Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Luận 10. Công Hay Tội

12/04/202119:23(Xem: 8571)
Luận 10. Công Hay Tội

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***


buddha-568

 

III. PHẦN THỨ III TỔNG LUẬN:

 

TÁNH KHÔNG BÁT NHÃ

(Với những nguyên lý chỉ đạo của nó)

 

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le


 

 

LUẬN #10. CÔNG hay TỘI TRONG VIỆC THỌ TRÌ

BÁT NHÃ.

 

 

Gợi ý:

Chúng tôi rất sợ những chuyện thần thoại, những dị đoan mê tín, những dị luận mơ hồ, những giáo thuyết huyễn hoặc viễn vong... chỉ làm mê hoặc hay quá khích kích động tâm người, gây đau thương đổ vỡ hơn là xây dựng một thế giới lành mạnh. Vì vậy, trong toàn bộ Tổng luận này chúng tôi đề cập nhiều nhất về trí tuệ Phật, một loại trí tuệ đem lại đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả cốt mang lại an lạc thanh bình cho toàn thể chúng sanh. Nhưng trong luận #10 lại đề cập đến công đức và tội lỗi của người thọ trì Bát nhã Ba la mật. Đọc hết những đoạn kinh ngắn sau đây Quý vị sẽ hiểu thế nào là công đức và tội lỗi của người thọ trì Bát nhã Ba la mật? Tin hay không là ở mình. Chúng tôi hy vọng với tinh thần sáng suốt và khoa học sẽ soi sáng Quý vị trên con đường học đạo để có thể tìm thấy chỗ đứng đúng và có cái nhìn đúng về một triết thuyết nói về cái “rỗng không” (emptyness or sunyata) này.

 

- Phẩm “Khen Ngợi Đức Thắng”, phần đầu quyển 10, Hội thứ I, ĐBN, tất cả chúng hội đều đứng lên, cất tiếng khen tặng Bát nhã Ba la mật: “Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật mà đại Bồ Tát sở hữu là Ba la mật vĩ đại; bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật mà đại Bồ Tát sở hữu là Ba la mật sâu rộng; bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật mà đại Bồ Tát sở hữu là Ba la mật thù thắng, là thâm diệu, là nhiệm mầu, là tôn quý; cao siêu, hơn hết, tột bậc, vô thượng, tối thượng, siêu đẳng, không gì bằng, tuyệt đối, như hư không...!”

Có lẽ chúng ta không còn danh từ nào to lớn tôn quý hơn lời tán tụng của chúng hội trong phẩm “Khen Ngợi Đức Thắng” này.

 

- Một đoạn kinh khác của phẩm “So Lường Công Đức”, quyển 126, Hội thứ I, ĐBN. Trời Đế Thích bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn! Nay đây Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với tất cả công đức của Bát nhã Ba la mật này, nói còn chưa hết. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật mà con đã lãnh thọ từ Thế Tôn, với công đức rộng sâu, không bờ bến. Các thiện nam, tín nữ đối Bát nhã Ba la mật này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết truyền bá rộng rãi thì công đức có được cũng không bờ bến. Nếu có người sao chép Bát nhã Ba la mật này rồi dùng các thứ trang trí cho đẹp, lại dùng vô lượng tràng hoa, các loại hương xoa, hương bột tuyệt diệu, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý lạ, kỹ nhạc, đèn sáng v.v…tất cả vật sở hữu cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen thì công đức có được cũng không bờ bến”.

Trời Đế Thích ca tụng công đức Bát Nhã thù thắng nào là vô lượng, vô đối, vô giới hạn, nào là không gì bằng, khó nghĩ bàn, nói còn chưa hết. Nên Trời Đế thích phải thú nhận với Phật “Bát nhã Ba la mật mà con đã lãnh thọ từ Thế Tôn, với công đức rộng sâu không bờ bến. Các thiện nam tín nữ đối với Bát Nhã chí tâm thọ hành lại đem vô lượng tràng hoa, hương bột tuyệt diệu cùng các y phục lọng báu, đèn sáng v.v... mà cung kính cúng dường thì công đức có được cũng không bờ bến”.

 

- Thiên Đế Thích cũng trong phẩm “So Lường Công Đức”, quyển 129, Hội thứ I, ĐBN, tán thán:

“Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức quảng đại thù thắng; Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng vô lượng; Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng viên mãn; Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng vô biên; Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng vô đối; Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng vô tận; Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng vô giới hạn; Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng không gì bằng; Bát nhã Ba la mật như thế, thành tựu công đức thù thắng khó nghĩ bàn; Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng chẳng thể nói hết”.

Bao nhiêu lời tán tụng Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức quảng đại, vô lượng, vô biên, vô đối, vô tận, vô giới hạn, không gì bằng, khó nghĩ bàn, chẳng thể kể xiết…

 

- Phẩm “Thấy Bất Động”, quyển 522, Hội thứ III, ĐBN. Phật bảo:

- “Khánh Hỷ nên biết! Người nào muốn giữ lấy số lượng giới hạn Bát Nhã thậm thâm, thì giống như người ngu si muốn giữ lấy số lượng giới hạn hư không. Vì sao? Vì công đức của Bát Nhã thậm thâm là vô lượng, không giới hạn.

Khánh Hỷ nên biết! Ta không bao giờ nói công đức thù thắng của Bát Nhã thậm thâm bằng những danh từ v.v… có số lượng, có giới hạn. Vì sao? Vì danh từ, câu, chữ là pháp có số lượng, còn công đức thù thắng của Bát Nhã thậm thâm là pháp chẳng có hạn lượng. Chẳng phải danh từ v.v… có thể lường được công đức lợi ích của Bát nhã Ba la mật, cũng chẳng phải công đức lợi ích thù thắng của Bát nhã Ba la mật có thể dùng danh từ để tính lường được”.

