Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần [2.7b]

18/04/201317:59(Xem: 12037)
Phần [2.7b]

Tạng Luật
Vinayapitaka

Phân Tích Giới Tỷ-Kheo - II
(Bhikkhuvibhanga II)

Tỳ kheo Indacanda Nguyệt Thiêndịch
---o0o---

TẠNG LUẬT - BỘ PHÂN TÍCH GIỚI TỶ-KHEO

TẬP HAI

---o0o---

VII. CHƯƠNG ƯNG XẢ (NISSAGGIYAKAṆḌAṂ)(tiếp theo)

PHẦN TƠ TẰM - ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT:

[74] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Āḷavī, nơi tháp thờ Aggāḷava. Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư đi đến những người làm tơ tằm nói như vầy:

- Này các đạo hữu, hãy nấu nhiều kén tằm rồi bố thí đến chúng tôi; chúng tôi cũng muốn làm tấm trải nằm (ngọa cụ) có trộn lẫn tơ tằm.

Những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Tại sao các sa-môn Thích tử này sau khi đi đến gặp chúng tôi lại nói như vầy: “Này các đạo hữu, hãy nấu nhiều kén tằm rồi bố thí đến chúng tôi; chúng tôi cũng muốn làm tấm trải nằm có trộn lẫn tơ tằm.” Chúng tôi không có lợi nhuận, chúng tôi thu nhập khó khăn, chúng tôi vì lý do nuôi mạng, vì nguyên nhân vợ con mà gây nên việc giết chóc nhiều sinh vật nhỏ bé.

Các tỷ-kheo đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo nhóm Lục Sư lại đi đến những người làm tơ tằm nói như vầy: “Này các đạo hữu, hãy nấu nhiều kén tằm rồi bố thí đến chúng tôi; chúng tôi cũng muốn làm tấm trải nằm có trộn lẫn tơ tằm”?

Sau đó, các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các ngươi đi đến những người làm tơ tằm nói như vầy: “Này các đạo hữu, hãy nấu nhiều kén tằm rồi bố thí đến chúng tôi; chúng tôi cũng muốn làm tấm trải nằm có trộn lẫn tơ tằm,” có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại đi đến những người làm tơ tằm nói như vầy: “Này các đạo hữu, hãy nấu nhiều kén tằm rồi bố thí đến chúng tôi; chúng tôi cũng muốn làm tấm trải nằm có trộn lẫn tơ tằm”? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo nào bảo làm tấm trải nằm có trộn lẫn tơ tằm thì (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội ưng đối trị.

[75] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo: ...(như trên)... Vị này là “vị tỷ-kheo” được đề cập trong ý nghĩa này.

Tấm trải nằmnghĩa là sau khi trải ra, sự không cuộn lại đã được thực hiện.

Bảo làm: vị (tự) làm hoặc bảo làm sau khi đã trộn lẫn vào cho dầu chỉ một sợi tơ tằm. Trong khi thực hiện (vị ấy) phạm tội tác ác (dukkaṭa). Do sự đạt được thì phạm vào nissaggiya, (vật ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỷ-kheo, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch các ngài, tấm trải nằm có trộn lẫn tơ tằm này của tôi đã được bảo làm, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng.” ...(như trên)... hội chúng nên cho lại...(như trên)... chư đại đức nên cho lại...(như trên)... “Tôi cho lại đại đức.”

[76] Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa hoàn tất, phạm tội ưng xả đối trị (nissaggiyaṃ pācittiyaṃ).

Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa hoàn tất, phạm tội ưng xả đối trị.

Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa hoàn tất, phạm tội ưng xả đối trị.

Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa hoàn tất, phạm tội ưng xả đối trị.

Vị (tự) làm hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Sau khi thọ lãnh vật đã được làm bởi người khác, vị thọ dụng thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

[77] Vị làm tấm màn che, hoặc tấm thảm trải nền đất, hoặc màn che quanh làm tường, hoặc nệm, hoặc gối, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.

Dứt điều học thứ nhất.

*******

ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ:

[78] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Vesālī, Mahāvana, giảng đường Kūṭāgāra. Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư bảo làm tấm trải nằm bằng lông cừu thuần màu đen. Dân chúng trong khi đi dạo quanh các trú xá đã nhìn thấy rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Tại sao các sa-môn Thích tử này lại bảo làm tấm trải nằm bằng lông cừu thuần màu đen giống như những kẻ tại gia hưởng dục vậy?

Các tỷ-kheo đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các vị tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo nhóm Lục Sư lại bảo làm tấm trải nằm bằng lông cừu thuần màu đen?

Sau đó, các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các ngươi bảo làm tấm trải nằm bằng lông cừu thuần màu đen, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại bảo làm tấm trải nằm bằng lông cừu thuần màu đen vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo nào bảo làm tầm trải nằm bằng lông cừu thuần màu đen thì (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội ưng đối trị.

[79] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo: ...(như trên)... Vị này là “vị tỷ-kheo” được đề cập trong ý nghĩa này.

Màu đennghĩa là có hai loại màu đen: màu đen do tự nhiên hoặc là màu đen nhuộm.

Tấm trải nằmnghĩa là sau khi trải ra, sự không cuộn lại đã được thực hiện.

Bảo làm: vị (tự) làm hoặc bảo làm. Trong khi thực hiện, (vị ấy) phạm tội tác ác (dukkaṭa). Do sự đạt được thì phạm vào nissaggiya, (vật ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỷ-kheo, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch các ngài, tấm trải nằm bằng lông cừu thuần màu đen của tôi đã được bảo làm, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng.” ...(như trên)... hội chúng nên cho lại...(như trên)... chư đại đức nên cho lại...(như trên)... “Tôi cho lại đại đức.”

[80] Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa hoàn tất, phạm tội ưng xả đối trị (nissaggiyaṃ pācittiyaṃ).

Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa hoàn tất, phạm tội ưng xả đối trị.

Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa hoàn tất, phạm tội ưng xả đối trị.

Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa hoàn tất, phạm tội ưng xả đối trị.

Vị (tự) làm hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Sau khi thọ lãnh vật đã được làm bởi người khác, vị thọ dụng thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

[81] Vị làm tấm màn che, hoặc tấm thảm trải nền đất, hoặc màn che quanh làm tường, hoặc nệm, hoặc gối, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.

Dứt điều học thứ nhì.

*******

ĐIỀU HỌC THỨ BA:

[82] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm không được bảo làm tấm trải nằm bằng lông cừu thuần màu đen” nên để vào chỉ chút ít màu trắng ở viền rồi bảo làm tấm trải nằm bằng lông cừu thuần màu đen y như thế. Các vị tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo nhóm Lục Sư lại để vào một chút ít màu trắng ở viền rồi bảo làm tấm trải nằm bằng lông cừu thuần màu đen y như thế?

Sau đó, các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các ngươi để vào một chút ít màu trắng ở viền rồi bảo làm tấm trải nằm bằng lông cừu thuần màu đen y như thế, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại để vào một chút ít màu trắng ở viền rồi bảo làm tấm trải nằm bằng lông cừu thuần màu đen y như thếvậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trong khi bảo làm tầm trải nằm mới, vị tỷ-kheo nên lấy hai phần lông cừu thuần màu đen, phần thứ ba màu trắng, phần thứ tư màu nâu đỏ. Nếu vị tỷ-kheo không lấy hai phần lông cừu thuần màu đen, phần thứ ba màu trắng, phần thứ tư màu nâu đỏ rồi bảo làm tấm trải nằm mới thì (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội ưng đối trị.

