Tạng Luật
Vinayapitaka
Phân Tích Giới Tỷ-Kheo - II
(Bhikkhuvibhanga II)
Tỳ kheo Indacanda Nguyệt Thiêndịch
---o0o---
VIII. CHƯƠNG ƯNG ĐỐI TRỊ (PĀCITTIYAKAṆḌAṂ)
(tiếp theo)
PHẦN CÓ SINH VẬT - ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT:
[631] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi là cung thủ. Các con quạ làm vị ấy không vui. Vị ấy sau khi bắn trúng các con quạ rồi đã chặt đầu và cắm thành xâu ở cây cọc nhọn. Các tỷ-kheo đã nói như vầy:
- Này đại đức, ai đã đoạt lấy mạng sống các con quạ?
- Này các đại đức, các con quạ làm tôi không vui.
Các vị tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Udāyi lại cố ý đoạt lấy mạng sống sinh vật?
…(như trên)…
- Này Udāyi, nghe nói ngươi cố ý đoạt lấy mạng sống sinh vật, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại cố ý đoạt lấy mạng sống sinh vật vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo nào cố ý đoạt lấy mạng sống sinh vật thì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).”
[632] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỷ-kheo: ...(như trên)... Vị này là “vị tỷ-kheo” được đề cập trong ý nghĩa này.
Cố ý: sự vi phạm trong khi biết, trong khi có ý định, sau khi đã suy nghĩ, sau khi đã khẳng định.
Sinh vậtnghĩa là nói đến sinh vật là loài thú.
Đoạt lấy mạng sống: vị cắt đứt mạng quyền, làm hủy hoại, làm tổn hại sự tiếp nối thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).
[633] Sinh vật, nhận biết là sinh vật, vị đoạt lấy mạng sống thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).
Sinh vật, có sự hoài nghi, vị đoạt lấy mạng sống thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Sinh vật, (lầm) tưởng không phải là sinh vật, vị đoạt lấy mạng sống thì vô tội.
Không phải là sinh vật, (lầm) tưởng là sinh vật, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Không phải là sinh vật, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Không phải là sinh vật, nhận biết không phải là sinh vật, thì vô tội.
[634] Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị không có ý định gây tử vong, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ nhất.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ:
[635] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư dầu biết vẫn sử dụng nước có sinh vật. Các vị tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỷ-kheo nhóm Lục Sư dầu biết vẫn sử dụng nước có sinh vật?
…(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, nghe nói các ngươi dầu biết vẫn sử dụng nước có sinh vật, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi dầu biết vẫn sử dụng nước có sinh vật vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo nào biết nước có sinh vật vẫn sử dụng thì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).”
[636] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỷ-kheo: ...(như trên)... Vị này là “vị tỷ-kheo” được đề cập trong ý nghĩa này.
Biếtnghĩa là tự mình biết hoặc những người khác thông báo cho vị ấy.
Có sinh vật: trong khi biết rằng: “Chúng sẽ bị chết do việc sử dụng.” Vị sử dụng trong khi biết thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).
[637] Có sinh vật, nhận biết có sinh vật, vị sử dụng thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).
Có sinh vật, có sự hoài nghi, vị sử dụng thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Có sinh vật, (lầm) tưởng không có sinh vật, vị sử dụng thì vô tội.
Không có sinh vật, (lầm) tưởng là có sinh vật, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Không có sinh vật, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Không có sinh vật, nhận biết không có sinh vật, thì vô tội.
[638] Trong khi không biết rằng: “Có sinh vật,” trong khi biết rằng: “Không có sinh vật,” trong khi biết rằng: “Chúng sẽ không bị chết do việc sử dụng” rồi sử dụng, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ nhì.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ BA:
[639] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư dầu biết sự tranh tụng đã được giải quyết đúng theo Pháp vẫn khơi lên để làm hành sự lần nữa (nói rằng):
- Hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai nên được thực hiện lại, hành sự chưa được giải quyết, đã được giải quyết sai nên được giải quyết lại.
Các vị tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỷ-kheo nhóm Lục Sư dầu biết sự tranh tụng đã được giải quyết đúng theo Pháp vẫn khơi lên để làm hành sự lần nữa?
…(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, nghe nói các ngươi dầu biết sự tranh tụng đã được giải quyết đúng theo Pháp vẫn khơi lên để làm hành sự lần nữa, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi dầu biết sự tranh tụng đã được giải quyết đúng theo Pháp vẫn khơi lên để làm hành sự lần nữa vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo nào biết sự tranh tụng đã được giải quyết đúng theo pháp vẫn khơi lên để làm hành sự lần nữa thì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).”
[640] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỷ-kheo: ...(như trên)... Vị này là “vị tỷ-kheo” được đề cập trong ý nghĩa này.
Biếtnghĩa là tự mình biết, hoặc là những người khác thông báo cho vị ấy, hoặc là vị kia thông báo.
Đúng theo phápnghĩa là được thực hiện theo Pháp, theo Luật, theo lời dạy của bậc Đạo Sư; điều ấy nghĩa là đúng theo pháp.
[641] Sự tranh tụngnghĩa là có bốn sự tranh tụng: sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách, sự tranh tụng liên quan đến tội, sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ.
Khơi lên để làm hành sự lần nữa: vị khơi lại (nói rằng): “Hành sự chưa được thực hiện, hành sự đã được thực hiện sai nên được thực hiện lại, hành sự chưa được giải quyết, đã được giải quyết sai nên được giải quyết lại” thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).
[642] Hành sự đúng pháp, nhận biết là hành sự đúng pháp, vị khơi lại thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).
Hành sự đúng pháp, có sự hoài nghi, vị khơi lại thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Hành sự đúng pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai pháp, vị khơi lại thì vô tội.
Hành sự sai pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng pháp, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Hành sự sai pháp, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Hành sự sai pháp, nhận biết là hành sự sai pháp, thì vô tội.
