gặp các tỷ-kheo ấy, sau khi đến đã đảnh lễ các tỷ-kheo ấy rồi đứng ở một bên. Các tỷ-kheo ấy đã nói với các tỷ-kheo ni ấy đang đứng một bên điều này:

- Này các sư tỷ, tại sao các vị lại không quét tu viện cũng không đem lại nước uống nước rửa?

- Thưa các ngài đại đức, điều học đã được đức Thế Tôn quy định rằng: “Khi chưa báo trước không được đi vào tu viện;” vì thế chúng tôi đã không đến.

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, ta cho phép đi vào tu viện có báo trước vị tỷ-kheo hiện hiện. Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào chưa báo trước vị tỷ-kheo hiện diện mà đi vào tu việnthì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỷ-kheo ni như thế.

[330] Vào lúc bấy giờ, các vị tỷ-kheo ấy sau khi đi khỏi trú xứ ấy đã quay trở lại trú xứ ấy lần nữa. Các tỷ-kheo ni (nghĩ rằng): “Các ngài đại đức đã đi đến” nên đã đi vào tu viện không báo trước. Sự ngần ngại đã khởi lên cho các vị ni ấy: “Điều học đã được đức Thế Tôn quy định rằng: ‘Chưa báo trước vị tỷ-kheo hiện diện không được đi vào tu viện;’ chúng ta chưa báo trước vị tỷ-kheo hiện diện đã đi vào tu viện, phải chăng chúng ta đã phạm tội pācittiya?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

...(như trên)...

- Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào biết tu viện có tỷ-kheo chưa báo trước lại đi vào thì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[331] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Biếtnghĩa là tự mình biết, hoặc các người khác thông báo cho vị ni ấy, hoặc các vị (tỷ-kheo) ấy thông báo.

Tu viện có tỷ-kheonghĩa là nơi nào các tỷ-kheo cư ngụ cho dù ở gốc cây.

Chưa báo trước lại đi vào tu viện:khi chưa báo trước vị tỷ-kheo hoặc vị sa-di hoặc người phụ việc chùa, trong khi vượt qua hàng rào của tu viện được rào lại vị ni phạm tội ưng đối trị (pācittiya). Trong khi đi vào vùng phụ cận của tu viện không được rào lại vị ni phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

[332] Có tỷ-kheo, nhận biết là có tỷ-kheo, vị ni đi vào tu viện khi chưa báo trước vị tỷ-kheo hiện diện thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Có tỷ-kheo, có sự hoài nghi, vị ni đi vào tu viện khi chưa báo trước vị tỷ-kheo hiện diện thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Có tỷ-kheo, (lầm) tưởng không có tỷ-kheo, vị ni đi vào tu viện khi chưa báo trước vị tỷ-kheo hiện diện thì vô tội.

Không có tỷ-kheo, (lầm) tưởng là có tỷ-kheo, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Không có tỷ-kheo, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Không có tỷ-kheo, nhận biết là không có tỷ-kheo, thì vô tội.

[333] Vị ni đi vào có báo trước vị tỷ-kheo hiện diện, vị ni đi vào không có báo trước khi không có vị tỷ-kheo hiện diện, vị ni đi nhìn theo đầu (các vị ni đi vào trước), vị ni đi vào nơi các tỷ-kheo ni đang tụ hội, con đường băng ngang qua tu viện, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN TU VIỆN - ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ:

[334] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Vesālī, Mahāvana (Đại Lâm), giảng đường Kūṭāgāra. Vào lúc bấy giờ, thầy tế độ của đại đức Upāli là đại đức Kappitaka[1]ngụ ở mộ địa. Vào lúc bấy giờ, vị tỷ-kheo ni trưởng thượng trong số các tỷ-kheo ni nhóm Lục Sư qua đời. Các tỷ-kheo ni nhóm Lục Sư đã đưa (thi thể) vị tỷ-kheo ni ấy đi rồi thiêu xác ấy ở nơi không xa trú xá của đại đức Kappitaka. Các vị ni sau khi làm bảo tháp thường đi đến nơi bảo tháp ấy khóc lóc. Khi ấy, đại đức Kappitaka bị quấy rầy bởi tiếng khóc ấy nên đã đập vỡ bảo tháp ấy rồi phá hủy (vật liệu xây dựng). Các tỷ-kheo ni nhóm Lục Sư đã hội ý rằng:

- Kappitaka này đã phá vỡ bảo tháp của ni sư chúng ta, chúng ta hãy giết lão đi.