[83] Mớinghĩa là có liên quan việc làm (tấm thảm nằm) được đề cập đến.

Tấm trải nằmnghĩa là sau khi trải ra, sự không cuộn lại đã được thực hiện.

Trong khi bảo làm: trong khi (tự) làm hoặc trong khi bảo làm.

Nên lấy hai phần lông cừu thuần màu đen: sau khi đã được mang lại, thì nên lấy hai cân (tulā)[1]lông cừu thuần màu đen.

Phần thứ ba màu trắng: một cân của màu trắng.

Phần thứ tư màu nâu đỏ: một cân của màu nâu đỏ.

Nếu vị tỷ-kheo không lấy hai phần lông cừu thuần màu đen, phần thứ ba màu trắng, phần thứ tư màu nâu đỏ: sau khi không để vào một cân màu trắng, một cân màu nâu đỏ rồi (tự) làm hoặc bảo làm tấm trải nằm mới. Trong khi thực hiện, (vị ấy) phạm tội tác ác (dukkaṭa). Do sự đạt được thì phạm vào nissaggiya, (vật ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỷ-kheo, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch các ngài, tấm trải nằm của tôi đã được bảo làm sau khi đã không để vào một cân màu trắng và một cân màu nâu đỏ, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng.” ...(như trên)... hội chúng nên cho lại...(như trên)... chư đại đức nên cho lại...(như trên)... “Tôi cho lại đại đức.”

[84] Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa hoàn tất, phạm tội ưng xả đối trị (nissaggiyaṃ pācittiyaṃ).

Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa hoàn tất, phạm tội ưng xả đối trị.

Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa hoàn tất, phạm tội ưng xả đối trị.

Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa hoàn tất, phạm tội ưng xả đối trị.

Vị (tự) làm hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Sau khi thọ lãnh vật đã được làm bởi người khác, vị thọ dụng thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

[85] Sau khi để vào một cân màu trắng và một cân màu nâu đỏ rồi làm, sau khi để vào màu trắng nhiều hơn và màu nâu đỏ nhiều hơn rồi làm, vị làm thuần màu trắng, vị làm thuần màu nâu đỏ, vị làm tấm màn che, hoặc tấm thảm trải nền đất, hoặc màn che quanh làm tường, hoặc nệm, hoặc gối, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.

Dứt điều học thứ ba.

*******

ĐIỀU HỌC THỨ TƯ:

[86] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo bảo làm tấm trải nằm hàng năm. Các vị ấy sống có nhiều sự cầu xin, có nhiều sự gợi ý: “Các người hãy bố thí các lông cừu. Có nhu cầu với các lông cừu.

Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Tại sao các sa-môn Thích tử này lại bảo làm tấm trải nằm hàng năm rồi sống có nhiều sự cầu xin, có nhiều sự gợi ý: “Các người hãy bố thí các lông cừu. Có nhu cầu với các lông cừu”? Các tấm trải nằm của chúng tôi bị con cái của chúng tôi tiêu tiểu và bị các con chuột gặm nhấm còn được làm năm sáu năm một lần. Thế mà các sa-môn Thích tử này lại bảo làm tấm trải nằm hàng năm rồi sống có nhiều sự cầu xin, có nhiều sự gợi ý: “Các người hãy bố thí các lông cừu. Có nhu cầu với các lông cừu.

Các tỷ-kheo đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo lại bảo làm tấm trải nằm hàng năm rồi sống có nhiều sự cầu xin, có nhiều sự gợi ý: “Các người hãy bố thí các lông cừu. Có nhu cầu với các lông cừu.”?

Sau đó, các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo bảo làm tấm trải nằm hàng năm rồi sống có nhiều sự cầu xin, có nhiều sự gợi ý: “Các người hãy bố thí các lông cừu. Có nhu cầu với các lông cừu,” có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, vì sao những kẻ rồ dại ấy lại bảo làm tấm trải nằm hàng năm rồi sống có nhiều sự cầu xin, có nhiều sự gợi ý: “Các người hãy bố thí các lông cừu. Có nhu cầu với các lông cừu” vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Sau khi bảo làm tầm trải nằm, vị tỷ-kheo nên sử dụng sáu năm. Nếu chưa đủ sáu năm mà cho đi hoặc không cho đi tấm trải nằm ấy rồi bảo làm tấm trải nằm mới khác thì (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội ưng đối trị. Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỷ-kheo như thế.

[87] Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ ở thành Kosambī bị bệnh. Các thân quyến đã phái người đưa tin đến gặp vị tỷ-kheo ấy nói rằng: “Ngài đại đức hãy đi đến. Chúng tôi sẽ hộ độ.” Các tỷ-kheo cũng đã nói như vầy:

- Này đại đức, hãy đi. Các thân quyến sẽ hộ độ đại đức.

Vị ấy đã nói như vầy:

- Này các đại đức, điều học đã được đức Thế Tôn quy định rằng: “Sau khi bảo làm tầm trải nằm, vị tỷ-kheo nên sử dụng sáu năm.” Và tôi thì bị bệnh nên không thể mang theo tấm trải nằm mà ra đi được. Tôi không được thoải mái khi không có tấm trải nằm. Tôi sẽ không đi.

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ­ấy, nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỷ-kheo rằng:

- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ban cho sự đồng ý về tấm trải nằm đối với vị tỷ-kheo bị bệnh. Và này các tỷ-kheo, nên ban cho như vầy: Vị tỷ-kheo bị bệnh ấy nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các vị tỷ-kheo trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:

- Bạch các ngài, tôi bị bệnh không thể mang theo tấm trải nằm mà ra đi được. Bạch các ngài, tôi đây thỉnh cầu hội chúng sự đồng ý về tấm trải nằm.

Nên được thỉnh cầu lần thứ nhì. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba.

Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỷ-kheo này tên (như vầy) bị bệnh không thể mang theo tấm trải nằm mà ra đi được. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng sự đồng ý về tấm trải nằm. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự đồng ý về tấm trải nằmđến vị tỷ-kheo tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỷ-kheo này tên (như vầy) bị bệnh không thể mang theo tấm trải nằm mà ra đi được. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng sự đồng ý về tấm trải nằm. Hội chúng ban cho sự đồng ý về tấm trải nằmđến vị tỷ-kheo tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý việc ban cho sự đồng ý về tấm trải nằmđến vị tỷ-kheo tên (như vầy), vị ấy nên im lặng; vị nào không đồng ý, có thể nói lên.

Sự đồng ý về tấm trải nằmđã được hội chúng ban cho đến vị tỷ-kheo tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

Và này các tỷ-kheo, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Sau khi bảo làm tầm trải nằm, vị tỷ-kheo nên sử dụng sáu năm. Nếu chưa đủ sáu năm mà cho đi hoặc không cho đi tấm trải nằm ấy rồi bảo làm tấm trải nằm mới khác thì (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội ưng đối trị, ngoại trừ có sự đồng ý của các tỷ-kheo.

[88] Mớinghĩa là có liên quan việc làm (tấm thảm nằm) được đề cập đến.

Tấm trải nằmnghĩa là sau khi trải ra, sự không cuộn lại đã được thực hiện.

Sau khi bảo làm: sau khi (tự) làm hoặc sau khi bảo làm.

Nên sử dụng sáu năm: nên sử dụng hơn sáu năm.