[643] Vị khơi lại trong khi biết rằng: “Hành sự đã được thực hiện sai pháp hoặc theo nhóm hoặc của vị không đáng bị hành sự,” vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ ba.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ TƯ:
[644] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai dòng Sākya sau khi vi phạm tội xuất ra tinh dịch có sự cố ý đã thông báo đến vị tỷ-kheo là đệ tử của người anh rằng:
- Này đại đức, tôi đã vi phạm tội xuất ra tinh dịch có sự cố ý. Chớ thông báo cho bất cứ ai.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ sau khi vi phạm tội xuất ra tinh dịch có sự cố ý đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsacủa tội ấy. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsacủa tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, vị nọ sau khi nhìn thấy vị tỷ-kheo ấy đã nói điều này:
- Này đại đức, sau khi vi phạm tội xuất ra tinh dịch có sự cố ý tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsacủa tội ấy. Hội chúng đã ban hành phạt parivāsacủa tội ấy đến tôi đây. Tôi đây đang thực hành parivāsa. Này đại đức, tôi xin trình báo. Đại đức hãy ghi nhận về tôi rằng: “Vị có trình báo.”
- Này đại đức, có phải vị nào khác vi phạm tội này, vị ấy cũng thực hiện như vầy?
- Này đại đức, đúng vậy.
- Này đại đức, đại đức Upananda con trai dòng Sākya này sau khi vi phạm tội xuất ra tinh dịch có sự cố ý, vị ấy đã thông báo đến tôi rằng: “Này đại đức, tôi đã vi phạm tội xuất ra tinh dịch có sự cố ý. Chớ thông báo cho bất cứ ai.”
- Này đại đức, có phải đại đức đã che giấu về tội ấy?
- Này đại đức, đúng vậy.
Sau đó, vị tỷ-kheo ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỷ-kheo. Các vị tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao vị tỷ-kheo biết vẫn che giấu tội xấu xa của vị tỷ-kheo?
…(như trên)…
- Này tỷ-kheo, nghe nói ngươi biết vẫn che giấu tội xấu xa của vị tỷ-kheo, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi biết vẫn che giấu tội xấu xa của vị tỷ-kheo vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo nào biết vẫn che giấu tội xấu xa của vị tỷ-kheothì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).”
[645] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỷ-kheo: ...(như trên)... Vị này là “vị tỷ-kheo” được đề cập trong ý nghĩa này.
Của vị tỷ-kheo nghĩa là của vị tỷ-kheo khác.
Biếtnghĩa là tự mình biết, hoặc là những người khác thông báo cho vị ấy, hoặc là vị kia thông báo.
Tội xấu xanghĩa là bốn tội pārājika(Bất cộng trụ) và mười ba tội saṅghādisesa(Tăng tàng).
Che giấu: Vị (nghĩ rằng): “Sau khi biết được điều này, các vị sẽ quở trách, các vị sẽ nhắc nhở, các vị sẽ rầy la, các vị sẽ chê bai, các vị sẽ làm cho xấu hổ; ta sẽ không thông báo,” khi trách nhiệm đã được buông bỏ thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).
[646] Tội xấu xa, nhận biết là tội xấu xa, vị che giấu thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).
Tội xấu xa, có sự hoài nghi, vị che giấu thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Tội xấu xa, (lầm) tưởng tội không xấu xa, vị che giấu thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Vị che giấu tội không xấu xa thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Vị che giấu sự vi phạm xấu xa hoặc không xấu xa của người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Tội không xấu xa, (lầm) tưởng là tội xấu xa, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Tội không xấu xa, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Tội không xấu xa, nhận biết là tội không xấu xa, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
[647] Vị (nghĩ rằng): “Sẽ có sự xung đột, hoặc sự cãi cọ, hoặc sự tranh luận, hoặc sự tranh cãi đến hội chúng” rồi không thông báo, vị (nghĩ rằng): “Sẽ có sự chia rẽ hoặc sự bất đồng đến hội chúng” rồi không thông báo, vị (nghĩ rằng): “Vị này hung bạo thô lỗ sẽ gây nguy hiểm đến mạng sống hoặc nguy hiểm đến Phạm hạnh” rồi không thông báo, trong khi không nhìn thấy các tỷ-kheo thích hợp khác rồi không thông báo, vị không có ý định che giấu rồi không thông báo, vị (nghĩ rằng): “Sẽ được nhận biết do hành động của chính vị ấy” rồi không thông báo, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ tư.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ NĂM:
[648] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, trong thành Rājagaha có nhóm mười bảy thiếu niên là bạn bè. Thiếu niên Upāli là thủ lãnh của họ.
Khi ấy, cha mẹ của Upāli đã khởi ý điều này: “Có phương kế gì để sau khi chúng ta từ trần, Upāli có thể sống thoải mái và không bị cực nhọc?” Rồi cha mẹ của Upāli đã khởi ý điều này: “Nếu Upāli có thể học chữ viết, như thế sau khi chúng ta từ trần Upāli có thể sống thoải mái và không bị cực nhọc.” Rồi cha mẹ của Upāli đã khởi ý điều này: “Nếu Upāli học chữ viết thì các ngón tay sẽ bị đau.” Rồi cha mẹ của Upāli đã khởi ý điều này: “Nếu Upāli có thể học tính toán, như thế sau khi chúng ta từ trần Upāli có thể sống thoải mái và không bị cực nhọc.” Rồi cha mẹ của Upāli đã khởi ý điều này: “Nếu Upāli học tính toán thì ngực sẽ bị đau. Nếu Upāli có thể học hội họa, như thế sau khi chúng ta từ trần Upāli có thể sống thoải mái và không bị cực nhọc.” Rồi cha mẹ của Upāli đã khởi ý điều này: “Nếu Upāli học hội họa thì các con mắt sẽ bị đau. Còn những sa-môn Thích Tử này có giới luật thoải mái, có sở hành thoải mái, sau khi thọ thực thức ăn ngon rồi nằm ngủ trên những cái giường kín gió, nếu Upāli có thể xuất gia nơi các vị sa-môn Thích Tử, như thế sau khi chúng ta từ trần Upāli có thể sống thoải mái và không bị cực nhọc.”
[649] Thiếu niên Upāli đã nghe được cuộc nói chuyện trao đổi của cha mẹ. Sau đó, thiếu niên Upāli đã đi đến gặp những thiếu niên ấy, sau khi đến đã nói với những thiếu niên ấy điều này:
- Này các bạn, hãy đến, chúng ta sẽ xuất gia nơi các vị sa-môn Thích Tử.