Có tỷ-kheo ni nọ đã kể lại sự việc ấy cho đại đức Upāli. Đại đức Upāli đã đã kể lại sự việc ấy cho đại đức Kappitaka. Sau đó, đại đức Kappitaka đã rời khỏi trú xá rồi ẩn nấp chờ đợi. Khi ấy, các tỷ-kheo ni nhóm Lục Sư đã đi đến trú xá của đại đức Kappitaka, sau khi đến đã làm cho trú xá của đại đức Kappitaka bị bao trùm bởi những hòn đá và đất cục rồi bỏ đi (nghĩ rằng): “Kappitaka đã chết!” Sau đó khi đã trải qua đêm ấy, vào buổi sáng đại đức Kappitaka đã mặc y cầm y bát đi vào thành Vesālī để khất thực. Các tỷ-kheo ni nhóm Lục Sư đã nhìn thấy đại đức Kappitaka đang đi khất thực, sau khi thấy đã nói như vầy:

- Kappitaka này còn sống. Vậy ai đã tiết lộ kế hoạch của chúng ta?

Các tỷ-kheo ni nhóm Lục Sư đã nghe được rằng: “Nghe nói kế hoạch của chúng ta đã bị tiết lộ bởi ngài đại đức Upāli.” Các vị ni ấy đã mắng nhiếc đại đức Upāli rằng:

- Tại sao gã thợ cạo lau chùi bụi bặm và dòng dõi hạ tiện này lại tiết lộ kế hoạch của chúng tôi?

Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo ni nhóm Lục Sư lại mắng nhiếc ngài đại đức Upāli?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo ni nhóm Lục Sư mắng nhiếc Upāli, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao các tỷ-kheo ni nhóm Lục Sư lại mắng nhiếc Upāli vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào mắng nhiếc hoặc nguyền rủa vị tỷ-kheothì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[335] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Vị tỷ-kheo: là người nam đã tu lên bậc trên.

(Hoặc) mắng nhiếc: (hoặc là) vị mắng nhiếc theo mười cách thức của sự mắng nhiếc[2]hoặc với bất cứ điều nào của những điều này thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Hoặc nguyền rủa: vị gây ra sự sợ hãi thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

[336] Người nam đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị ni mắng nhiếc hoặc nguyền rủa thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Người nam đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị ni mắng nhiếc hoặc nguyền rủa thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Người nam đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị ni mắng nhiếc hoặc nguyền rủa thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Vị mắng nhiếc hoặc nguyền rủa người nam chưa tu lên bậc trên thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Người nam chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Người nam chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Người nam chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

[337] Vị ni (nói để) đề cập đến ý nghĩa, vị ni (nói để) đề cập đến Pháp, vị ni (nói) nhắm đến sự giảng dạy, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN TU VIỆN - ĐIỀU HỌC THỨ BA:

[338] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỷ-kheo ni Caṇḍakālī là vị ni thường gây nên các sự xung đột, gây nên các sự cãi cọ, gây nên các sự tranh luận, gây nên các sự nói chuyện nhảm nhí, và gây nên các sự tranh tụng trong hội chúng. Trong khi thực hiện hành sự cho vị ni ấy, tỷ-kheo ni Thullanandā phản đối.

[339] Vào lúc bấy giờ, tỷ-kheo ni Thullanandā đã đi vào làng vì công việc cần làm nào đó. Khi ấy, hội chúng tỷ-kheo ni (nghĩ rằng): “Tỷ-kheo ni Thullanandā đã đi vắng” nên đã phạt án treo tỷ-kheo ni Caṇḍakālī trong việc không nhìn nhận tội. Tỷ-kheo ni Thullanandā sau khi hoàn tất công việc cần làm ấy ở trong làng đã trở về lại thành Sāvatthi. Trong khi tỷ-kheo ni Thullanandā đi về, tỷ-kheo ni Caṇḍakālī đã không sắp xếp chỗ ngồi, không đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, đã không đi ra tiếp rước y bát, và đã không dâng nước uống. Tỷ-kheo ni Thullanandā đã nói với tỷ-kheo ni Caṇḍakālī điều này:

- Này cô ni, vì sao trong khi tôi đi về, cô đã không sắp xếp chỗ ngồi, đã không đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, đã không đi ra tiếp rước y bát, và đã không dâng nước uống vậy?