Có lẽ chúng ta không còn lời tán tụng nào để thêm vào. Tới đây chúng ta có thể tạm thời dừng bút, không cần nói thêm về công đức oai thần Bát Nhã cũng được? Tuy nhiên, để khích lệ những ai cần cầu cũng như tu hành Bát Nhã thêm phần tin tưởng, chúng tôi xin dẫn chứng thêm những đoạn kinh tiêu biểu, thuyết về đề tài này, như sau:

 

1. Công đức do việc thọ trì Bát Nhã:

 

1- Thế lực, oai thần Bát Nhã. 

- Phẩm “Học Quán”, quyển 03, để mở đầu pháp hội thứ I, Phật nhằm gởi “thông điệp” cho toàn thể Tam thiên đại thiên thế giới rằng:

“… Nếu Bồ Tát Ma ha tát muốn đem oai lực của mình khiến hữu tình trong thế giới mười phương hằng hà sa thảy: Kẻ mù thấy được, kẻ điếc nghe được, kẻ câm nói được, kẻ cuồng nhớ được, kẻ loạn được định, kẻ nghèo được giàu, kẻ trần được áo, kẻ đói được ăn, kẻ khát được uống, kẻ bệnh được lành, kẻ xấu được đẹp, kẻ tàn tật được đầy đủ, kẻ căn khuyết được vuông tròn, kẻ mê lầm được tỉnh ngộ và kẻ mỏi mệt được thư thới, thời nên học Bát nhã Ba la mật.

“Nếu Bồ Tát Ma ha tát muốn đem oai lực của mình khiến hữu tình trong thế giới mười phương hằng hà sa thảy, từ tâm đối xử nhau như cha mẹ, như anh như em, như chị như em, như bạn, như thân thuộc, chẳng trái lẫn nhau, lần lượt vì làm lợi ích an vui cho nhau, thời nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu Bồ Tát Ma ha tát muốn đem oai lực của mình khiến hữu tình trong mười phương thế giới hằng hà sa thảy, kẻ đang ở ác thú đều thoát ác thú sanh về thiện thú, kẻ đang ở thiện thú thường ở thiện thú mà chẳng đọa ác thú, thời nên học Bát nhã Ba la mật.

Nếu Bồ Tát Ma ha tát muốn đem oai lực của mình khiến hữu tình trong thế giới mười phương hằng hà sa thảy, kẻ tập luyện ác nghiệp đều tu hành thiện nghiệp thường không nhàm mỏi, thời nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu Bồ Tát Ma ha tát muốn đem oai lực của mình khiến hữu tình trong thế giới mười phương hằng hà sa thảy, các kẻ phạm giới đều trụ nhóm giới, các kẻ tán loạn đều trụ nhóm định, các kẻ ngu si đều trụ nhóm huệ, các kẻ chưa được trụ nhóm giải thoát đều trụ nhóm giải thoát, kẻ chưa được giải thoát tri kiến đều trụ nhóm giải thoát tri kiến, thời nên học Bát nhã Ba la mật”.

Muốn được đầy đủ biện tài trí tuệ, các thiện căn công đức, muốn đầy đủ thần thông oai lực hơn người... thì phải học Bát nhã Ba la mật! Bát Nhã có đầy dẫy công đức oai thần như thế, nói mãi không hết. Muốn vượt qua và vượt trên tất cả muôn loài, muốn làm thượng tôn, nhân thiên sư trong loài người thì nên học Bát nhã Ba la mật. Đó là thông điệp hùng hồn nhất trước khi Phật thuyết Kinh này!

 

- Phẩm “Tịnh Đạo”, quyển 74, Hội thứ I, ĐBN. Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- “Tôn giả! Tất cả pháp Phật đều mang lại vô lượng vô biên các nhóm công đức nên gọi là đạo Bồ đề. Nhưng công đức như vậy do đâu mà có?

Thiện Hiện đáp:

- Xá Lợi Tử! Công đức như vậy đều do thế lực của Bát nhã Ba la mật mà đạt được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì Bát nhã Ba la mật bao giờ cũng là mẹ của tất cả thiện pháp. Tất cả thiện pháp của Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Như Lai đều từ đó mà xuất sanh.

Xá Lợi Tử! Bát nhã Ba la mật này có khả năng nhiếp thọ khắp tất cả thiện pháp. Thiện pháp của Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Như Lai đều nương nơi đây mà an trú.

Xá Lợi Tử! Chư Phật quá khứ tu hành Bát nhã Ba la mật đạt đến chỗ viên mãn rốt ráo, đã chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân vi diệu, độ vô lượng chúng sanh. Chư Phật vị lai tu hành Bát nhã Ba la mật đạt viên mãn rốt ráo, sẽ chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân vi diệu, độ vô lượng chúng sanh. Chư Phật hiện tại trong mười phương thế giới tu hành Bát nhã Ba la mật đạt viên mãn rốt ráo, hiện chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân vi diệu, độ vô lượng chúng sinh”.

Với những lời tán tụng như vậy làm sao không bừng lên tia sáng trong đôi mắt của người cầu đạo? Kinh nói Bát nhã Ba la mật bao giờ cũng là mẹ của tất cả thiện pháp (thế gian và xuất thế gian). Chư Phật ba đời tu hành Bát nhã Ba la mật đạt đến chỗ viên mãn rốt ráo, đã, đang và sẽ chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân vi diệu, độ vô lượng hữu tình là do nhiếp thọ tu hành các pháp tu này. Đó là do công đức Bát nhã Ba la mật tạo ra.

 

- Đoạn kinh sau đây thuộc phẩm “Chuyển Sanh”, quyển 07, Hội thứ I, ĐBN. Xác nhận lời nói trên và xưng tán Bát nhã Ba la mật như sau:

“Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát muốn đắc năm nhãn thanh tịnh, nên siêng tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì sáu phép Ba la mật như vậy, gồm thâu tất cả thiện pháp thanh tịnh, đó là thiện pháp của Thanh văn, thiện pháp của Độc giác, thiện pháp của Bồ Tát, thiện pháp của Như Lai. Xá Lợi Tử! Nếu hỏi thẳng: Pháp nào có thể gồm thâu tất cả thiện pháp, thì nên đáp ngay rằng: Đó là Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm là mẹ sanh, mẹ dưỡng của tất cả thiện pháp, có thể sanh ra và nuôi dưỡng bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã và năm nhãn v.v… cùng vô lượng vô biên công đức thù thắng, chẳng thể nghĩ bàn”.