Nếu chưa đủ sáu năm: còn ít hơn sáu năm.

Cho đi tấm trải nằm ấy: sau khi cho đến những người khác.

Hoặc không cho đi:sau khi không cho đến bất cứ ai.

Ngoại trừ có sự đồng ý của các tỷ-kheo: Trừ ra có sự đồng ý của các tỷ-kheo.

Vị (tự) làm hoặc bảo làm tấm trải nằm mới khác. Trong khi thực hiện, (vị ấy) phạm tội tác ác (dukkaṭa). Do sự đạt được thì phạm vào nissaggiya, (vật ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỷ-kheo, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch các ngài, tấm trải nằm của tôi đã được bảo làm chưa đủ sáu năm, ngoại trừ có sự đồng ý của các tỷ-kheo, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng.” ...(như trên)... hội chúng nên cho lại...(như trên)... chư đại đức nên cho lại...(như trên)... “Tôi cho lại đại đức.”

[89] Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa hoàn tất, phạm tội ưng xả đối trị (nissaggiyaṃ pācittiyaṃ).

Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa hoàn tất, phạm tội ưng xả đối trị.

Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa hoàn tất, phạm tội ưng xả đối trị.

Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa hoàn tất, phạm tội ưng xả đối trị.

[90] Vị làm khi được sáu năm, vị làm khi đã quá sáu năm, vị làm hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác, vị nhận được (tấm trải nằm) đã được làm bởi người khác rồi sử dụng, vị làm tấm màn che, hoặc tấm thảm trải nền đất, hoặc màn che quanh làm tường, hoặc nệm, hoặc gối, với sự đồng ý của các tỷ-kheo, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.

Dứt điều học thứ tư.

********

ĐIỀU HỌC THỨ NĂM:

[91] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các tỷ-kheo rằng:

- Này các tỷ-kheo, ta muốn thiền tịnh trong ba tháng. Không ai đi đến gặp ta ngoại trừ một vị mang lại vật thực.

- Bạch ngài, xin vâng. Các vị tỷ-kheo ấy đã trả lời đức Thế Tôn.

Và quả thật không có vị nào đi đến gặp đức Thế Tôn ngoại trừ một vị mang lại vật thực. Vào lúc bấy giờ, hội chúng ở thành Sāvatthi đã thực hiện quy định là: “Này các đại đức, đức Thế Tôn muốn thiền tịnh trong ba tháng. Không ai được đi đến gặp đức Thế Tôn ngoại trừ một vị mang lại vật thực. Vị nào đi đến gặp đức Thế Tôn nên bị buộc sám hối tội ưng đối trị (pācittiya).”

[92] Khi ấy, đại đức Upasena con trai của Vaṅganta cùng tập thể đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên.

Điều này đã trở thành thông lệ của chư Phật Thế Tôn là niềm nở đối với các tỷ-kheo đi đến. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với đại đức Upasena con trai của Vaṅganta điều này:

- Này Upasena, sức khỏe có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không? Các ngươi đi đường xa có được ít mệt nhọc không?

- Bạch Thế Tôn, sức khỏe khá. Bạch Thế Tôn, mọi việc tốt đẹp. Bạch ngài, chúng con đi đường xa được ít mệt nhọc.

Vào lúc bấy giờ, vị tỷ-kheo đệ tử của đại đức Upasena con trai của Vaṅganta đã ngồi xuống không xa đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với vị tỷ-kheo ấy điều này:

- Này tỷ-kheo, đối với ngươi các y paṃsukūla có dễ chịu không?

- Bạch ngài, đối với con các y paṃsukūla không có dễ chịu.

- Này tỷ-kheo, vậy tại sao ngươi lại là vị hành pháp sử dụng y paṃsukūla?

- Bạch ngài, thầy tế độ của con là vị hành pháp sử dụng y paṃsukūla; như thế con cũng là vị hành pháp sử dụng y paṃsukūla.

Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với đại đức Upasena con trai của Vaṅganta điều này:

- Này Upasena, quả thật tập thể này có niềm tin đối với ngươi. Này Upasena, ngươi hướng dẫn tập thể bằng cách nào?

- Bạch ngài, ai cầu xin con sự tu lên bậc trên thì con nói với người ấy như vầy: “Này đạo hữu, ta là vị hành pháp ở rừng, hành pháp đi khất thực, hành pháp sử dụng y paṃsukūla, nếu ngươi cũng sẽ là vị hành pháp ở rừng, hành pháp đi khất thực, hành pháp sử dụng y paṃsukūla như thế thì ta sẽ cho ngươi tu lên bậc trên.” Nếu (người ấy) đồng ý với con thì con cho tu lên bậc trên, nếu không đồng ý với con thì con không cho tu lên bậc trên. Ai cầu xin con pháp nương nhờ thì con nói với người ấy như vầy: “Này đại đức, ta là vị hành pháp ở rừng, hành pháp đi khất thực, hành pháp sử dụng y paṃsukūla, nếu ngươi cũng sẽ là vị hành pháp ở rừng, hành pháp đi khất thực, hành pháp sử dụng y paṃsukūla như thế thì ta sẽ ban cho ngươi pháp nương nhờ.” Nếu (người ấy) đồng ý với con thì con ban cho pháp nương nhờ, nếu không đồng ý với con thì con không ban cho pháp nương nhờ. Bạch ngài, con hướng dẫn tập thể như thế.

- Này Upasena, tốt lắm, tốt lắm! Này Upasena, ngươi hướng dẫn tập thể tốt lắm. Này Upasena, ngươi có biết về quy định của hội chúng ở thành Sāvatthi không?

- Bạch ngài, con quả thật không biết về quy định của hội chúng ở thành Sāvatthi.

- Này Upasena, hội chúng ở thành Sāvatthi đã thực hiện quy định là: “Này các đại đức, đức Thế Tôn muốn thiền tịnh trong ba tháng. Không ai được đi đến gặp đức Thế Tôn ngoại trừ một vị mang lại vật thực. Vị nào đi đến gặp đức Thế Tôn nên bị buộc sám hối tội ưng đối trị (pācittiya).”

- Bạch ngài, hội chúng ở thành Sāvatthi sẽ được biết tiếng bởi quy định của chính họ. Chúng con sẽ không quy định điều không được quy định hoặc sẽ không hủy bỏ điều đã được quy định. Chúng con sẽ thọ trì và thực hành các điều học theo như đã được quy định.

- Này Upasena, tốt lắm, tốt lắm! Không nên quy định điều không được quy định hoặc không nên hủy bỏ điều đã được quy định. Nên thọ trì và thực hành các điều học theo như đã được quy định. Này Upasena, ta cho phép: “Những vị tỷ-kheo nào là các vị hành pháp ở rừng, các vị hành pháp đi khất thực, các vị hành pháp sử dụng y paṃsukūla, hãy để các vị ấy đi đến diện kiến ta một cách thoải mái.

Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỷ-kheo đã đứng ở bên ngoài cổng ra vào (nghĩ rằng): “Chúng ta sẽ buộc đại đức Upasena con trai của Vaṅganta sám hối tội pācittiya.” Sau đó, đại đức Upasena con trai của Vaṅganta cùng tập thể đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi. Khi ấy, các vị tỷ-kheo ấy đã nói với đại đức Upasena con trai của Vaṅganta điều này:

- Này đại đức Upasena, đại đức có biết quy định của hội chúng ở thành Sāvatthi không?