- Thưa ni sư, bởi vì sự việc ấy là như vậy; giống như người không được sự quan tâm.

- Này cô ni, vì sao cô lại không được sự quan tâm?

- Thưa ni sư, các tỷ-kheo ni này (nói rằng): “Cô này không được sự quan tâm lại ngu dốt. Không còn cô kia thì ai sẽ lên tiếng phản đối” rồi đã phạt án treo tôi trong việc không nhìn nhận tội.

Tỷ-kheo ni Thullanandā (nói rằng): “Những cô ấy ngu dốt! Những cô ấy không kinh ngiệm! Những cô ấy không biết về hành sự hoặc sự sai trái của hành sự hoặc sự hư hỏng của hành sự hoặc sự thành tựu của hành sự” bị kích động rồi chửi rủa nhóm. Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao ni sư Thullanandā bị kích động rồi chửi rủa nhóm?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói tỷ-kheo ni Thullanandā bị kích động rồi chửi rủa nhóm, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao tỷ-kheo ni Thullanandā bị kích động rồi chửi rủa nhóm vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào bị kích động rồi chửi rủa nhómthì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[340] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Bị kích độngnghĩa là sự giận dữ được đề cập đến.

Nhómnghĩa là hội chúng tỷ-kheo ni được đề cập đến.

Chửi rủa: vị ni chửi rủa rằng: “Những cô ấy ngu dốt! Những cô ấy không kinh ngiệm! Những cô ấy không biết về hành sự hoặc sự sai trái của hành sự hoặc sự hư hỏng của hành sự hoặc sự thành tựu của hành sự” thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya). Vị ni chửi rủa nhiều vị tỷ-kheo ni hoặc một vị tỷ-kheo ni hoặc người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

[341] Vị ni (nói để) đề cập đến ý nghĩa, vị ni (nói để) đề cập đến Pháp, vị ni (nói) nhắm đến sự giảng dạy, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN TU VIỆN - ĐIỀU HỌC THỨ TƯ:

[342] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có người Bà-la-môn nọ đã thỉnh mời và dâng bữa ăn đến các tỷ-kheo ni. Khi thọ thực xong và đã từ chối (vật thực dâng thêm), các tỷ-kheo ni đã đi đến các gia đình của các thân quyến rồi một số vị ni đã thọ thực thêm, một số vị ni đã nhận lấy đồ khất thực rồi đi. Sau đó, người Bà-la-môn ấy đã nói với hàng xóm điều này:

- Này quý ông, các tỷ-kheo ni đã được tôi làm hài lòng. Hãy đến, tôi cũng sẽ làm hài lòng quý ông.

Những người ấy đã nói như vầy:

- Này ông, ông sẽ làm hài lòng chúng tôi cách nào? Ngay cả những vị ni đã được ông thỉnh mời lại còn đi đến các nhà của chúng tôi, một số vị ni đã thọ thực thêm, một số vị ni đã nhận lấy đồ khất thực rồi đi.

Khi ấy, người Bà-la-môn ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo ni sau khi thọ thực trong nhà của chúng tôi lại thọ thực ở nơi khác? Không lẽ tôi không đủ khả năng để bố thí theo như ước muốn hay sao?

Các tỷ-kheo ni đã nghe được người Bà-la-môn ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo ni thọ thực xong và đã từ chối (vật thực dâng thêm) lại thọ thực ở nơi khác?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo ni thọ thực xong và đã từ chối (vật thực dâng thêm) lại thọ thực ở nơi khác, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao các tỷ-kheo ni thọ thực xong và đã từ chối (vật thực dâng thêm) lại thọ thực ở nơi khác vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào đã được thỉnh mời hoặc đã từ chối (vật thực dâng thêm) lại nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềm thì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[343] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Đã được thỉnh mờinghĩa là được thỉnh mời với một món vật thực nào của năm món vật thực.

Đã từ chối (vật thực dâng thêm)nghĩa là việc ăn được ghi nhận, vật thực được ghi nhận, (thí chủ) đứng trong tầm tay (1 mét 25) dâng lên (vật thực) được ghi nhận, (vật thực) đã bị từ chối được ghi nhận.

Vật thực cứngnghĩa là trừ ra năm loại vật thực, vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, và vật dùng suốt đời; phần còn lại gọi là vật thực cứng.