Đây là uy lực vô biên của Bát Nhã, chẳng có có uy lực nào hơn!

 

2- Công năng Bát Nhã:

Phẩm “Thí Dụ” hay phẩm “Thuyền Dụ Thảy”của 5 năm Hội đầu, ĐBN. Nói:

- Dù hữu tin, hữu nhẫn, hữu ái, hữu dục, hữu giải, hữu hành, hữu hỷ, hữu lạc, hữu xả, hữu tinh tiến, hữu tôn trọng, hữu tịnh tâm, ly phóng dật, bất tán loạn... có đủ tất cả nhưng không nhiếp thọ và gìn giữ Bát nhã Ba la mật làm phương tiện giống như người đi biển mà không có phao nổi, thuyền bị vỡ nửa đường làm sao thoát chết? Cũng giống như những người đi lấy nước mà dùng bình bằng đất chưa nung, làm sao lấy được nước? Người già một trăm hai mươi tuổi lại bệnh tật, không có người xốc nách, làm sao lê thân được vài bước nói chi đi cả dặm? Vì vậy, nhiếp thọ nương tựa Bát Nhã làm phương tiện là điều cần thiết nếu muốn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề và không bị thối thất nửa đường, phải rơi vào bậc Thanh văn hay Duyên giác.

Bát nhã Ba la mật đóng vai trò quan trọng trong việc luyện thân, luyện tâm, luyện trí để trở thành Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nên Bát Nhã là chỗ đáng nương tựa. Do đó, tùy thuận và nhiếp thọ Bát Nhã làm phương tiện là điều cần thiết nếu muốn Giác ngộ, Chánh giác hay Nhất thiết trí trí. Bát nhã Ba la mật như vậy được nhân cách hóa là mẹ, mẹ sinh mẹ dưỡng của chư Phật và chư Bồ Tát không có gì gọi là quá đáng!

 

3- Bát Nhã là tối thắng, là tôn quý, cao siêu, vi diệu... không gì bằng: 

Bát nhã Ba la mật là “tối thắng đệ nhất, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, là đẳng, là vô đẳng đẳng”. Nên nói học Bát Nhã là tối thắng, là tôn quí, cao siêu, vi diệu… không gì bằng:

 

- Mở đầu phẩm “Khen Ngợi Thắng Đức”, quyển 10, Hội thứ I, ĐBN. Các Thiên tử nói:

“... Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật mà đại Bồ Tát sở hữu là Ba la mật vĩ đại; bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật mà đại Bồ Tát sở hữu là Ba la mật sâu rộng; bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật mà đại Bồ Tát sở hữu là Ba la mật thù thắng, là thâm diệu, là nhiệm mầu, là tôn quí; cao siêu, hơn hết, tột bậc, vô thượng, tối thượng, siêu đẳng, không gì bằng, tuyệt đối như hư không...

Vậy, có gì có thể so sánh với Bát Nhã nữa không?

 

- Phẩm “Khen Bát Nhã”, quyển 172, Hội thứ I, ĐBN. Xá Lợi Phất bảo Thiên Đế Thích:

“Kiều Thi Ca! Các Bồ Tát Ma ha tát sở học Bát nhã Ba la mật vượt hơn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự vô số lượng. Thí như bọn người mù bẩm sinh, có cả trăm ngàn mà không có một kẻ sáng mắt dắt dẫn đi, cố nhiên chẳng thể gần tới đường chính, huống là đi xa thấu đại thành phong phú lợi vui. Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự Ba la mật như thế là bọn người mù, nếu không có Bát nhã Ba la mật là kẻ sáng suốt dẫn đường, hãy chẳng hay đi tới Bồ Tát Chánh đạo, huống là năng vào được đại thành Nhất thiết trí.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự Ba la mật như thế, do Bát nhã Ba la mật đây nhiếp thọ, nên bố thí, tịnh giới v.v… tất cả đều được “đến bờ kia”.

“…Vì chẳng phải do bố thí Ba la mật nhiếp thọ, mà năm cái khác được gọi là đáo bỉ ngạn; vì chẳng phải do tịnh giới Ba la mật nhiếp thọ, mà năm cái khác được tên là đáo bỉ ngạn; vì chẳng phải do an nhẫn Ba la mật nhiếp thọ v.v…mà năm cái khác được tên là đáo bỉ ngạn, chỉ do Bát nhã Ba la mật nhiếp thọ, nên năm cái khác được coi là đáo bỉ ngạn(sang được bờ kia). Vì sao? Vì các Bồ Tát cốt yếu là trụ Bát nhã Ba la mật mới có khả năng viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự; chẳng phải trụ năm cái khác có thể thành tựu việc ấy. Vì vậy, nên Bát nhã Ba la mật đối với năm thứ trước là tối thắng, là tôn quí, là cao siêu, là vi diệu… không gì bằng”.

Bát Nhã là một trong sáu pháp Ba la mật, nhưng Bát Nhã là Ba la mật đứng đầu, là chỉ đạo. Thiếu Bát Nhã các Ba la mật khác không thể hoạt động được ví như đất mà mọi sinh vật có thể sinh trưởng trên đó, thiếu đất là thiếu mầm sống, là thiếu tất cả!

 

- Trước khi chấm dứt thuyết toàn bộ Đại Bát Nhã, quyển cuối 600 phần “Bát Nhã Ba La Mật”, Hội thứ XVI, ĐBN. Phật bảo:

Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát học Bát nhã Ba la mật là sự học tối thắng trong các việc học. Cũng vậy, người học Bát nhã Ba la mật là làm con đường Niết bàn thanh tịnh cho khắp các hữu tình. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh! Vì trong các việc học, học Bát nhã Ba la mật là tối thắng đệ nhất, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, là đẳng, là vô đẳng đẳng”.

Có lẽ chúng ta không còn lời nào ca tụng bằng lời nói này. Như vậy là quá đủ phải không?