- Này bạn, nếu bạn xuất gia, như thế thì chúng tôi cũng xuất gia.
Sau đó, những thiếu niên ấy đã đi đến gặp cha mẹ của từng người một và đã nói điều này:
- Hãy cho phép chúng con rời nhà xuất gia sống không nhà.
Khi ấy, cha mẹ của những thiếu niên ấy (nghĩ rằng): “Tất cả những đứa trẻ này có cùng ước muốn, có ý định tốt đẹp” rồi đã chấp thuận. Chúng đã đi đến gặp các tỷ-kheo và cầu xin sự xuất gia. Các tỷ-kheo đã cho chúng xuất gia và cho tu lên bậc trên. Rồi vào lúc hừng sáng của đêm, các vị ấy sau khi thức dậy đã khóc lóc rằng:
- Hãy cho cháo, hãy cho bữa ăn, hãy cho vật để nhai.
Các tỷ-kheo đã nói như vầy:
- Này các sư đệ, hãy chờ đến khi trời sáng,[1]nếu có cháo thì các đệ sẽ húp cháo, nếu có bữa ăn thì các đệ sẽ ăn, nếu có vật để nhai thì các đệ sẽ nhai; còn nếu cháo, hoặc bữa ăn, hoặc vật để nhai không có, thì các đệ sẽ ăn sau khi đi khất thực.
Mặc dầu được nói như thế bởi các tỷ-kheo, các tỷ-kheo (thiếu niên) ấy cũng vẫn khóc lóc rằng:
- Hãy cho cháo, hãy cho bữa ăn, hãy cho vật để nhai.
Rồi đã đại điện tiểu tiện ở chỗ nằm ngồi.
[650] Đức Thế Tôn sau khi thức dậy vào lúc hừng sáng của đêm đã nghe được tiếng của các đứa trẻ, sau khi nghe đã bảo đại đức Ānanda rằng:
- Này Ānanda, tiếng của các đứa trẻ ấy là gì vậy?
Khi ấy, đại đức Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỷ-kheo lại rồi đã hỏi các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo dầu biết vẫn cho tu lên bậc trên người chưa đủ hai mươi tuổi, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỷ-kheo, vì sao những kẻ rồ dại ấy, khi biết rõ vẫn cho tu lên bậc trên người chưa đủ hai mươi tuổi vậy? Này các tỷ-kheo, người chưa đủ hai mươi tuổi không có khả năng chịu đựng sự lạnh, sự nóng, sự đói, sự khát, các sự xúc chạm bởi ruồi, muỗi, gió, nắng, và các loài bò sát, các lối nói lăng mạ, công kích, có khuynh hướng không cam chịu các cảm thọ khổ, nhức nhối, khốc liệt, sắc bén, gay gắt, không chút thích thú, khó chịu, chết người thuộc về cơ thể đã sanh khởi. Này các tỷ-kheo, người đã được hai mươi tuổi có khả năng chịu đựng sự lạnh, sự nóng, sự đói, sự khát, các sự xúc chạm bởi ruồi, muỗi, gió, nắng, và các loài bò sát, các lối nói lăng mạ, công kích, có khuynh hướng cam chịu các cảm thọ khổ, nhức nhối, khốc liệt, sắc bén, gay gắt, không chút thích thú, khó chịu, chết người thuộc về cơ thể đã sanh khởi. Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. ...(như trên)... Và này các tỷ-kheo, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo nào dầu biết vẫn cho tu lên bậc trên người chưa đủ hai mươi tuổi thì người ấy chưa được tu lên bậc trên và các vị tỷ-kheo ấy bị chê trách; đây là tội ưng đối trị (pācittiyaṃ)trong trường hợp ấy.”
[651] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỷ-kheo: ...(như trên)... Vị này là “vị tỷ-kheo” được đề cập trong ý nghĩa này.
Biếtnghĩa là tự mình biết, hoặc là những người khác thông báo cho vị ấy, hoặc là vị kia thông báo.
Người chưa đủ hai mươi tuổinghĩa là người chưa đạt được hai mươi tuổi. (Nghĩ rằng): “Ta sẽ cho tu lên bậc trên” rồi tìm kiếm nhóm (tỷ-kheo), hoặc vị tuyên ngôn (ācariya), hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Với lời đề nghị thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Với hai lời thông báo thì phạm các tội tác ác (dukkaṭa). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, thầy tế độ phạm tội ưng đối trị (pācittiya), nhóm (chứng minh) và vị tuyên ngôn phạm tội tác ác (dukkaṭa).
[652] Người chưa đủ hai mươi tuổi, nhận biết chưa đủ hai mươi tuổi, vị cho tu lên bậc trên thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).
Người chưa đủ hai mươi tuổi, có sự hoài nghi, vị cho tu lên bậc trên thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).
Người chưa đủ hai mươi tuổi, (lầm) tưởng đã đủ hai mươi tuổi, vị cho tu lên bậc trên thì vô tội.
Người đã đủ hai mươi tuổi, (lầm) tưởng chưa đủ hai mươi tuổi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Người đã đủ hai mươi tuổi, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Người đã đủ hai mươi tuổi, nhận biết đã đủ hai mươi tuổi, thì vô tội.
[653] Vị cho tu lên bậc trên người chưa đủ hai mươi tuổi (lầm) tưởng rằng đã đủ hai mươi tuổi, vị cho tu lên bậc trên người đã đủ hai mươi tuổi khi nhận biết rằng đã đủ hai mươi tuổi, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.[2]
Dứt điều học thứ năm.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ SÁU:
[654] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có đoàn xe nọ có ý định đi về phía tây của thành Rājagaha. Có vị tỷ-kheo nọ đã nói với những người ấy điều này:
- Tôi cũng sẽ cùng đi với quý vị.
- Thưa ngài, chúng tôi sẽ đi vòng tránh trạm thuế.
- Này các đạo hữu, các người tự biết lấy.
Những viên chức đã nghe được rằng: “Nghe nói đoàn xe sẽ đi vòng tránh trạm thuế” nên họ đã canh giữ các con đường. Sau đó, những viên chức ấy bắt được đoàn xe ấy, đã tịch thu, rồi đã nói với vị tỷ-kheo ấy điều này:
- Thưa ngài, vì sao ngài biết vẫn đi chung với đám người đạo tặc?