Vật thực mềmnghĩa là năm loại vật thực (gồm có) cơm, súp, bánh, cá, thịt. (Nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi thọ lãnh thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

[344] Khi đã được thỉnh mời, nhận biết là đã được thỉnh mời, vị nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềm thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

Khi đã được thỉnh mời, có sự hoài nghi, vị nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềm thì phạm tội pācittiya.

Khi đã được thỉnh mời, (lầm) tưởng là chưa được thỉnh mời, vị nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc vật thực mềm thì phạm tội pācittiya.

Vị ni nhận lãnh vật dùng đến hết đêm, vật dùng trong bảy ngày, vật dùng suốt đời vì mục đích vật thực thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

[345] Vị ni đã được thỉnh mời nhưng chưa từ chối (vật thực dâng thêm), vị ni uống cháo, vị ni hỏi trước chủ nhân rồi thọ thực, vị ni thọ dụng vật dùng đến hết đêm vật dùng trong bảy ngày vật dùng suốt đời khi có duyên cớ, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN TU VIỆN - ĐIỀU HỌC THỨ NĂM:

[346] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo ni nọ trong lúc đi khất thực ở con đường nọ trong thành Sāvatthi đã đi đến một gia đình nọ, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, những người ấy sau khi dâng bữa ăn đến vị tỷ-kheo ni ấy rồi đã nói điều này:

- Thưa ni sư, các tỷ-kheo ni khác cũng hãy đi đến.

Khi ấy, vị tỷ-kheo ni ấy (nghĩ rằng): “Làm cách nào để các tỷ-kheo ni khác không đi đến?” nên khi đi đến gặp các tỷ-kheo ni đã nói điều này:

- Này các ni sư, ở chỗ đàng kia chó thì dữ tợn bò thì hung bạo, là khu vực đầm lầy, chớ có đi đến chỗ ấy.

Có vị tỷ-kheo ni nọ trong lúc đi khất thực ở con đường ấy cũng đã đi đến gia đình ấy, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, những người ấy sau khi dâng bữa ăn đến vị tỷ-kheo ni ấy rồi đã nói điều này:

- Thưa ni sư, tại sao các tỷ-kheo ni khác không đi đến?

Khi ấy, vị tỷ-kheo ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho những người ấy. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Tại sao vị tỷ-kheo ni lại bỏn xẻn về gia đình?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói vị tỷ-kheo ni bỏn xẻn về gia đình, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao vị tỷ-kheo ni lại bỏn xẻn về gia đình vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào bỏn xẻn về gia đìnhthì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[347] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Gia đìnhnghĩa là có bốn loại gia đình: gia đình Sát-đế-lỵ, gia đình Bà-la-môn, gia đình thương buôn, và gia đình hạng cùng đinh.

Bỏn xẻn: vị ni (nghĩ rằng): “Làm cách nào để các tỷ-kheo ni khác không đi đến?” rồi nói xấu về gia đình trong sự hiện diện của các tỷ-kheo ni thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya). Vị ni nói xấu về các tỷ-kheo ni trong sự hiện diện của gia đình thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

[348] Trong khi không bỏn xẻn về gia đình vị ni giải thích về các điều bất tiện đang xảy ra, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN TU VIỆN - ĐIỀU HỌC THỨ SÁU:

[349] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có nhiều tỷ-kheo ni đã trải qua mùa (an cư) mưa ở chỗ trú xứ là thôn làng rồi đã đi đến thành Sāvatthi. Các tỷ-kheo ni đã nói với các tỷ-kheo ni ấy điều này:

- Các ni sư đã sống qua mùa (an cư) mưa ở đâu? Chắc hẳn sự giáo giới đã có hiệu quả?

- Này các ni sư, không có các tỷ-kheo ở nơi ấy, sự giáo giới sẽ có hiệu quả từ ở đâu?

Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo ni lại sống mùa (an cư) mưa tại trú xứ không có tỷ-kheo?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo ni sống mùa (an cư) mưa tại trú xứ không có tỷ-kheo, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao các tỷ-kheo ni lại sống mùa (an cư) mưa tại trú xứ không có tỷ-kheo? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào sống mùa (an cư) mưa tại trú xứ không có tỷ-kheothì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[350] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Không có tỷ-kheonghĩa là trú xứ không thể đi vì việc giáo giới hoặc vì việc đồng cộng trú. Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ sống mùa (an cư) mưa” rồi sắp xếp chỗ trú ngụ, đem lại nước uống nước rửa, quét phòng thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Với sự mọc lên của mặt trời thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

[351] Các vị tỷ-kheo đã vào mùa (an cư) mưa bỏ đi hoặc hoàn tục hoặc qua đời hoặc chuyển sang phe khác, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN TU VIỆN - ĐIỀU HỌC THỨ BẢY:

[352] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có nhiều tỷ-kheo ni đã trải qua mùa (an cư) mưa ở chỗ trú xứ là thôn làng rồi đã đi đến thành Sāvatthi. Các tỷ-kheo ni đã nói với các tỷ-kheo ni ấy điều này:

- Các ni sư đã sống qua mùa (an cư) mưa ở đâu? Chắc hẳn đã thỉnh cầu[3]nơi hội chúng tỷ-kheo?

- Này các ni sư, chúng tôi không có thỉnh cầu nơi hội chúng tỷ-kheo.

Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo ni đã sống qua mùa (an cư) mưa lại không thỉnh cầu nơi hội chúng tỷ-kheo?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo ni đã sống qua mùa (an cư) mưa không thỉnh cầu nơi hội chúng tỷ-kheo, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao các tỷ-kheo ni đã sống qua mùa (an cư) mưa lại không thỉnh cầu nơi hội chúng tỷ-kheo vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào đã sống qua mùa (an cư) mưa không thỉnh cầu ở cả hai hội chúng dựa trên ba tình huống là do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ thì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[353] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Đã sống qua mùa (an cư) mưanghĩa là đã sống (an cư) ba tháng thời kỳ đầu hoặc ba tháng thời kỳ sau.

Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ không thỉnh cầu ở cả hai hội chúng dựa trên ba tình huống là do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ,” trong việc buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

[354] Khi có nguy hiểm, sau khi tầm cầu nhưng không đạt được, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN TU VIỆN - ĐIỀU HỌC THỨ TÁM:

[355] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự giữa dân chúng dòng Sākya (Thích ca), trong thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), tu viện Nigrodha. Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư sau khi đã đi đến chỗ trú ngụ của các tỷ-kheo ni rồi giáo giới các tỷ-kheo ni nhóm Lục Sư. Các tỷ-kheo ni đã nói với các tỷ-kheo ni nhóm Lục Sư điều này:

- Này các ni sư, hãy đi. Chúng ta sẽ đi (nghe) giáo giới.

- Này các ni sư, chúng tôi cũng nên đi vì lý do giáo giới, tuy nhiên các ngài đại đức nhóm Lục Sư đi đến ngay tại đây và giáo giới cho chúng tôi.

Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo ni nhóm Lục Sư lại không đi giáo giới?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo ni nhóm Lục Sư không đi giáo giới, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao các tỷ-kheo ni nhóm Lục Sư lại không đi giáo giới vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào không đi vì việc giáo giới hoặc vì việc đồng cộng trúthì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[356] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Việc giáo giới nghĩa là tám Trọng Pháp.

Việc đồng cộng trúnghĩa là có chung hành sự, có chung việc đọc tụng (giới bổn Pātimokkha), có sự học tập giống nhau.

Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ không đi vì việc giáo giới hoặc vì việc đồng cộng trú,” trong việc buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

[357] Khi có nguy hiểm, sau khi tìm kiếm nhưng không đạt được vị tỷ-kheo ni thứ nhì, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN TU VIỆN - ĐIỀU HỌC THỨ CHÍN:

[358] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ni không hỏi về lễ Uposatha (Bố Tát) cũng không thỉnh cầu sự giáo giới. Các vị tỷ-kheo phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo ni không hỏi về lễ Uposatha cũng không thỉnh cầu sự giáo giới?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo ni không hỏi về lễ Uposatha cũng không thỉnh cầu sự giáo giới, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao các tỷ-kheo ni không hỏi về lễ Uposatha cũng không thỉnh cầu sự giáo giới vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni vào mỗi nửa tháng nên mong mỏi hai việc từ hội chúng tỷ-kheo: việc hỏi ngày lễ Uposatha và việc đi đến (để nghe) giáo giới; nếu vượt quá hạn ấythì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[359] Vào mỗi nửa tháng: vào mỗi kỳ Uposatha.