 

4- Bát Nhã là kho báu lớn:             

Người nào thọ trì kinh này thì đời này, đời sau có vô vàn công đức không thể nghĩ bàn. Vì vậy, mới nói Bát Nhã là kho báu lớn, cứu độ vô lượng chúng sanh.

 

- Phẩm “Thuyết Tướng Bát Nhã”, quyển 296, Hội thứ I, ĐBN. Nói:

“(...)Thiện nam thiện nữ ấy, do đọc tụng, tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật thậm thâm ở trong đại hội vô lượng ấy mà được công đức thù thắng vô lượng, vô số, vô biên, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể suy lường. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật nầy là kho báu lớn, có khả năng cứu thoát vô lượng, vô biên hữu tình khỏi sự bần cùng đại khổ của địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, loài người và chư thiên có khả năng ban cho vô lượng, vô biên hữu tình sự phú quí an lạc của dòng họ lớn Sát đế lợi, Bà la môn, Trưởng giả, Cư sĩ; có khả năng ban cho vô lượng, vô biên hữu tình sự phú quí an lạc của các chúng trời trong 25 cảnh giới; có khả năng ban cho vô lượng, vô biên hữu tình sự an lạc của quả Thanh văn, quả vị Độc giác; có khả năng ban cho vô lượng, vô biên hữu tình sự an lạc của quả vị Giác ngộ tối cao. Vì sao? Vì trong kho báu lớn Bát nhã Ba la mật ấy rộng nói khai thị tất cả các pháp Phật. Đối với các thiện pháp quí báu như thế, vô số hữu tình theo đó tu học thì sẽ hưởng phước lộc không thể nghĩ bàn. Vì nhơn duyên nầy nên Bát nhã Ba la mật được gọi là kho báu lớn”.

 

5- Bát Nhã là Vua của tất cả chú. 

 Quyển thứ 540, phẩm “Cúng Dường Tháp Bảo”, ĐBN. Thiên Đế Thích bạch Phật: “Bát nhã Ba la mật thậm thâm là Đại thần chú, là Đại minh chú, là Vô thượng chú, là Vô đẳng đẳng chú, là Vua tất cả chú, rất tôn rất thắng, rất thượng rất diệu, năng dẹp được tất cả, mà chẳng bị tất cả uốn dẹp lại. Sở dĩ vì sao? Bát nhã Ba la mật thậm thâm năng diệt được tất cả pháp ác bất thiện, năng viên mãn tất cả thiện pháp thù thắng.

Bấy giờ, Phật bảo Thiên Đế Thích rằng: Như vậy, đúng như ngươi đã nói. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Chư Phật quá khứ vị lai hiện tại đều nương Đại thần chú vương Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp độ chúng hữu tình. Ta đây cũng nương Đại thần chú vương Bát nhã Ba la mật thậm thâm chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì các trời người thuyết pháp vô thượng.

Kiều Thi Ca! Nương Đại thần chú vương Bát nhã Ba la mật, thế gian mới có Thánh giác tương ưng mười thiện nghiệp đạo, hoặc bốn tĩnh lự, hoặc bốn vô lượng, hoặc bốn định vô sắc, hoặc ba mươi bảy phần pháp Bồ đề, hoặc sáu thần thông, hoặc vô lượng vô biên Phật pháp khác.

Kiều Thi Ca! Tóm lại mà nói, tám muôn bốn ngàn pháp môn đều nương Đại thần chú vương Bát nhã Ba la mật thậm thâm mà xuất hiện ở thế gian.

Kiều Thi Ca! Nhất thiết Phật trí, tự nhiên trí khởi, bất tư nghì trí đều nương Đại thần chú vương Bát nhã Ba la mật thậm thâm mà xuất hiện ở thế gian”.

Các Đà la ni, các Thần chú hay các Tam muội là phần “thần bí” của Phật đạo. Những người theo khoa học ngày nay ít có mấy ai tin tưởng. Tuy nhiên, tu hành chưa đạt tới cảnh giới Thánh giả thì không nên bài xích, không bàn ra tán vào. Chính đức Phật xác nhận: “Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều nương Đại thần chú vương Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp độ chúng hữu tình. Ta đây cũng nương Đại thần chú vương Bát nhã Ba la mật thậm thâm chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì các trời người thuyết pháp vô thượng”.

Vậy, tín thọ phụng hành là tốt, nếu không chẳng nên bàn ra tán vào không ích lợi gì có khi mắc phải khẩu nghiệp nữa!

 

6- Bát Nhã cảnh giới nhiệm mầu của chư Phật.

Phẩm “Học Phương Tiện Xảo”, Hội thứ I, ĐBN. Nói:

“Nếu đại Bồ Tát muốn đứng trên tất cả hữu tình, thì nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát muốn làm lợi ích cho khắp tất cả hữu tình, đối với người không ai cứu hộ, làm người cứu hộ; đối với người không nơi nương tựa, làm chỗ nương dựa; người không nơi hướng về, làm chỗ hướng về; người lạc đường thì chỉ cho đường về, người chưa được Niết bàn, khiến được Niết bàn. Nếu đại Bồ Tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, muốn đi trên cảnh giới chư Phật đã đi, muốn dạo chơi chỗ chư Phật đã dạo chơi, muốn rống tiếng rống sư tử của chư Phật, muốn đánh trống pháp, muốn dộng chuông pháp, muốn thổi loa pháp, muốn ngồi tòa vô thượng, muốn nói pháp nghĩa vô thượng của chư Phật, muốn phá lưới nghi của tất cả hữu tình, muốn vào cõi pháp cam lồ của chư Phật, muốn hưởng hỷ lạc vi diệu của chư Phật, thì nên học Bát nhã Ba la mật”.