Họ đã giữ lại rồi thả cho đi. Sau đó, vị tỷ-kheo ấy đã đi đến thành Sāvatthi và kể lại sự việc ấy cho các tỷ-kheo. Các vị tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao vị tỷ-kheo dầu biết vẫn hẹn trước rồi đi chung đường xa với đám người đạo tặc?
…(như trên)…
- Này tỷ-kheo, nghe nói ngươi dầu biết vẫn hẹn trước rồi đi chung đường xa với đám người đạo tặc, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi biết vẫn hẹn trước rồi đi chung đường xa với đám người đạo tặc vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo nào biết vẫn hẹn trước rồi đi chung đường xa với đám người đạo tặc ngay cả từ làng này sang làng khác thì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).”
[655] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỷ-kheo: ...(như trên)... Vị này là “vị tỷ-kheo” được đề cập trong ý nghĩa này.
Biếtnghĩa là tự mình biết, hoặc là những người khác thông báo cho vị ấy, hoặc là vị kia thông báo.
Đám người đạo tặcnghĩa là bọn trộm cướp có các hành động đã được thực hiện hoặc có các hành động chưa được thực hiện hoặc là họ đi trộm của các vị vua hoặc là đi vòng tránh trạm thuế.
Với: cùng chung.
(Sau khi) hẹn trước: Vị hẹn trước rằng: “Này các đạo hữu, chúng ta hãy đi. Thưa ngài, chúng ta hãy đi. Thưa ngài, chúng ta hãy đi. Này các đạo hữu, chúng ta hãy đi. Hôm nay hoặc hôm qua hoặc ngày mai chúng ta hãy đi” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Ngay cả từ làng này sang làng khác: Ở ngôi làng trong khoảng cách đi được của con gà trống thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya) theo mỗi một khoảng giữa của các ngôi làng (như thế) Không phải trong làng, ở trong rừng, thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya) theo từng khoảng cách nửa yojana.[3]
[656] Đám người đạo tặc, nhận biết là đám người đạo tặc, vị hẹn trước rồi đi chung đường xa ngay cả từ làng này sang làng khác thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).
Đám người đạo tặc, có sự hoài nghi, vị hẹn trước rồi đi chung đường xa ngay cả từ làng này sang làng khác thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Đám người đạo tặc, (lầm) tưởng không phải là đám người đạo tặc, vị hẹn trước rồi đi chung đường xa ngay cả từ làng này sang làng khác thì vô tội.
Vị tỷ-kheo hẹn trước còn đám người không hẹn trước, thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Không phải là đám người đạo tặc, (lầm) tưởng là đám người đạo tặc, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Không phải là đám người đạo tặc, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Không phải là đám người đạo tặc, nhận biết không phải là đám người đạo tặc, thì vô tội.
[657] Sau khi không hẹn trước rồi đi, đám người hẹn trước còn vị tỷ-kheo không hẹn trước, vị đi ngoài giờ hẹn ước, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ sáu.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ BẢY:
[658] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ trong lúc đi đến thành Sāvatthi ở trong xứ sở Kosala đã đi ngang qua cổng làng nọ. Có người đàn bà nọ sau khi gây gỗ với chồng đã đi ra khỏi làng khi nhìn thấy vị tỷ-kheo đã nói điều này:
- Thưa ngài, ngài đại đức sẽ đi đâu?
- Này chị gái, tôi sẽ đi thành Sāvatthi.
- Tôi sẽ cùng đi với ngài đại đức.
- Này chị gái, nếu muốn đi.
Sau đó, chồng của người đàn bà ấy đã đi ra khỏi làng và đã hỏi dân chúng rằng:
- Này quý vị, vậy quý vị có nhìn thấy người đàn bà hình dáng như vầy không?
- Này ông, cô ấy đi với vị xuất gia rồi.
Sau đó, người đàn ông ấy đã đuổi theo và nắm lấy vị tỷ-kheo ấy, đánh đập, rồi thả ra. Khi ấy, vị tỷ-kheo ấy trong lúc giận dỗi đã ngồi xuống ở gốc cây nọ. Khi ấy, người đàn bà ấy đã nói với người đàn ông ấy điều này:
- Này ông, vị tỷ-kheo ấy không dụ dỗ tôi đi, mà chính tôi đi chung với vị tỷ-kheo ấy. Vị tỷ-kheo ấy không làm gì cả. Hãy đi đến và xin lỗi vị ấy.
Khi ấy, người đàn ông ấy đã xin lỗi vị tỷ-kheo ấy. Sau đó, vị tỷ-kheo ấy đã đi đến thành Sāvatthi và kể lại sự việc ấy cho các tỷ-kheo. Các vị tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao vị tỷ-kheo lại hẹn trước rồi đi chung đường xa với người nữ?
…(như trên)…
- Này tỷ-kheo, nghe nói ngươi hẹn trước rồi đi chung đường xa với người nữ, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại hẹn trước rồi đi chung đường xa với người nữ vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo nào hẹn trước rồi đi chung đường xa với người nữ ngay cả (đi) từ làng này sang làng khác thì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ),
[659] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỷ-kheo: ...(như trên)... Vị này là “vị tỷ-kheo” được đề cập trong ý nghĩa này.
Người nữnghĩa là người nữ nhân loại, không phải nữ dạ-xoa, không phải ma nữ, không phải loài thú cái, có hiểu biết, có khả năng nhận biết lời nói tốt và lời nói xấu, là dâm dật và không dâm dật.
Với: cùng chung.
(Sau khi) hẹn trước: Vị hẹn trước rằng: “Này chị gái, chúng ta hãy đi. Thưa ngài, chúng ta hãy đi. Thưa ngài, chúng ta hãy đi. Này chị gái, chúng ta hãy đi. Hôm nay hoặc hôm qua hoặc ngày mai chúng ta hãy đi” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Ngay cả từ làng này sang làng khác: Ở ngôi làng trong khoảng cách đi được của con gà trống thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya) theo mỗi một khoảng giữa của các ngôi làng (như thế) Không phải trong làng, ở trong rừng, thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya) theo từng khoảng cách nửa yojana.