- Này các đại đức, đức Thế Tôn đã nói với tôi như vầy: “Này Upasena, ngươi có biết về quy định của hội chúng ở thành Sāvatthi không?” “Bạch ngài, con quả thật không biết về quy định của hội chúng ở thành Sāvatthi.” “Này Upasena, hội chúng ở thành Sāvatthi đã thực hiện quy định là: ‘Này các đại đức, đức Thế Tôn muốn thiền tịnh trong ba tháng. Không ai được đi đến gặp đức Thế Tôn ngoại trừ một vị mang lại vật thực. Vị nào đi đến gặp đức Thế Tôn nên bị buộc sám hối tội pācittiya’.” “Bạch ngài, hội chúng ở thành Sāvatthi sẽ được biết tiếng bởi quy định của chính họ. Chúng con sẽ không quy định điều không được quy định hoặc sẽ không hủy bỏ điều đã được quy định. Chúng con sẽ thọ trì và thực hành các điều học theo như đã được quy định.” Này các đại đức, đức Thế Tôn đã cho phép rằng: “Những vị tỷ-kheo nào là các vị hành pháp ở rừng, các vị hành pháp đi khất thực, các vị hành pháp sử dụng y paṃsukūla, hãy để các vị ấy đi đến diện kiến ta một cách thoải mái.

Khi ấy, các vị tỷ-kheo ấy (bàn bạc rằng): “Đại đức Upasena con trai của Vaṅganta đã nói rằng: ‘Không nên quy định điều không được quy định hoặc không nên hủy bỏ điều đã được quy định. Nên thọ trì và thực hành các điều học theo như đã được quy định’ có phải là sự thật không vậy?”

[93] Các tỷ-kheo đã nghe rằng: “Nghe nói đức Thế Tôn đã cho phép rằng: ‘Những vị tỷ-kheo nào là các vị hành pháp ở rừng, các vị hành pháp đi khất thực, các vị hành pháp sử dụng y paṃsukūla, hãy để các vị ấy đi đến diện kiến ta một cách thoải mái.’” Các vị ấy ao ước được diện kiến đức Thế Tôn nên đã quăng bỏ các tấm trải nằm và thọ trì pháp của vị ở trong rừng, pháp của vị đi khất thực, pháp của vị sử dụng y paṃsukūla.

Sau đó, đức Thế Tôn trong khi đi dạo quanh các chỗ trú ngụ cùng với nhiều vị tỷ-kheo đã thấy các tấm trải nằm bị quăng bỏ chỗ này chỗ nọ, sau khi thấy đã hỏi các vị tỷ-kheo rằng:

- Này các tỷ-kheo, những tấm trải nằm bị quăng bỏ chỗ này chỗ nọ là của vị nào vậy?

Khi ấy, các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ­ấy, nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỷ-kheo rằng:

- Này các tỷ-kheo, như thế thì ta sẽ quy định điều học cho các tỷ-kheo vì mười điều lợi ích: Nhằm đem lại sự tốt đẹp cho hội chúng, nhằm đem lại sự an lạc cho hội chúng, nhằm việc trấn áp những nhân vật ác xấu, nhằm sự lạc trú của các tỷ-kheo hiền thiện, nhằm ngăn ngừa các lậu hoặc trong hiện tại, nhằm sự trừ diệt các lậu hoặc trong tương lai, nhằm đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, nhằm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin, nhằm sự tồn tại của Chánh Pháp, nhằm sự hỗ trợ Luật. Và này các tỷ-kheo, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Trong khi bảo thực hiện tấm lót ngồi (toạ cụ), vị tỷ-kheo nên lấy một gang tay của đức Thiện thệ[2]ở phần xung quanh của tấm lót cũ để hoại vẻ đẹp. Nếu vị tỷ-kheo không lấy một gang tay của đức Thiện thệở phần xung quanh của tấm lót cũ mà bảo làm tấm lót ngồi mớithì(vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội ưng đối trị.

[94] Tấm lót ngồinghĩa là có đường viền quanh được nói đến.

Tấm trải nằmnghĩa là sau khi trải ra, sự không cuộn lại đã được thực hiện.

Sau khi bảo làm: sau khi (tự) làm hoặc sau khi bảo làm.

Tấm lót cũnghĩa là đã được ngồi dầu chỉ một lần, đã được nằm dầu chỉ một lần.

Nên lấy một gang tay của đức Thiện thệ ở phần xung quanh để hoại màu sắc: sau khi cắt vòng tròn hoặc vuông vức rồi nên trải ra ở một góc, hoặc sau khi tháo rời ra nên trải ra để có được trạng thái bền chắc.

Nếu vị tỷ-kheo không lấy một gang tay của đức Thiện Thệ ở phần xung quanh của tấm lót cũ: sau khi không lấy một gang tay của đức Thiện Thệ ở phần xung quanh của tấm lót cũ rồi (tự) làm hoặc bảo làm tấm lót ngồi mới. Trong khi thực hiện, (vị ấy) phạm tội tác ác (dukkaṭa). Do sự đạt được thì phạm vào nissaggiya, (vật ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỷ-kheo, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch các ngài, tấm lót ngồi này của tôi đã được bảo làm sau khi không lấy một gang tay của đức Thiện Thệ ở phần xung quanh của tấm lót cũ, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ y này đến hội chúng.” ...(như trên)... hội chúng nên cho lại...(như trên)... chư đại đức nên cho lại...(như trên)... “Tôi cho lại đại đức.”

[95] Vị tự mình hoàn tất phần vị ấy chưa hoàn tất, phạm tội ưng xả đối trị (nissaggiyaṃ pācittiyaṃ).

Vị bảo những người khác hoàn tất phần vị ấy chưa hoàn tất, phạm tội ưng xả đối trị.

Vị tự mình hoàn tất phần những người khác chưa hoàn tất, phạm tội ưng xả đối trị.

Vị bảo những người khác hoàn tất phần những người khác chưa hoàn tất, phạm tội ưng xả đối trị.

Vị (tự làm) hoặc bảo làm vì nhu cầu của vị khác thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

[96] Sau khi đã lấy một gang tay của đức Thiện Thệ ở phần xung quanh của tấm lót cũ rồi làm; trong khi không có, đã lấy ít hơn rồi làm; trong khi không có, đã không lấy rồi làm; vị nhận được (tấm lót ngồi) đã được làm bởi người khác rồi sử dụng, vị làm tấm màn che, hoặc tấm thảm trải nền đất, hoặc màn che quanh làm tường, hoặc nệm, hoặc gối, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.

Dứt điều học thứ năm.

********

ĐIỀU HỌC THỨ SÁU:

[97] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo nọ khi đang đi đến thành Sāvatthi trong xứ Kosala, ở giữa đường có các lông cừu đã được phát sanh. Khi ấy, vị tỷ-kheo ấy đã dùng thượng y gói các lông cừu ấy lại thành gói rồi đi. Dân chúng sau khi nhìn thấy vị tỷ-kheo ấy đã chế giễu rằng:

- Thưa ngài, chúng được mua bao nhiêu? Lợi nhuận sẽ là bao nhiêu?

Trong khi bị những người ấy chế giễu, vị tỷ-kheo ấy đã trở nên xấu hổ. Sau đó, khi đến thành Sāvatthi vị tỷ-kheo ấy đã đứng thẳng người ném các lông cừu ấy xuống. Các tỷ-kheo đã nói với vị tỷ-kheo ấy như vầy:

- Này đại đức, vì sao đại đức lại đứng thẳng người ném các lông cừu này xuống vậy?