 

7- Bát Nhã vớisức mạnh huyền bí” của nó: 

Phẩm “Học Quán”, quyển 03, Hội thứ I, ĐBN nói:

“Nếu Bồ Tát Ma ha tát thấy có kiếp hỏa cháy khắp Tam thiên đại thiên thế giới, cháy suốt trời đất, muốn dùng một hơi thổi khiến cho tắt, thời nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu Bồ Tát Ma ha tát thấy có chỗ trú ngụ của Tam thiên đại thiên thế giới mà bị phong luân thổi đánh vọt lên, sắp thổi cả Tam thiên đại thiên thế giới: Núi Tô mê lô, núi Đại tô mê lô, núi Luân vi, núi Đại luân vi và các núi lớn nhỏ, đại địa tất cả mọi vật, nát như cám tấm, muốn đem 1 ngón tay ngăn sức gió kia chẳng khởi lên nữa, thì nên học Bát nhã Ba la mật”.

... Nếu Bồ Tát Ma ha tát muốn đem một sợi lông buộc lấy Tam thiên đại thiên thế giới, núi Đại tô mê lô, núi Luân vi, núi Đại luân vi và các núi lớn nhỏ, đại địa các vật, đem vứt qua vô lượng vô số vô biên thế giới phương khác, mà chẳng xúc hại các loại hữu tình, thì nên học Bát nhã Ba la mật”.

Thật không thể tưởng tượng nổi sức mạnh huyền bí phi thường của Bát Nhã! Bao nhiêu dẫn chứng trên đủ nói lên được thế lực công đức oai thần, những thần thông diệu dụng cũng như tánh cách tôn đạo của Bát nhã Ba la mật. Tới đây có thể nói khía cạnh sùng bái của Bát nhã Ba la mật được bốc cao một cách kỳ lạ với tính chất siêu hình cao tột của nó.

Nhưng phải nói thêm rằng một khi rơi vào những chuyện “phong thần” thì một ngày nào đó có thể trở thành huyễn hoặc. Đó là lý do tại sao các nhà khoa học, một số Thiền sư không muốn nói về vấn đề này! Tuy nhiên, tu chưa đến nơi đến chốn, chưa rõ hư thực thì xin đừng phê phán!

 

8- Công đức thọ trì Bát Nhã: 

- Trước khi chấm dứt thuyết giảng về ĐBN, đoạn kinh cuối cùng của quyển 600, phần “Bát Nhã Ba La Mật”, Hội Thứ XVI. Phật bảo:

“Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu ai đối với Bát nhã Ba la mật thâm sâu này mà thọ trì, dù chỉ một câu cũng đạt được vô lượng, vô biên công đức; huống gì họ được Kinh Đại Bát Nhã này mà thọ trì, chuyển đọc, ghi chép đầy đủ và cúng dường lưu truyền rộng rãi khắp vì người khác, thì phước đức của người này đạt được không thể nghĩ bàn.

Này Thiện Dũng Mãnh! Chỉ có người trí tuệ thông minh và hòa nhã mới có thể hộ trì pháp môn này. Còn người không có trí tuệ thông minh và hòa nhã thì pháp môn này chẳng phải là cảnh giới của họ.

Này Thiện Dũng Mãnh! Vì muốn đoạn mối nghi cho các hữu tình mà Ta nói Kinh Đại Bát Nhã như vậy”.

Để đoạn mối nghi cho các hữu tình, Phật nói: Nếu ai đối với Bát nhã Ba la mật thâm sâu này mà thọ trì, dù chỉ một câu cũng đạt được vô lượng, vô biên công đức; huống gì họ được Kinh Đại Bát Nhã này mà thọ trì, chuyền đọc, ghi chép đầy đủ và cúng dường lưu truyền rộng rãi khắp vì người khác, thì phước đức của người này đạt được không thể nghĩ bàn. Kinh này chỉ có người có trí tuệ thông minh hòa nhã mới có thể thọ trì, còn người trí tuệ cạn cợt, không phải là cảnh giới của họ.

 

Trong kinh Đại Bát Nhã, quyển 577, Hội thứ IX, có tên là Kinh “Kim Cương Năng Đoạn” là một bộ kinh nhỏ mà nói đến công đức của Bát Nhã đến 14 lần, trong đó chính đức Phật thích Ca Mâu Ni kể về trường hợp tích tụ công đức sâu rộng như trời biển của mình so sánh với người thọ trì tụng đọc, truyền bá kinh này như sau:

“Thiện Hiện! Ta nhớ thuở quá khứ xa xưa, trong vô số kiếp, trước thời đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Ta từng gặp tám mươi bốn ức trăm ngàn chư Phật, Ta đều vâng thờ. Đã vâng thờ rồi đều không trái phạm.

Thiện Hiện! Sau đời đương lai, hậu thời, hậu phần năm trăm năm, khi Chánh pháp sắp diệt, lúc thời phần chuyển, nếu hữu tình nào đối với kinh điển đây, thọ trì đọc tụng thông suốt rốt ráo và rộng vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý, thì này Thiện Hiện, số phước đời trước của Ta so với số phước đây thì trăm phần không bằng được, như vậy cho đến ngàn phần, hoặc trăm ngàn phần, hoặc ức trăm ngàn phần, hoặc hơn ức trăm ngàn phần, hoặc số phần, hoặc kế phần, hoặc toán phần, hoặc dụ phần, hoặc cực số phần cũng chẳng bằng được.

Thiên Hiện! Nếu Ta nói đầy đủ, chính ngay khi ấy, số phước mà thiện nam, hoặc thiện nữ này được, cho đến số phước mà thiện nam, hoặc thiện nữ này thọ trì, thì các hữu tình nghe được bèn mê ngất, tâm nghi điên cuồng.

Cho nên, Thiện Hiện! Như Lai tuyên thuyết pháp môn như thế chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể tính lường. Hãy nên mong cầu, quả đạt được chẳng thể nghĩ bàn”.