[660] Người nữ, nhận biết là người nữ, vị hẹn trước rồi đi chung đường xa ngay cả từ làng này sang làng khác thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).
Người nữ, có sự hoài nghi, vị hẹn trước rồi đi chung đường xa ngay cả từ làng này sang làng khác thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Người nữ, (lầm) tưởng không phải là người nữ, vị hẹn trước rồi đi chung đường xa ngay cả từ làng này sang làng khác thì vô tội.
Vị tỷ-kheo hẹn trước còn người nữ không hẹn trước, thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Vị tỷ-kheo hẹn trước rồi đi chung đường xa với nữ dạ-xoa, hoặc với ma nữ, hoặc với người vô căn, hoặc với loài thú cái hình người ngay cả từ làng này sang làng khác thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Không phải là người nữ, (lầm) tưởng là người nữ, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Không phải là người nữ, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Không phải là người nữ, nhận biết không phải là người nữ, thì vô tội.
[661] Sau khi không hẹn trước rồi đi, người nữ hẹn trước còn vị tỷ-kheo không hẹn trước, vị đi ngoài giờ hẹn ước, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ bảy.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ TÁM:
[662] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapinḍika. Vào lúc bấy giờ, tỷ-kheo tên Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng đã sanh khởi tà kiến ác như vầy: “Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.”
Nhiều vị tỷ-kheo đã nghe được rằng:
- Nghe nói tỷ-kheo tên Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng đã sanh khởi tà kiến ác như vầy: “Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.”
Sau đó, các tỷ-kheo ấy đã đi đến gặp tỷ-kheo Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng, sau khi đến đã nói với tỷ-kheo Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng điều này:
- Này đại đức Ariṭṭha, nghe nói đại đức đã sanh khởi tà kiến ác như vầy: “Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành,” có đúng không vậy?
- Này các đại đức, như thế là tôi hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.
- Này đại đức Ariṭṭha, chớ có nói như thế. Chớ có vu khống đức Thế Tôn bởi vì việc vu khống đức Thế Tôn là không tốt. Bởi vì đức Thế Tôn không có nói như thế. Này đại đức Ariṭṭha, đức Thế Tôn đã giảng giải bằng nhiều phương thức rằng các pháp chướng ngại ấy có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành. Đức Thế Tôn đã giảng giải rằng dục tình chỉ có chút ít khoái lạc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn. Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là bộ xương, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn. Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là miếng thịt, ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là cây đuốc cỏ, ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là hố than cháy rực, ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là giấc mơ, ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là vật vay mượn, ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là trái trên cây, ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là lò sát sanh, ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là mũi lao nhọn, ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là đầu rắn độc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn.
Khi được các tỷ-kheo ấy nói như thế, tỷ-kheo Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng do có sự ngoan cố, chấp giữ, và bảo thủ tà kiến ác ấy nên vẫn phát biểu giống như thế:
- Này các đại đức, như thế là tôi hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.
Như thế, các tỷ-kheo ấy không thể giúp cho tỷ-kheo Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng thoát khỏi tà kiến ác ấy. Sau đó, các tỷ-kheo ấy đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỷ-kheo lại và đã hỏi tỷ-kheo Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng rằng:
- Này Ariṭṭha, nghe nói tà kiến ác đã sanh khởi ở ngươi như vầy: “Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành,” có đúng không vậy?
- Bạch ngài, như thế là con hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại hiểu Pháp được ta thuyết giảng là như thế? Này kẻ rồ dại, không phải ta đã giảng giải bằng nhiều phương thức rằng các pháp chướng ngại có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành? Dục tình đã được ta giảng giải là chỉ có chút ít khoái lạc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn. Dục tình đã được ta giảng giải như là bộ xương, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn. Dục tình đã được ta giảng giải như là miếng thịt, ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là cây đuốc cỏ, ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là hố than cháy rực, ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là giấc mơ, ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là vật vay mượn, ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là trái trên cây, ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là lò sát sanh, ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là mũi lao nhọn, ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là đầu rắn độc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn. Hơn nữa, này kẻ rồ dại, ngươi không những vu khống ta do sự hiểu biết sai lại của bản thân mà ngươi còn làm tổn hại chính bản thân và tích lũy vô số điều bất thiện nữa. Này kẻ rồ dại, bởi vì điều ấy sẽ đem lại cho ngươi sự thất bại và khổ đau lâu dài. Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỷ-kheo, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo nào nói như vầy: ‘Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.’ Vị tỷ-kheo ấy nên được nói bởi các tỷ-kheo như sau: ‘Đại đức chớ có nói như thế. Chớ có vu khống đức Thế Tôn bởi vì việc vu khống đức Thế Tôn là không tốt. Bởi vì đức Thế Tôn không có nói như thế. Này đại đức, đức Thế Tôn đã giảng giải bằng nhiều phương thức rằng các pháp chướng ngại có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.’ Và khi được nói như vậy bởi các tỷ-kheo mà vị tỷ-kheo ấy vẫn chấp giữ y như thế, thì vị tỷ-kheo ấy nên được các tỷ-kheo nhắc nhở đến lần thứ ba để từ bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy thì như thế là điều tốt, nếu không dứt bỏ thì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).”
[663] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỷ-kheo: ...(như trên)... Vị này là “vị tỷ-kheo” được đề cập trong ý nghĩa này.
Nói như vầy: “Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.”
[664] Vị tỷ-kheo ấy: vị nói như vầy là vị tỷ-kheo ấy.