- Này các đại đức, như thế là vì nguyên nhân các lông cừu này mà tôi đã bị dân chúng chế giễu.

- Này đại đức, thế đại đức đã mang những lông cừu này khoảng bao xa vậy?

- Này các đại đức, hơn ba do tuần.[3]

Các vị tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao vị tỷ-kheo lại mang các lông cừu hơn ba do tuần?

Sau đó, các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này tỷ-kheo, nghe nói ngươi mang các lông cừu hơn ba do tuần, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại mang các lông cừu hơn ba do tuần vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo trong khi đi đường xa có các lông cừu được phát sanh, vị tỷ-kheo mong muốn thì nên thọ lãnh. Sau khi thọ lãnh, nên dùng tay mang tối đa ba do tuần khi không có người mang. Nếu mang vượt quá khoảng cách ấy cho dầu không có người mang vác thì(vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội ưng đối trị.

[98] Vị tỷ-kheo trong khi đi đường xa: là vị đang đi đường.

Các lông cừu được phát sanh: là được phát sanh từ hội chúng, hoặc từ nhóm, hoặc từ thân quyến, hoặc từ bạn bè, hoặc từ vật quăng bỏ (paṃsukūla), hoặc từ vật sở hữu của bản thân.

Mong muốn: vị đang ước muốn thì nên thọ lãnh.

Sau khi thọ lãnh thì nên dùng tay mang tối đa ba do tuần: Nên dùng tay mang nhiều nhất ba do tuần.

Khi không có người mang vác: không có người nào khác khuân vác: hoặc là người nữ, hoặc là người nam, hoặc là người tại gia, hoặc là vị xuất gia.

Nếu mang vượt quá khoảng cách ấy cho dầu không có người mang vác: Vượt quá ba do tuần bước thứ nhất thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Vượt quá ba do tuần bước thứ nhì thì (các lông cừu ấy) phạm vào nissaggiya. Đứng trong khoảng ba do tuần và làm rơi ngoài ba do tuần thì (các lông cừu ấy) phạm vào nissaggiya. Sau khi để ở trên xe hoặc trong gói đồ của người khác mà họ không hay biết, vị vượt quá ba do tuần thì (các lông cừu ấy) phạm vào nissaggiya, cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỷ-kheo, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch các ngài, các lông cừu này của tôi đã bị vượt quá ba do tuần, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ các vật này đến hội chúng.” ...(như trên)... hội chúng nên cho lại...(như trên)... chư đại đức nên cho lại...(như trên)... “Tôi cho lại đại đức.”

[99] Khi quá ba do tuần, nhận biết là đã quá, vị vượt qua ba do tuần thì phạm tội ưng xả đối trị (nissaggiyaṃ pācittiyaṃ).

Khi quá ba do tuần, có sự hoài nghi, vị vượt qua ba do tuần thì phạm tội ưng xả đối trị.

Khi quá ba do tuần, (lầm) tưởng là chưa quá, vị vượt qua ba do tuần thì phạm tội ưng xả đối trị.

Khi chưa tới ba do tuần, (lầm) tưởng là quá ba do tuần, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Khi chưa tới ba do tuần, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa.

Khi chưa tới ba do tuần, nhận biết là chưa tới thì vô tội.

[100] Vị mang ba do tuần, vị mang chưa tới ba do tuần, vị mang đi ba do tuần rồi mang lui lại, sau khi đi ba do tuần vị có ý định tìm trú xứ rồi mang hơn khoảng cách đó, vị nhận lại vật bị cướp rồi mang đi, vị nhận lại vật bị trộm rồi mang đi, vị bảo người khác mang, vị mang vật đã là thành phẩm (katabhaṇḍaṃ), vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.

Dứt điều học thứ sáu.

********

ĐIỀU HỌC THỨ BẢY:

[101] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự giữa dân chúng dòng Sākya (Thích ca), trong thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), tu viện Nigrodha. Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư đã bảo các tỷ-kheo ni giặt, bảo nhuộm, và bảo chải các lông cừu. Trong khi giặt, trong khi nhuộm, và trong khi chải các lông cừu, các tỷ-kheo ni xao lãng việc đọc tụng, việc vấn hỏi, (việc tu tập) tăng thượng giới, tăng thượng tâm, tăng thượng tuệ.[4]

Khi ấy, bà Mahāpajāpati Gotamī đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn, rồi đứng ở một bên. Đức Thế Tôn đã nói với bà Mahāpajāpati Gotamī đang đứng một bên điều này:

- Này Gotamī, chắc hẳn các tỷ-kheo ni sống không có dễ duôi, tinh cần, và bản thân có nỗ lực?

- Bạch ngài, sự không dễ duôi của các tỷ-kheo ni từ đâu có được khi các ngài đại đức nhóm Lục Sư bảo các tỷ-kheo ni giặt, bảo nhuộm, và bảo chải các lông cừu? Trong khi giặt, trong khi nhuộm, và trong khi chải các lông cừu, các tỷ-kheo ni xao lãng việc đọc tụng, việc vấn hỏi, (việc tu tập) tăng thượng giới, tăng thượng tâm, tăng thượng tuệ.

Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho bà Mahāpajāpati Gotamī bằng bài Pháp thoại. Rồi sau khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, bà Mahāpajāpati Gotamī đã đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.

Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ­ấy, nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỷ-kheo lại và hỏi các tỷ-kheo nhóm Lục Sư rằng:

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các ngươi bảo các tỷ-kheo ni giặt, bảo nhuộm, và bảo chải các lông cừu, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

- Này các tỷ-kheo, là các nữ thân quyến của các ngươi hay không phải là các nữ thân quyến?

- Bạch Thế Tôn, không phải là các nữ thân quyến.

- Này những kẻ rồ dại, những người nam không phải là thân quyến lại không biết điều gì tốt đẹp hay không tốt đẹp, điều gì làm hài lòng hay không làm hài lòng những người nữ không phải là thân quyến. Này những kẻ rồ dại, trong trường hợp ấy sao các ngươi lại bảo các tỷ-kheo ni không phải là thân quyến giặt, bảo nhuộm, và bảo chải các lông cừu vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo nào bảo tỷ-kheo ni không phải là thân quyến giặt, hoặc bảo nhuộm, hoặc bảo chải các lông cừu thì (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội ưng đối trị.

[102] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo: ...(như trên)... Vị này là “vị tỷ-kheo” được đề cập trong ý nghĩa này.

(Người nữ) Không phải là thân quyếnnghĩa là người nữ không có sự liên hệ họ hàng cho đến bảy thế hệ tổ tiên từ dòng bên mẹ hoặc từ dòng bên cha.

Tỷ-kheo ninghĩa là người nữ đã được tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng.

Bảo giặt: vị chỉ thị rằng: “Hãy giặt” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). (Các lông cừu) đã được giặt thì phạm vào nissaggiya.

Bảo nhuộm: vị chỉ thị rằng: “Hãy nhuộm” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). (Các lông cừu) đã được nhuộm thì phạm vào nissaggiya.

Bảo chải: vị chỉ thị rằng: “Hãy chải” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). (Các lông cừu) đã được chải thì phạm vào nissaggiya, nên được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỷ-kheo, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch các ngài, các lông cừu này của tôi đã được bảo tỷ-kheo ni không phải là thân quyến giặt, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ (các lông cừu) này đến hội chúng.” ...(như trên)... hội chúng nên cho lại...(như trên)... chư đại đức nên cho lại...(như trên)... “Tôi cho lại đại đức.”