Từ trước Phật dùng thí dụ nào là bố thí bảy báu đầy cả tam thiên đại thiên, nào bố thí cả thân mạng sớm trưa chiều tối trong vô số kiếp…Tới đây Phật lấy chính bản thân của mình làm thí dụ: Ở quá khứ xa xưa, trong vô số kiếp, trước khi được Phật Nhiên Đăng thọ ký, Phật đã từng gặp tám mươi bốn ức trăm ngàn chư Phật, đều vâng thờ. Nói như vậy, có nghĩa là Phật đã làm công quả biết bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp, thờ phụng cúng dường không sót một đức Phật nào. Nhưng công đức ấy cũng không bằng “hữu tình nào đối với kinh điển đây, thọ trì đọc tụng thông suốt rốt ráo, rộng vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý, thì số phước đời trước của Phật so với số phước đây như vậy trăm ngàn phần, hoặc trăm vạn ức phần hoặc số phần hoặc kế phần hoặc toán phần hoặc dụ phần hoặc cực số phần cũng chẳng bằng được”. Vì sao?

Vì chúng sanh này được giác ngộ, đạt Chánh giác, đắc Nhất thiết trí trí, lại giáo hóa chúng sanh khác cũng giác ngộ được đạo quả như mình. Rồi chúng sanh đó lại giáo hóa các chúng sanh khác nữa cũng được như vậy, cứ thế nhân lên theo cấp số nhân, thì phước đức làm sao kể hết. Vì kinh này được coi là mẹ của chư Phật và chư Bồ Tát. Kinh này cũng nhiếp thọ tất cả Phật pháp hay nói khác tất cả pháp thế gian và xuất thế gian đều lưu xuất từ kinh này. Nên thọ trì, đọc tụng vì người tuyên nói thì công đức không thể cân lường, tính đếm nổi! Vì vậy, Phật lúc nào cũng nhắc nhở “nên mong cầu, vì quả đạt được không thể nghĩ bàn”.

Nhưng Kinh Kim Cương Năng Đoạn chỉ là một quyển trong số 600 quyển của Đại Bát Nhã. So ra, phải biết Kinh Đại Bát Nhã tán tụng việc thọ trì kinh này rộng lớn biết dường nào?

 

2. Tội lỗi do sự thọ trì Bát Nhã khiếm khuyết gây ra:

 

Nói đến công đức do thọ trì Bát Nhã mà không nói đến tội lỗi do thọ trì hời hợt, không đúng, thiếu nghiêm chỉnh hay hủy báng Bát Nhã... thì không được công bằng lắm. Lúc nào công và tội cũng phải ngang nhau. Vì vậy, nên mới có mục này. Phẩm “Tán Hoa”, quyển 554, Hội thứ IV, TBBN, Phật Bảo A nan đà:

“Khánh Hỷ nên biết! Trừ Kinh điển Bát Nhã sâu xa này ra, thọ trì các pháp khác mà Ta đã giảng thuyết, giả sử có quên mất thì tội đó còn nhẹ, nhưng nếu đối với Kinh điển Bát Nhã sâu xa này thọ trì không đúng, cho đến chỉ quên mất một câu thì tội đó rất nặng.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu đối với Kinh điển Bát Nhã sâu xa cho đến có thể thọ trì đúng một câu chẳng quên mất thì được phước đức vô lượng. Còn nếu đối với Kinh điển Bát Nhã sâu xa chẳng thọ trì đúng, cho đến quên mất chỉ một câu thì mắc tội rất nặng, vì lượng phước đồng như trước”.

Đây không phải là lời răn đe dọa nạt thông thường, mà đây là một khuyến cáo công bằng của đạo đức nói chung mà thôi. “Có công thì thưởng, có tội thì phạt!”

 

3. Tích tụ công đức thiện căn thì phải phát Bồ đề tâm:

 

Vậy, muốn tích tụ công đức thiện căn, muốn được thần thông diệu dụng, các biện tài trí tuệ để trở thành Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì phải phát Bồ đề tâm, tu Bồ Tát đạo mà Bồ Tát đạo hay Bồ Tát hạnh là nguyện lực là phương tiện lực đóng vai trò quan trọng trong việc thành tựu Bát Nhã. Có Bát Nhã là có tất cả!

Phẩm  bốn, “Bất Thối Chuyển” của Kinh “Đại Thừa Lý Thú Lục Ba La Mật Đa, trong hệ Bát Nhã dạy chúng ta rằng: “Nguyện ta sinh ra chỗ khổ nạn nào, ta đều thay thế chịu các khổ não cho chúng sinh, không muốn chứng Niết bàn giải thoát, không bỏ rơi chúng sinh để riêng mình hưởng an lạc. Vì sao? Vì tất cả Thanh văn và Bích chi Phật sau khi giải thoát nhập Niết bàn rồi, sống mãi mãi nơi đó, không làm lợi ích cho chúng sinh, không xiển dương công đức của thân Phật. Còn đại Bồ Tát ở trong ba đường khuyến hóa hữu tình lìa nghiệp ác, tu tập pháp lành, lìa khỏi các khổ mà được giải thoát ngay trong cõi người. Do đó mà đại Bồ Tát làm lợi ích cho tất cả hữu tình trong mười phương, nhân đây mà chư Thiên cõi Đao lợi, Đại Phạm thiên vương, Đại Tự tại thiên, chư Tiên ngoại đạo cúng dường, Bồ Tát đều được thọ nhận. Bồ Tát chứng quả vị bất thoái chuyển này được chư Phật ba đời khen ngợi và thọ ký. Đại Bồ Tát tu tập Đại thừa được tự tại, không sợ sệt, giống như Sư tử chúa. Tất cả chúng sinh đi theo sẽ chấm dứt mọi sợ hãi mà thẳng đến Bồ đề. Thanh văn, Duyên giác và A la hán nghe Bồ Tát chỉ dạy, vào sâu trong hang núi đều dùng y che đầu, hướng đến Niết bàn, vậy sao cùng Đại thừa tu hạnh Bồ Tát, mình và người đều được lợi ích? Do vậy mà càng thêm tinh tấn, thà ở trong ba đường chịu vô lượng khổ chứ không bao giờ hưởng lợi riêng mình mà trụ Niết bàn. Tất cả hữu tình đã tạo ra nghiệp ác trong quá khứ, hiện tại, vị lai sẽ đọa vào đường ác, chịu các khổ; ta nguyện đem thân này chịu thay cho họ. Trong quá khứ và hiện tại, ta tu hành đạt được tất cả việc lành, các pháp công đức, ta nguyện hồi hướng cho tất cả hữu tình mau chứng Niết bàn. Của cải trân bảo, ta nguyện xả bỏ tất cả. Bị đánh đập, mắng chửi, nguyện chịu nhẫn nhục, không trả thù, nguyện cho chúng sinh đó hết tội. Trải qua vô lượng, vô biên a tăng kỳ kiếp làm những việc khó làm, ta nguyện làm hết và vì chúng sinh mà cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tinh tấn tu hành thiền định, giải thoát, chứng quả vị bất thoái chuyển.