Bởi các tỷ-kheo: bởi các vị tỷ-kheo khác. Các vị nào thấy, các vị nào nghe, các vị ấy nên nói rằng: “Đại đức chớ có nói như thế. Chớ có vu khống đức Thế Tôn bởi vì việc vu khống đức Thế Tôn là không tốt. Bởi vì đức Thế Tôn không có nói như thế. Này đại đức, đức Thế Tôn đã giảng giải bằng nhiều phương thức rằng các pháp chướng ngại có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ấy) dứt bỏ thì như thế là điều tốt, nếu (vị ấy) không dứt bỏ thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Các vị sau khi nghe mà không nói thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Vị tỷ-kheo ấy nên được kéo đến giữa hội chúng rồi nên được nói rằng: “Đại đức chớ có nói như thế. Chớ có vu khống đức Thế Tôn bởi vì việc vu khống đức Thế Tôn là không tốt. Bởi vì đức Thế Tôn không có nói như thế. Này đại đức, đức Thế Tôn đã giảng giải bằng nhiều phương thức rằng các pháp chướng ngại có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ấy) dứt bỏ thì như thế là điều tốt, nếu (vị ấy) không dứt bỏ thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
[665] Vị tỷ-kheo ấy nên được nhắc nhở. Và này các tỷ-kheo, nên được nhắc nhở như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỷ-kheo này tên (như vầy) đã sanh khởi tà kiến ác như vầy: ‘Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.’ Vị ấy không chịu từ bỏ tà kiến ác ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên nhắc nhở vị tỷ-kheo tên (như vầy) để dứt bỏ tà kiến ấy. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỷ-kheo này tên (như vầy) đã sanh khởi tà kiến ác như vầy: ‘Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.’ Vị ấy không chịu từ bỏ tà kiến ác ấy. Hội chúng nhắc nhở vị tỷ-kheo tên (như vầy) để dứt bỏ tà kiến ấy. Đại đức nào đồng ý việc nhắc nhở vị tỷ-kheo tên (như vầy) để dứt bỏ tà kiến ấy, vị ấy nên im lặng; vị nào không đồng ý, có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: ...(như trên)...
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỷ-kheo này tên (như vầy) đã sanh khởi tà kiến ác như vầy: ‘Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.’ Vị ấy không chịu từ bỏ tà kiến ác ấy. Hội chúng nhắc nhở vị tỷ-kheo tên (như vầy) để dứt bỏ tà kiến ấy. Đại đức nào đồng ý việc nhắc nhở vị tỷ-kheo tên (như vầy) để dứt bỏ tà kiến ấy, vị ấy nên im lặng; vị nào không đồng ý, có thể nói lên.
Vị tỷ-kheo tên (như vầy) đã được hội chúng nhắc nhở để dứt bỏ tà kiến ấy. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[666] Vo lời đề nghị thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Với hai lời thông báo thì phạm các tội tác ác (dukkaṭa). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).
[667] Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị không dứt bỏ thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).
Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị không dứt bỏ thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).
Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị không dứt bỏ thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).
Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
[668] Vị chưa được nhắc nhở, vị dứt bỏ, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ tám.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ CHÍN:
[669] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapinḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư dầu biết vẫn hưởng thụ chung, vẫn cộng trú, vẫn nằm chung chỗ ngụ với tỷ-kheo Ariṭṭha là vị phát ngôn như thế, vị không thực hành thuận pháp, và không dứt bỏ tà kiến ấy.
Các vị tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỷ-kheo nhóm Lục Sư dầu biết vẫn hưởng thụ chung, vẫn cộng trú, vẫn nằm chung chỗ ngụ với tỷ-kheo Ariṭṭha là vị phát ngôn như thế, vị không thực hành thuận pháp, và không dứt bỏ tà kiến ấy?
…(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, nghe nói các ngươi dầu biết vẫn hưởng thụ chung, vẫn cộng trú, vẫn nằm chung chỗ ngụ với tỷ-kheo Ariṭṭha là vị phát ngôn như thế, vị không thực hành thuận pháp, và không dứt bỏ tà kiến ấy, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi dầu biết vẫn hưởng thụ chung, vẫn cộng trú, vẫn nằm chung chỗ ngụ với tỷ-kheo Ariṭṭha là vị phát ngôn như thế, vị không thực hành thuận pháp, và không dứt bỏ tà kiến ấy vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo nào dầu biết vẫn hưởng thụ chung, hoặc vẫn cộng trú, hoặc vẫn nằm chung chỗ ngụ với vị tỷ-kheo là vị phát ngôn như thế, vị không thực hành thuận pháp, và không dứt bỏ tà kiến ấy thì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).”
[670] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỷ-kheo: ...(như trên)... Vị này là “vị tỷ-kheo” được đề cập trong ý nghĩa này.
Biếtnghĩa là tự mình biết, hoặc là những người khác thông báo cho vị ấy, hoặc là vị kia thông báo.
Vị phát ngôn như thế: là vị nói như vầy: “Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.”
Không thực hành thuận phápnghĩa là bị phạt án treo, chưa được thu hồi.
Với vị không dứt bỏ tà kiến ấy: với vị không dứt bỏ tà kiến đó.
(Hoặc vẫn) hưởng thụ chung: sự hưởng thụ chung nghĩa là có hai sự hưởng thụ chung: Sự hưởng thụ chung về vật chất và sự hưởng thụ chung về Pháp. Sự hưởng thụ chung về vật chấtnghĩa là vị cho hoặc thọ lãnh vật chất thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya). Sự hưởng thụ chung về Phápnghĩa là vị đọc tụng hoặc bảo đọc tụng. Vị đọc tụng hoặc bảo đọc tụng theo câu thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya) theo từng câu. Vị đọc tụng hoặc bảo đọc tụng theo âm thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya) theo từng âm.
Hoặc (vẫn) cộng trú: là thực hiện lễ Uposatha hoặc lễ Pavāraṇā hoặc hành sự của hội chúng cùng với vị bị phạt án treo thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).
Hoặc (vẫn) nằm chung chỗ ngụ: Ở chỗ một mái che, khi vị bị phạt án treo đang nằm vị tỷ-kheo nằm xuống thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya). Khi vị tỷ-kheo đang nằm, vị bị phạt án treo nằm xuống thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya). Hoặc cả hai nằm xuống thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya). Sau khi đứng dậy, (cả hai) lại nằm xuống thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).
[671] Vị bị phạt án treo, nhận biết là bị phạt án treo, vị hưởng thụ chung hoặc cộng trú hoặc nằm chung chỗ ngụthì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).
Vị bị phạt án treo, có sự hoài nghi, vị hưởng thụ chung hoặc cộng trú hoặc nằm chung chỗ ngụthì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).
Vị bị phạt án treo, (lầm) tưởng là không bị phạt án treo, vị hưởng thụ chung hoặc cộng trú hoặc nằm chung chỗ ngụthì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).