[103] Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo giặt các lông cừu thì phạm tội ưng xả đối trị (nissaggiyaṃ pācittiyaṃ).

Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo giặt, bảo nhuộm các lông cừu thì phạm tội ưng xả đối trị và tội tác ác (dukkaṭa).

Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo giặt, bảo chải các lông cừu thì phạm tội ưng xả đối trị và tội tác ác (dukkaṭa).

Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo giặt, bảo nhuộm, bảo chải các lông cừu thì phạm tội ưng xả đối trị và hai tội tác ác (dukkaṭa).

Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo nhuộm các lông cừu thì phạm tội ưng xả đối trị.

Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo nhuộm, bảo chải các lông cừu thì phạm tội ưng xả đối trị và tội tác ác (dukkaṭa).

Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo nhuộm, bảo giặt các lông cừu thì phạm tội ưng xả đối trị và tội tác ác (dukkaṭa).

Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo nhuộm, bảo chải, bảo giặt các lông cừu thì phạm tội ưng xả đối trị và hai tội tác ác (dukkaṭa).

Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo chải các lông cừu thì phạm tội ưng xả đối trị.

Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo chải, bảo giặt các lông cừu thì phạm tội ưng xả đối trị và tội tác ác (dukkaṭa).

Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo chải, bảo nhuộm các lông cừu thì phạm tội ưng xả đối trị và tội tác ác (dukkaṭa).

Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo chải, bảo giặt, bảo nhuộm các lông cừu thì phạm tội ưng xả đối trị và hai tội tác ác (dukkaṭa).

Không phải là thân quyến, có sự hoài nghi, ...(như trên)...

Không phải là thân quyến, (lầm) tưởng là thân quyến, ...(như trên)...

Vị bảo giặt các lông cừu của vị khác thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Vị bảo cô ni tu lên bậc trên từ một hội chúng giặt thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Là thân quyến, (lầm) tưởng không phải là thân quyến, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Là thân quyến, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Là thân quyến, nhận biết là thân quyến thì vô tội.

[104] Khi vị (tỷ-kheo ni) là thân quyến đang giặt có vị (tỷ-kheo ni) thứ nhì không phải là thân quyến (phụ giúp), vị (tỷ-kheo ni) giặt khi chưa được nói, vị bảo giặt vật đã là thành phẩm chưa được sử dụng, (vị bảo) cô ni tu tập sự, (vị bảo) sa-di ni, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.

Dứt điều học thứ bảy.

********

ĐIỀU HỌC THỨ TÁM:

[105] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha (Vương Xá), Veḷuvana (Trúc Lâm), nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai dòng Sākya là vị thường tới lui với gia đình nọ và nhận bữa ăn thường kỳ. Khi nào gia đình ấy có được vật thực cứng hoặc mềm, phần chia trong số đó được để dành cho đại đức Upananda con trai dòng Sākya. Vào lúc bấy giờ, gia đình ấy có được miếng thịt vào lúc chiều tối. Trong số đó, phần chia của đại đức Upananda con trai dòng Sākya được để dành lại. Đến canh cuối của đêm, đứa bé trai của gia đình ấy thức dậy khóc lóc rằng:

- Hãy cho con thịt.

Khi ấy, người đàn ông ấy đã nói với người vợ điều này:

- Hãy cho đứa bé phần chia của ngài đại đức. Sau khi mua phần khác tôi sẽ dâng ngài.

Sau đó vào buổi sáng, đại đức Upananda con trai dòng Sākya đã mặc y, cầm y bát, và đi đến gia đình ấy, sau khi đến đã ngồi xuống ở chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, người đàn ông ấy đã đi đến gặp đại đức Upananda con trai dòng Sākya, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Upananda con trai dòng Sākya rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, người đàn ông ấy đã nói với đại đức Upananda con trai dòng Sākya điều này:

- Thưa ngài, hôm qua lúc chiều tối có được miếng thịt. Trong số đó, phần chia của ngài đại đức đã được để dành. Thưa ngài, vào canh cuối của đêm, đứa bé trai này đã thức dậy khóc lóc rằng: “Hãy cho con thịt.” Phần chia của ngài đại đức đã được cho đến đứa bé. Thưa ngài, hãy để vật gì đó được mang lại với một đồng tiền?

- Này đạo hữu, đồng tiền đã được ta từ bỏ.

- Thưa ngài, đúng vậy. Đã được từ bỏ.

- Này đạo hữu, hãy trao cho ta chính đồng tiền ấy.

Khi ấy, người đàn ông ấy đã trao cho đại đức Upananda con trai dòng Sākya đồng tiền rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Chúng tôi nhận lãnh tiền bạc như thế nào thì các sa-môn Thích tử này thọ lãnh tiền bạc y như thế.

Các tỷ-kheo đã nghe được người đàn ông ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các vị tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao đại đức Upananda con trai dòng Sākya lại thọ lãnh tiền bạc?

Sau đó, các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này Upananda, nghe nói ngươi thọ lãnh tiền bạc, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại thọ lãnh tiền bạc vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo nào nhận lấy hoặc bảo nhận lấy vàng bạc hoặc ưng thuận (vàng bạc) đã được mang đến thì (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội ưng đối trị.

[106] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo: ...(như trên)... Vị này là “vị tỷ-kheo” được đề cập trong ý nghĩa này.

Vàngnghĩa là màu da của bậc Đạo sư được nói đến.

Bạcnghĩa là đồng tiền kahāpaṇa, tiền māsaka bằng đồng, tiền māsaka bằng gỗ, tiền māsaka bằng nhựa cánh kiến, những vật nào dùng trong việc buôn bán.

Nhận lấy: tự mình cầm lấy thì phạm vào nissaggiya.

Bảo nhận lấy: bảo người khác cầm lấy thì phạm vào nissaggiya.

Hoặc ưng thuận (vàng bạc) đã được mang đến: hoặc ưng thuận (vàng bạc) đã được mang đến (nói rằng): “Vật này hãy là của ngài” thì phạm vào nissaggiya, nên được xả bỏ ở giữa hội chúng. Và này các tỷ-kheo, nên được xả bỏ như vầy: Vị tỷ-kheo ấy nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các vị tỷ-kheo trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: “Bạch các ngài, tôi đã thọ lãnh vàng bạc, vật này nên được tôi xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng.

Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực. Nếu có người phụ việc chùa hoặc nam cư sĩ đi đến nơi ấy thì nên nói với người ấy rằng: “Này đạo hữu, hãy nhận biết vật này.” Nếu người ấy nói rằng: “Hãy để cho vật gì đó được mang lại với vật này?” Không nên nói rằng: “Hãy mang lại vật này hoặc vật này.” Nên đề cập đến vật được phép là bơ lỏng, hoặc dầu ăn, hoặc mật ong, hoặc đường mía. Nếu người ấy sau khi trao đổi với (vàng bạc) ấy và đem lại vật được phép thì tất cả nên thọ dụng trừ ra vị đã thọ lãnh vàng bạc. Nếu điều ấy có thể đạt được như vậy, như thế là điều tốt; nếu không thể đạt được thì nên nói với người ấy rằng: “Này đạo hữu, hãy quăng bỏ vật này.” Nếu người ấy quăng bỏ, như thế là điều tốt; nếu (người ấy) không quăng bỏ thì nên chỉ định vị quăng bỏ vàng bạc là vị tỷ-kheo hội đủ năm điều: là vị không thể bị chi phối bởi sự ưa thích; là vị không thể bị chi phối bởi sự sân hận; là vị không thể bị chi phối bởi sự si mê; là vị không thể bị chi phối bởi sự sợ hãi; là vị biết vật được quăng bỏ và không được quăng bỏ.