Lại như quá khứ, vô lượng, vô biên đại Bồ Tát tinh tấn tu tập Nhất thiết trí, ta cũng tu hành như vậy. Vì sao? Vì muốn độ tất cả hữu tình trong luân hồi để đưa họ lên bờ giải thoát Niết bàn vô thượng.

Lại nguyện tất cả loài chúng sinh: Noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, có sắc không sắc, có tưởng không tưởng, chẳng phải có tưởng, chẳng phải không tưởng ta đều đưa chúng nhập Niết bàn và làm cho chúng đầy đủ sáu Ba la mật, thành tựu hoàn toàn thân Phật vô thượng với trăm phước trang nghiêm, ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng quanh mình sáng hơn trăm ngàn ánh sáng mặt trời, chúng sinh chiêm ngưỡng vui thích không biết chán.

Lại nguyện tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới có công đức trang nghiêm như Phật.

Lại phát nguyện:

Nguyện xả bỏ thân này vì tất cả pháp giới chúng sinh bị đánh đập quở mắng, hoặc luôn bị trói buộc đau đớn, nhục mạ, muốn giết hại, những việc nô dịch không được chống trái… Ta nguyện những chúng sinh đó đều không còn tội.

Phát nguyện rồi, lại tư duy: “Ta mau được mãn nguyện này”.

Lại nguyện đem thân này ở trong năm đường làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình. Ai không có chỗ nương tựa, ta làm nơi nương tựa cho họ; ai du hành nước khác ta làm người dẫn đường; ta làm chiếc bè cho người vào biển, làm cầu cống cho người vượt qua sông; làm suối, giếng cho người ở nơi hoang dã; làm củi đuốc cho người lạnh; làm mát mẻ cho người bị nóng bức; làm đèn sáng ở chỗ tối tăm, làm giường nằm mềm mại cho người bệnh; làm thức ăn ngon cho người đói, làm nước ngọt cho người khát, làm áo quần cho người trần truồng; làm mưa tưới năm loại ngũ cốc lúc hạn hán mất mùa; làm thuốc hay cho người bệnh khổ để mau hết bệnh, kéo dài mạng sống; làm người hầu hạ cho người mồ côi cô quả; làm kho báu cho người nghèo khổ, đi theo và chung sống với họ không lìa bỏ nhau; làm bạn lữ và xe ngựa cho người đi xa để đến nơi; nếu người tà kiến thì nói Chánh pháp làm cho họ trụ trong chánh kiến. Ta thề vào địa ngục để cứu vớt chúng sinh ra khỏi các khổ; sinh vào ngạ quỷ để làm thức ăn ngon ngọt mát mẻ, trừ nóng đói; hóa làm núi thịt để loài bàng sinh như: Hổ, báo, sói lang, gấu, sư tử… ăn no nê.

Ta lại nguyện: Chúng sinh nào ăn thịt ta thì được no nê, không còn cảnh ăn nuốt lẫn nhau. Ta sẽ làm cỏ mềm mại tươi tốt cho các loài: Voi, ngựa, trâu, dê, hươu, nai… ăn. Ta làm cho các loài chúng sinh ăn thịt, ăn cỏ, ăn loại ngũ cốc đều được ăn uống no đủ tùy ý. Ở loài người thì được tùy ý hưởng sự vui thích. Ta nguyện cung cấp khiến họ không còn thiếu thốn.

Lại phát nguyện: Nguyện ta thành tựu tất cả thân Đà la ni, chúng sinh ở chỗ nào thì ta làm cây như ý để cứu hộ họ và làm “cây đèn thần” phát ra vô số của cải để cung cấp cho tất cả chúng sinh được đầy đủ, thỏa mãn. Hoặc làm thầy thuốc để chữa hết bệnh cho họ. Dùng tay đại Bi cầm chìa khóa cửa pháp mở thành Niết bàn chỉ dạy tri kiến của Phật, trải qua ba a tăng kỳ kiếp làm những việc khổ khó làm để đem chúng sinh được vào Niết bàn chân thật giải thoát. Sinh ra nơi nào luôn tinh tấn không biếng nhác, làm lợi ích và đem an lạc đến cho tất cả hữu tình. Vì cứu chúng sinh trong địa ngục phải chịu vô lượng khổ mà coi như niềm vui Niết bàn.

Lại phát nguyện: Nếu một chúng sinh nào chưa được giải thoát, ta nguyện ở địa ngục mãi mãi, không chứng Bồ đề”.

 Không có hạnh nguyện cao cả nào bằng hạnh nguyện nói trên! Những gì mà Kinh liệt kê là những hạnh nguyện khó làm, trước tạo thiện căng công đức cho mình, sau đem thiện căn công đức này bình đẳng ban cho tất cả chúng sanh đồng hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đây là công đức, nguyện hạnh của Bồ Tát thường thấy trong Kinh điển Đại thừa.

Tích tụ công đức, làm việc phước thiện là hạnh nguyện cao cả chỉ dành cho những ai vì chúng sanh mà hy sinh tất cả:

 

1. Tôi còn nhớ câu chuyện của Ngài A na luật, một Tỳ kheo của Phật tên là A Na Luật, trong Kinh “Lăng Nghiêm”. Cứ mỗi lần nghe pháp ông thường ngủ gật, bị Phật quở nên thức trắng nhiều đêm để tự khắc phục, chẳng may bị hỏng cả đôi mắt. Một bữa ông ngồi vá y, nhưng xỏ chỉ hoài không được. Ông mới hô to: Ai xâu kim dùm sẽ được công đức. Đức Thế Tôn nghe vậy, đến xâu kim cho ông. Ông xưng tụng: Thế Tôn có không biết bao công đức, dù vậy vẫn tiếp tục tích tập công đức không kể bất cứ một thứ công đức nhỏ nhiệm nào!