Vị không bị phạt án treo, (lầm) tưởng là bị phạt án treo, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Vị không bị phạt án treo, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Vị không bị phạt án treo, nhận biết là không bị phạt án treo, thì vô tội.
[672] Vị biết rằng: “Vị không bị phạt án treo,” vị biết rằng: “Vị đã bị phạt án treo và đã được thu hồi,” vị biết rằng: “Vị đã bị phạt án treo và đã dứt bỏ tà kiến ấy,” vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ chín.
*******
ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI:
[673] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapinḍika. Vào lúc bấy giờ, sa-di tên Kaṇḍaka đã sanh khởi tà kiến ác như vầy: “Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.”
Nhiều vị tỷ-kheo đã nghe được rằng:
- Nghe nói sa-di tên Kaṇḍaka đã sanh khởi tà kiến ác như vầy: “Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.”
Sau đó, các tỷ-kheo ấy đã đi đến gặp sa-di tên Kaṇḍaka, sau khi đến đã nói với sa-di tên Kaṇḍaka điều này:
- Này sa-di Kaṇḍaka, nghe nói ngươi đã sanh khởi tà kiến ác như vầy: “Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành,” có đúng không vậy?
- Thưa các ngài, như thế là tôi hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.
- Này sa-di Kaṇḍaka, chớ có nói như thế. Chớ có vu khống đức Thế Tôn bởi vì việc vu khống đức Thế Tôn là không tốt. Bởi vì đức Thế Tôn không có nói như thế. Này sa-di Kaṇḍaka, đức Thế Tôn đã giảng giải bằng nhiều phương thức rằng các pháp chướng ngại có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành. Đức Thế Tôn đã giảng giải rằng dục tình chỉ có chút ít khoái lạc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn. Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là bộ xương, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn. Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là miếng thịt, ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là cây đuốc cỏ, ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là hố than cháy rực, ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là giấc mơ, ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là vật vay mượn, ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là trái trên cây, ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là lò sát sanh, ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là mũi lao nhọn, ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là đầu rắn độc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn.
Khi được các vị tỷ-kheo ấy nói như thế, sa-di Kaṇḍaka do có sự ngoan cố, chấp giữ, và bảo thủ tà kiến ác ấy nên vẫn phát biểu giống như thế:
- Thưa các ngài, như thế là tôi hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.
Như thế, các vị tỷ-kheo ấy không thể giúp cho sa-di Kaṇḍaka thoát khỏi tà kiến ác ấy. Sau đó, các vị tỷ-kheo ấy đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỷ-kheo lại và hỏi sa-di Kaṇḍaka rằng:
- Này Kaṇḍaka, nghe nói tà kiến ác đã sanh khởi ở ngươi như vầy: “Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành,” có đúng không vậy?
- Bạch ngài, như thế là con hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại hiểu Pháp được ta thuyết giảng là như thế? Này kẻ rồ dại, không phải ta đã giảng giải bằng nhiều phương thức rằng các pháp chướng ngại có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành? Dục tình đã được ta giảng giải là chỉ có chút ít khoái lạc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn. Dục tình đã được ta giảng giải như là bộ xương, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn. Dục tình đã được ta giảng giải như là miếng thịt, ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là cây đuốc cỏ, ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là hố than cháy rực, ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là giấc mơ, ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là vật vay mượn, ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là trái trên cây, ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là lò sát sanh, ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là mũi lao nhọn, ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là đầu rắn độc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn. Hơn nữa, này kẻ rồ dại, ngươi không những vu khống ta do sự hiểu biết sai lại của bản thân mà ngươi còn làm tổn hại chính bản thân và tích lũy vô số điều bất thiện nữa. Này kẻ rồ dại, bởi vì điều ấy sẽ đem lại cho ngươi sự thất bại và khổ đau lâu dài. Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. Hơn nữa, này kẻ rồ dại, chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đã có đức tin.
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, như thế thì hội chúng hãy trục xuất sa-di Kaṇḍaka. Và này các tỷ-kheo, nên trục xuất như vầy: “Này sa-di Kaṇḍaka, kể từ hôm nay không được tuyên bố đức Thế Tôn ấy là bậc Đạo Sư của ngươi nữa. Ngay cả việc các sa-di khác được hưởng là việc nằm chung chỗ ngụ với các tỷ-kheo hai ba đêm, việc ấy không có cho ngươi nữa. Hãy đi chỗ khác, hãy biến mất đi.”
Sau đó, hội chúng đã trục xuất sa-di Kaṇḍaka.
[674] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư dầu biết vẫn dụ dỗ, vẫn nâng đỡ, vẫn hưởng thụ chung, vẫn nằm chung chỗ ngụ với sa-di Kaṇḍaka là kẻ đã bị trục xuất như thế. Các vị tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỷ-kheo nhóm Lục Sư dầu biết vẫn dụ dỗ, vẫn nâng đỡ, vẫn hưởng thụ chung, vẫn nằm chung chỗ ngụ với sa-di Kaṇḍaka là kẻ đã bị trục xuất như thế?
…(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, nghe nói các ngươi dầu biết vẫn dụ dỗ, vẫn nâng đỡ, vẫn hưởng thụ chung, vẫn nằm chung chỗ ngụ với sa-di Kaṇḍaka là kẻ đã bị trục xuất như thế, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi dầu biết vẫn dụ dỗ, vẫn nâng đỡ, vẫn hưởng thụ chung, vẫn nằm chung chỗ ngụ với sa-di Kaṇḍaka là kẻ đã bị trục xuất như thế? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Nếu có vị sa-di nói như vầy: ‘Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.’ Vị sa-di ấy nên được nói bởi các tỷ-kheo như sau: ‘Này ông sa-di, ngươi chớ có nói như thế. Chớ có vu khống đức Thế Tôn bởi vì việc vu khống đức Thế Tôn là không tốt. Bởi vì đức Thế Tôn không có nói như thế. Này ông sa-di, đức Thế Tôn đã giảng giải bằng nhiều phương thức rằng các pháp chướng ngại có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.’ Và khi được các tỷ-kheo nói như vậy mà vị sa-di ấy vẫn chấp giữ y như thế, vị sa-di ấy nên được nói bởi các tỷ-kheo như sau: ‘Này ông sa-di, kể từ hôm nay không được tuyên bố đức Thế Tôn ấy là bậc Đạo sư của ngươi nữa. Ngay cả việc các sa-di khác được hưởng là việc nằm chung chỗ ngụ với các tỷ-kheo hai ba đêm, việc ấy không có cho ngươi nữa. Hãy đi chỗ khác, hãy biến mất đi.’ Vị tỷ-kheo nào dầu biết vẫn dụ dỗ, hoặc vẫn nâng đỡ, hoặc vẫn hưởng thụ chung, hoặc vẫn nằm chung chỗ ngụ với vị sa-di là kẻ đã bị trục xuất như thế thì phạm tội ưng đối trị (pācittiyaṃ).”