Và này các tỷ-kheo, nên chỉ định như vầy: Trước hết, vị tỷ-kheo nên được yêu cầu; sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi.Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định vị tỷ-kheo tên (như vầy) là vị quăng bỏ vàng bạc. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định vị tỷ-kheo tên (như vầy) là vị quăng bỏ vàng bạc. Đại đức nào đồng ý việc chỉ định vị tỷ-kheo tên (như vầy) là vị quăng bỏ vàng bạc, vị ấy nên im lặng; vị nào không đồng ý, có thể nói lên.

Vị tỷ-kheo tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định là vị quăng bỏ vàng bạc. Sự việc được hội chúng đồng ý nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

Vị tỷ-kheo đã được chỉ định ấy sau khi đã không làm dấu hiệu rồi nên ném đi. Nếu sau khi đã làm dấu hiệu rồi ném đi thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

[107] Vàng bạc, nhận biết là vàng bạc, vị thọ lãnh vàng bạc thì phạm tội ưng xả đối trị (nissaggiyaṃ pācittiyaṃ).

Vàng bạc, có sự hoài nghi, vị thọ lãnh vàng bạc thì phạm tội ưng xả đối trị.

Vàng bạc, (lầm) tưởng không phải là vàng bạc, vị thọ lãnh vàng bạc thì phạm tội ưng xả đối trị.

Không phải là vàng bạc, (lầm) tưởng là vàng bạc, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Không phải là vàng bạc, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Không phải là vàng bạc, nhận biết không phải là vàng bạc thì vô tội.

[108] Sau khi nhặt lấy hoặc bảo nhặt lấy ở trong khuôn viên tu viện hoặc ở trong chỗ ngụ, vị giữ lại (nghĩ rằng): “Là của ai, người ấy sẽ mang đi,” vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.

Dứt điều học thứ tám.

********

ĐIỀU HỌC THỨ CHÍN:

[109] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư tiến hành việc trao đổi với vàng bạc bằng nhiều hình thức. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các sa-môn Thích tử lại tiến hành việc trao đổi với vàng bạc bằng nhiều hình thức, giống như những kẻ tại gia hưởng dục vậy?

Các tỷ-kheo đã nghe được dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai. Các vị tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo nhóm Lục Sư lại tiến hành việc trao đổi với vàng bạc bằng nhiều hình thức?

Sau đó, các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các ngươi tiến hành việc trao đổi với vàng bạc bằng nhiều hình thức, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại tiến hành việc trao đổi với vàng bạc bằng nhiều hình thức? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo nào tiến hành việc trao đổi với vàng bạc bằng nhiều hình thứcthì (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội ưng đối trị.

[110] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo: ...(như trên)... Vị này là “vị tỷ-kheo” được đề cập trong ý nghĩa này.

Bằng nhiều hình thứcnghĩa là đã được chế biến, chưa được chế biến, đã được chế biến và chưa được chế biến. Đã được chế biến nghĩa là làm thành vật (trang sức) ở đầu, làm thành vật (trang sức) ở cổ, làm thành vật (trang sức) ở tay, làm thành vật (trang sức) ở bàn chân, làm thành vật (trang sức) ở hông. Chưa được chế biến nghĩa là việc làm thành khối được nói đến. Đã được chế biến và chưa được chế biến nghĩa là cả hai điều ấy.

Vàng bạcnghĩa là có màu sắc của bậc Đạo sư, là đồng tiền kahāpaṇa, tiền māsaka bằng đồng, tiền māsaka bằng gỗ, tiền māsaka bằng nhựa cánh kiến, những vật nào dùng trong việc buôn bán.

Tiến hành: vị trao đổi vật đã được chế biến bằng vật đã được chế biến thì phạm vào nissaggiya. Vị trao đổi vật chưa được chế biến bằng vật đã được chế biến thì phạm vào nissaggiya. Vị trao đổi vật đã được chế biến và chưa được chế biến bằng vật đã được chế biến thì phạm vào nissaggiya. Vị trao đổi vật đã được chế biến bằng vật chưa được chế biến thì phạm vào nissaggiya. Vị trao đổi vật chưa được chế biến bằng vật chưa được chế biến thì phạm vào nissaggiya. Vị trao đổi vật đã được chế biến và chưa được chế biến bằng vật chưa được chế biến thì phạm vào nissaggiya. Vị trao đổi vật đã được chế biến bằng vật đã được chế biến và chưa được chế biến thì phạm vào nissaggiya. Vị trao đổi vật chưa được chế biến bằng vật đã được chế biến và chưa được chế biến thì phạm vào nissaggiya. Vị trao đổi vật đã được chế biến và chưa được chế biến bằng vật đã được chế biến và chưa được chế biến thì phạm vào nissaggiya.

Nên được xả bỏ ở giữa hội chúng. Và này các tỷ-kheo, nên được xả bỏ như vầy: Vị tỷ-kheo ấy nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các vị tỷ-kheo trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: “Bạch các ngài, tôi đã tiến hành việc trao đổi với vàng bạc bằng nhiều hình thức, vật này nên được tôi xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng.

Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực. Nếu có người phụ việc chùa hoặc nam cư sĩ đi đến nơi ấy thì nên nói với người ấy rằng: “Này đạo hữu, hãy nhận biết vật này.” Nếu người ấy nói rằng: “Hãy để cho vật gì đó được mang lại với vật này?” Không nên nói rằng: “Hãy mang lại vật này hoặc vật này.” Nên đề cập đến vật được phép là bơ lỏng, hoặc dầu ăn, hoặc mật ong, hoặc đường mía . Nếu người ấy sau khi trao đổi với (vàng bạc) ấy và đem lại vật được phép thì tất cả nên thọ dụng trừ ra vị đã thọ lãnh vàng bạc. Nếu điều ấy có thể đạt được như vậy, như thế là điều tốt; nếu không thể đạt được thì nên nói với người ấy rằng: “Này đạo hữu, hãy quăng bỏ vật này.” Nếu người ấy quăng bỏ, như thế là điều tốt; nếu (người ấy) không quăng bỏ thì nên chỉ định vị quăng bỏ vàng bạc là vị tỷ-kheo hội đủ năm điều: là vị không thể bị chi phối bởi sự ưa thích; là vị không thể bị chi phối bởi sự sân hận; là vị không thể bị chi phối bởi sự si mê; là vị không thể bị chi phối bởi sự sợ hãi; là vị biết vật được quăng bỏ và không được quăng bỏ.

Và này các tỷ-kheo, nên chỉ định như vầy: Trước hết, vị tỷ-kheo nên được yêu cầu; sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi.Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định vị tỷ-kheo tên (như vầy) là vị quăng bỏ vàng bạc. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định vị tỷ-kheo tên (như vầy) là vị quăng bỏ vàng bạc. Đại đức nào đồng ý việc chỉ định vị tỷ-kheo tên (như vầy) là vị quăng bỏ vàng bạc, vị ấy nên im lặng; vị nào không đồng ý, có thể nói lên.