Ngày lễ Uposathanghĩa là có hai ngày lễ Uposatha: ngày mười bốn và ngày mười lăm.

Việc giáo giới nghĩa là tám Trọng Pháp.

Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ không hỏi về lễ Uposatha cũng không thỉnh cầu sự giáo giới,” trong việc buông bỏ trách nhiệm thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

[360] Khi có nguy hiểm, sau khi tìm kiếm nhưng không đạt được vị tỷ-kheo ni thứ nhì, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

*******

PHẦN TU VIỆN - ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI:

[361] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo ni nọ cùng với người nam một nam với một nữ nặn mụt nhọt phát sanh ở phần dưới thân. Khi ấy, người nam ấy đã khởi sự làm nhơ vị tỷ-kheo ni. Vị tỷ-kheo ni đã bị hoảng hốt. Các tỷ-kheo ni sau khi chạy lại đã nói với tỷ-kheo ni ấy điều này:

- Này ni sư, vì sao cô đã bị hoảng hốt?

Khi ấy, vị tỷ-kheo ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỷ-kheo ni. Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao vị tỷ-kheo ni lại cùng với người nam một nam với một nữ nặn mụt nhọt phát sanh ở phần dưới thân?

...(như trên)...

- Này các tỷ-kheo, nghe nói vị tỷ-kheo ni cùng với người nam một nam với một nữ nặn mụt nhọt phát sanh ở phần dưới thân, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao vị tỷ-kheo ni lại cùng với người nam một nam với một nữ nặn mụt nhọt phát sanh ở phần dưới thân vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào khi chưa hỏi ý hội chúng hoặc nhóm lại cùng với người nam một nam với một nữ làm cho mụt nhọt hoặc vết loét phát sanh ở phần dưới thân vỡ ra hoặc được xẻ hoặc được rửa ráy hoặc được bôi thuốc hoặc được băng lại hoặc được tháo băng ra thì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).

[362] Vị (ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vịtỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

Ở phần dưới thânnghĩa là từ lỗ rún trở xuống từ đầu gối trở lên.

Phát sanh: được phát sanh tại nơi ấy.

Mụt nhọtnghĩa là bất cứ loại mụt nhọt nào.

Vết loétnghĩa là bất cứ loại vết thương nào.

Khi chưa hỏi ý: chưa có thông báo.

Hội chúngnghĩa là hội chúng tỷ-kheo ni được đề cập đến.

Nhómnghĩa là nhiều vị tỷ-kheo ni được đề cập đến.

Người namnghĩa là người nam nhân loại, không phải dạ-xoa nam, không phải ma nam, không phải thú đực, có sự hiểu biết, có khả năng làm nhơ.

Cùng với: cùng chung.

Một nữ với một nam: chính người nam và vị tỷ-kheo ni.

Vị ra lệnh rằng: “Hãy làm vỡ ra” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Khi đã bị vỡ thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya). Vị ra lệnh rằng: “Hãy xẻ ra” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Khi đã được xẻ thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya). Vị ra lệnh rằng: “Hãy rửa” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Khi đã được rửa thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya). Vị ra lệnh rằng: “Hãy bôi thuốc” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Khi đã được bôi thuốc thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya). Vị ra lệnh rằng: “Hãy băng lại” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Khi đã được băng lại thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya). Vị ra lệnh rằng: “Hãy tháo băng ra” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Khi đã được tháo băng ra thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).

[363] Vị ni bảo làm cho vỡ ra hoặc bảo xẻ ra hoặc bảo rửa hoặc bảo bôi thuốc hoặc bảo băng lại hoặc bảo tháo băng ra sau khi đã hỏi ý, có người nữ nào đó có sự hiểu biết là người nữ thứ nhì, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

Phần Tu Viện là phần thứ sáu.

*******


[1]Theo ngài Buddhaghosa, đại đức Kappitaka là vị trưởng lão trong số một ngàn đạo sĩ bện tóc được đề cập ở Đại Phẩm – Mahāvagga tập 1, chương I, [37].

[2]Xem điều pācittiya 2 của tỷ-kheo (Phân Tích Giới Tỷ-Kheotập 2, [186]).

[3]Tức là làm lễ Tự Tứ (Pavāraṇā).

---o0o---

Nguồn: www.budsas.org

Trình bày: Linh Thoại

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567