[675] Vị sa-dinghĩa là vị sāmaṇera được nói đến.
Nói như vầy: “Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn giảng giải không có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.”
[676] Vị sa-di ấy: vị nói như thế là vị sa-di ấy.
(Bởi) các tỷ-kheo: (bởi) các tỷ-kheo khác. Các vị nào thấy, các vị nào nghe, các vị ấy nên nói rằng: “Này ông sa-di, ngươi chớ có nói như thế. Chớ có vu khống đức Thế Tôn bởi vì việc vu khống đức Thế Tôn là không tốt. Bởi vì đức Thế Tôn không có nói như thế. Này ông sa-di, đức Thế Tôn đã giảng giải bằng nhiều phương thức rằng các pháp chướng ngại có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành.” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ấy) dứt bỏ thì như thế là điều tốt, nếu (vị ấy) không dứt bỏ thì vị sa-di ấy nên được nói bởi các tỷ-kheo như sau: “Này ông sa-di, kể từ hôm nay không được tuyên bố đức Thế Tôn ấy là bậc Đạo sư của ngươi nữa, và việc các sa-di khác được hưởng là việc nằm chung chỗ ngụ với các tỷ-kheo hai ba đêm, ngay cả việc ấy không có cho ngươi nữa. Hãy đi chỗ khác, hãy biến mất đi.”
[677] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...
Tỷ-kheo: ...(như trên)... Vị này là “vị tỷ-kheo” được đề cập trong ý nghĩa này.
Biếtnghĩa là tự mình biết, hoặc những người khác thông báo cho vị ấy, hoặc là vị ấy thông báo.
Đã bị trục xuất như thế: đã bị trục xuất như vậy.
Vị sa-dinghĩa là vị sāmaṇera được nói đến.
(Hoặc vẫn) dụ dỗ: Vị dụ dỗ (nói rằng): “Ta sẽ cho ngươi bình bát hoặc y hoặc sự đọc tụng hoặc sự vấn hỏi” thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).
(Hoặc vẫn) nâng đỡ: Vị chấp nhận bột tắm hoặc đất sét hoặc gỗ chà răng hoặc nước rửa mặt c���a vị (sa-di) ấy thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).
(Hoặc vẫn) hưởng thụ chung: sự hưởng thụ chung nghĩa là có hai sự hưởng thụ chung: Sự hưởng thụ chung về vật chất và sự hưởng thụ chung về Pháp. Sự hưởng thụ chung về vật chấtnghĩa là vị cho hoặc thọ lãnh vật chất thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya). Sự hưởng thụ chung về Phápnghĩa là vị đọc tụng hoặc bảo đọc tụng. Vị đọc tụng hoặc bảo đọc tụng theo câu thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya) theo từng câu. Vị đọc tụng hoặc bảo đọc tụng theo âm thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya) theo từng âm.
Hoặc (vẫn) nằm chung chỗ ngụ: ở chỗ một mái che, khi vị sa-di bị trục xuất đang nằm vị tỷ-kheo nằm xuống thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya). Khi vị tỷ-kheo đang nằm, vị sa-di bị trục xuất nằm xuống thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya). Hoặc cả hai nằm xuống thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya). Sau khi đứng dậy, (cả hai) lại nằm xuống thì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).
[678] Vị bị trục xuất, nhận biết là bị trục xuất, vị dụ dỗ hoặc nâng đỡ hoặc hưởng thụ chung hoặc nằm chung chỗ ngụthì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).
Vị bị trục xuất, có sự hoài nghi, vị dụ dỗ hoặc nâng đỡ hoặc hưởng thụ chung hoặc nằm chung chỗ ngụthì phạm tội ưng đối trị (pācittiya).
Vị bị trục xuất, (lầm) tưởng không bị trục xuất, vị dụ dỗ hoặc nâng đỡ hoặc hưởng thụ chung hoặc nằm chung chỗ ngụthì vô tội.
Vị không bị trục xuất, (lầm) tưởng là bị trục xuất, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Vị không bị trục xuất, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Vị không bị trục xuất, nhận biết là không bị trục xuất, thì vô tội.
[679] Vị biết rằng: “Vị (sa-di) không bị trục xuất,” vị biết rằng: “Vị (sa-di) đã dứt bỏ tà kiến ấy,” vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Dứt điều học thứ mười.
Phần Có Sinh Vật là phần thứ mười.
*******
Tóm lược phần này:
Cố ý đoạt mạng sống,
có sinh vật, khơi lên,
che giấu tội xấu xa,
chưa đủ hai mươi tuổi,
đám người, và hẹn trước,
Ariṭṭha, án treo,
sa-di Kaṇḍaka,
đây là mười điều học.
*******
[1]Yāva ratti vibhāyati: đến khi đêm lộ vẻ rạng rỡ (các thiền viện ở Miến Điện dọn bữa điểm tâm vào lúc này).
[2]Vì là trường hợp đầu tiên nên các thiếu niên ấy vẫn là tỷ-kheo dầu chưa đủ hai mươi tuổi. Chính vì thế, các vị này thường khóc lóc khi bị các tỷ-kheo nhóm Lục Sư hiếp đáp hoặc vẫn còn những hành động của trẻ nít như giỡn nước, đi xem lễ hội, để đồ đạc bừa bãi, v.v...
[3]Tài liệu The Buddhist Monastic Codecho biết khoảng cách của nửa yojana là 8 km hoặc 5 miles.
---o0o---
Nguồn: www.budsas.org
Trình bày: Linh Thoại