Vị tỷ-kheo tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định là vị quăng bỏ vàng bạc. Sự việc được hội chúng đồng ý nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

Vị tỷ-kheo đã được chỉ định ấy sau khi đã không làm dấu hiệu rồi nên ném đi. Nếu sau khi đã làm dấu hiệu rồi ném đi thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).

[111] Vàng bạc, nhận biết là vàng bạc, vị trao đổi vàng bạc thì phạm tội ưng xả đối trị (nissaggiyaṃ pācittiyaṃ).

Vàng bạc, có sự hoài nghi, vị trao đổi vàng bạc thì phạm tội ưng xả đối trị.

Vàng bạc, (lầm) tưởng không phải là vàng bạc, vị trao đổi vàng bạc thì phạm tội ưng xả đối trị.

Không phải là vàng bạc, (lầm) tưởng là vàng bạc, vị trao đổi vàng bạc thì phạm tội ưng xả đối trị.

Không phải là vàng bạc, có sự hoài nghi, vị trao đổi vàng bạc thì phạm tội ưng xả đối trị.

Không phải là vàng bạc, nhận biết không phải là vàng bạc, vị trao đổi vàng bạc thì phạm tội ưng xả đối trị.

Không phải là vàng bạc, (lầm) tưởng là vàng bạc, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Không phải là vàng bạc, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Không phải là vàng bạc, nhận biết không phải là vàng bạc, thì vô tội.

[112] Vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.

Dứt điều học thứ chín.

********

ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI:

[113] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai dòng Sākya là rành rẽ về việc may y. Vị ấy đã làm y hai lớp (saṅghāṭi) từ các loại vải cũ rồi được nhuộm khéo léo và được sửa soạn khéo léo, sau khi làm xong đã khoác vào. Khi ấy, có người du sĩ ngoại đạo nọ mặc tấm choàng trị giá cao đã đi đến gặp đại đức Upananda con trai dòng Sākya, sau khi đến đã nói với đại đức Upananda con trai dòng Sākya điều này:

- Này đại đức, y hai lớp này của ngài đẹp thật. Hãy đổi cho tôi với tấm choàng này.

- Này đạo hữu, hãy biết lấy.

- Này đại đức, được rồi. Tôi biết mà.

- Này đạo hữu, tốt thôi. Rồi đã trao đổi.

Sau đó, người du sĩ ngoại đạo ấy đã khoác lên y hai lớp ấy rồi đi đến tu viện của các du sĩ ngoại đạo. Các du sĩ ngoại đạo đã nói với người du sĩ ngoại đạo ấy điều này:

- Này huynh đệ, y hai lớp này của ngươi đẹp thật. Ngươi nhận được từ đâu vậy?

- Này các huynh đệ, đã được trao đổi bằng tấm choàng ấy của tôi.

- Này huynh đệ, y hai lớp này của ngươi sẽ được bao nhiêu ngày? Chính tấm choàng kia của ngươi mới giá trị.

Khi ấy, người du sĩ ngoại đạo ấy (nghĩ rằng): “Những người du sĩ ngoại đạo đã nói sự thật. Y hai lớp này của ta sẽ được bao nhiêu ngày? Chính tấm choàng kia của ta mới giá trị” rồi đã đi đến gặp đại đức Upananda con trai dòng Sākya, sau khi đến đã nói với đại đức Upananda con trai dòng Sākya điều này:

- Này đại đức, đây là y hai lớp của đại đức. Hãy cho lại tôi tấm choàng.

- Này đạo hữu, không phải ta đã nói với đạo hữu rằng: “Này đạo hữu, hãy biết lấy.” Ta sẽ không cho lại.

Khi ấy, người du sĩ ngoại đạo ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Ngay cả người tại gia còn cho lại vật ấy đến người tại gia có sự luyến tiếc. Sao vị xuất gia lại không cho lại vị xuất gia?

Các tỷ-kheo đã nghe được người du sĩ ngoại đạo ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao đại đức Upananda con trai dòng Sākya lại tiến hành việc mua bán với du sĩ ngoại đạo?

Sau đó, các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này Upananda, nghe nói ngươi tiến hành việc mua bán với du sĩ ngoại đạo, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại tiến hành việc mua bán với du sĩ ngoại đạo vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. … (như trên)… Và này các tỷ-kheo, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo nào tiến hành việc mua bán bằng nhiều hình thứcthì (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội ưng đối trị.

[114] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...

Tỷ-kheo: ...(như trên)... Vị này là “vị tỷ-kheo” được đề cập trong ý nghĩa này.

Bằng nhiều hình thứcnghĩa là các vật dụng như là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, thuốc men chữa bệnh, thậm chí cục bột tắm, gỗ chà răng, nắm chỉ rời.

Tiến hành việc mua bán: (nói rằng): “Hãy cho vật này với vật này, hãy mang lại vật này với vật này, hãy trao đổi vật này với vật này, hãy mua vật này với vật này,” vị vi phạm thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Khi nào có vật được mua và vật được bán, (tức là) vật của bản thân được đến tay người kia và vật của người kia được đến tay của bản thân thì phạm vào nissaggiya, nên được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỷ-kheo, nên được xả bỏ như vầy: ...(như trên)... “Bạch các ngài, tôi đã tiến hành việc mua bán bằng nhiều hình thức, vật này nên được tôi xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng.” ...(như trên)... hội chúng nên cho lại...(như trên)... chư đại đức nên cho lại...(như trên)... “Tôi cho lại đại đức.”

[115] Việc mua bán, nhận biết là việc mua bán, phạm tội ưng xả đối trị (nissaggiyaṃ pācittiyaṃ).

Việc mua bán, có sự hoài nghi, phạm tội ưng xả đối trị.

Việc mua bán, (lầm) tưởng không phải là việc mua bán, phạm tội ưng xả đối trị.

Không phải là việc mua bán, (lầm) tưởng là việc mua bán, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Không phải là việc mua bán, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Không phải là việc mua bán, nhận biết không phải là việc mua bán, thì vô tội.

[116] Vị hỏi trị giá (của vật), vị chỉ bảo người làm cho đúng phép (kappiyakāraka), vị nói rằng: “Chúng ta có vật này, chúng ta cần vật này và vật này,” vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.

Dứt điều học thứ mười.

Phần Tơ tằm là phần thứ nhì.

********

Tóm lược phần này:

Tơ tằm, thuần, hai phần,
sáu năm, tấm lót ngồi,
hai lông cừu, nhận lấy,
cả hai nhiều cách thức.

*******


[1]Tulā là một đơn vị đo trọng lượng. Theo cách tính của ngài Mahā Samaṇa Chao ở trong Vinayamukhathì 1 tulā có trọng lượng của 160.000 hạt gạo (?).

[2]Khoảng chừng 25 cm. Xin xem điều Tăng tàng thứ sáu ở tập Phân Tích Tỷ-Kheo Giới tập 1, [502].

[3]Từ điển của Childers nói rằng 1 yojana là khoảng 12 miles, từ điển của Pali Text Society nói là khoảng 7 miles. The Buddhist Monastic Codecủa Thanissaro bhikkhu cho biết là 1 yojana = 10 miles = 16 km.

[4]Adhisīla: Tăng thượng giới là giới bổn Pātimokkha. Adhicitta: Tăng thượng tâm là sự tu tập các loại định hợp thế. Adhipaññā: Tăng thượng tuệ là sự tu tập (các tâm) Đạo Siêu Thế (theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa).

---o0o---

Nguồn: www.budsas.org

Trình bày: Linh Thoại

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com