 

2. Triệu Châu là một Tổ sư Thiền nên có nhiều người thường đến cầu đạo. Một hôm có bà lão bệnh hoạn đến cầu.

Bà thưa:

- Tôi mang cái thân nữ này bị năm dây ràng buộc chướng ngại Phật tánh, làm sao thoát ly những triền phược ấy?

Triệu Châu đáp:

- Xin nguyện cho mọi người lên cõi trời, còn thân con tiện tỳ này nguyện tiếp tục chịu trầm luân một mình trong biển khổ.

Đại khái hai câu chuyện là như vậy. Điều cần nhấn mạnh ở đây là: 1. Tích tụ công đức bất kể công đức nào, và 2. Vì chúng sanh lập nguyện.

 

Ở đây, không phải nói về công đức hay lập nguyện mà ở đây thảo luận về diệu dụng của Bát Nhã. Nhưng nếu không lập nguyện, không tích lập công đức thì làm sao đắc Bát Nhã. Nếu không đắc Bát Nhã thì làm sao trở thành Bồ Tát. Nếu không trở thành Bồ Tát thì làm sao có đủ thần thông diệu dụng để hóa độ chúng sanh.

Thần thông diệu dụng chính phát sanh từ công đức và hạnh nguyện. Nhưng, nói cho cùng không cần phải đạt đến quả Phật, Bồ Tát mới làm được công việc này. Bất cứ ai, ở bất cứ trình độ nào cũng có thể làm công đức phước nghiệp nếu có tứ vô lượng tâm.

Các thế lực, oai thần, các biện tài, thần thông diệu dụng... không phải là những lâu đài được dựng lên bằng bèo bọt, mây khói... mà chính là do các chất liệu phát xuất từ mồ hôi nước mắt trong việc cần tu khổ hạnh hành Bồ Tát đạo, tích tụ thiện căn công đức trí tuệ mà ra.

Tuy công đức là điều đáng suy tôn, nhưng cũng đừng quá mong cầu ôm giữ làm gì. Nếu bám vào nó làm mục tiêu hành đạo thì công đức cũng trở thành mối chướng đạo - nếu không muốn nói là “bệnh”- trong việc tu tập để hướng đến giác ngộ hay chánh giác. Nên phẩm thứ năm “Bát nhã Ba la mật”, tập 2, quyển 40, Đại Trí Độ Luận nói rằng: “Vào trong Bát Nhã Ba La Mật, thì hết thảy các pháp tướng đều là không, nên Bát Nhã Ba La Mật là Tự Tướng Không Ba La Mật. Lại nữa, hết thảy pháp đều do duyên hòa hợp sanh, nên Bát Nhã Ba La Mật là Tự Tánh Không Ba La Mật. Lại nữa, chẳng có pháp, chẳng có danh tự pháp nên là pháp không, chẳng có chúng sanh, chẳng có danh tự chúng sanh nên là chúng sanh không. Do pháp không và chúng sanh không mà phá được hết thảy pháp, khiến được vô sở hữu, nên Bát Nhã Ba La Mật là Vô Pháp Hữu Pháp Không Ba La Mật.

Bồ Tát thực hành Bát Nhã Ba La Mật như vậy, chẳng thấy có các công đức, cũng chẳng thấy có chúng sanh nào được độ”.

Hãy lấy câu nói này làm châm ngôn trong việc tu tập Bát nhã Ba la mật. Nếu còn thấy công đức là còn chấp ngã pháp tức năng sở chưa tiêu. Tu Bát Nhã phải để tất cả các mối tương duyên vắng lặng như củi lạnh, tro tàn thì mới đạt Không, Vô tướng, Vô nguyện.

Thích nghĩa cho phần “Công Đức Oai Thần của Bát Nhã”:

(1). Đại Tạng Kinh Việt Nam mang số 0261, thuộc Hệ Bát Nhã, 10 quyển do Tam tạng Bát nhã, người nước Kế Tân, đời Đường dịch Từ Phạn sang Hán và Nhóm Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh dịch từ Hán sang Việt.

 

---o0o---

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/12/2014(Xem: 16249)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
24/11/2014(Xem: 17916)
Tập sách nhỏ “Du-già Tây Tạng, Giáo Lý và Tu Tập” này được dịch từ bản văn tiếng Anh có nhan đề là “Teachings of Tibetan Yoga” do Giáo sư Garma C. C. Chang – giảng sư của Tu viện Kong Ka ở miền Đông Tây Tạng khoảng trước năm 1950 – biên dịch từ Hoa ngữ, do nhà xuất bản Carol Publishing Group ấn hành năm 1993 tại New York, Hoa Kỳ.
18/08/2014(Xem: 26031)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn và đã được in chung với bảng thuật ngữ tra cứu thành một Phụ lục đính kèm theo toàn bộ kinh, xuất bản trong năm 2009.
18/08/2014(Xem: 23090)
Tôi nghe như thế này: Một thuở nọ, đức Phật ngự tại thành Tỳ-da-ly, trong vườn cây Am-la với chúng đại tỳ-kheo là tám ngàn người, Bồ Tát là ba mươi hai ngàn vị mà ai ai cũng đều biết đến, đều đã thành tựu về đại trí và bổn hạnh. Oai thần mà chư Phật đã gầy dựng được, chư Bồ Tát ấy nương vào đó mà hộ vệ thành trì đạo pháp. Các ngài thọ lãnh giữ gìn Chánh pháp, có thể thuyết pháp hùng hồn như tiếng sư tử rống, danh tiếng các ngài bay khắp mười phương. Chẳng đợi sự thỉnh cầu giúp đỡ mà các ngài tự mang sự an ổn đến cho mọi người. Các ngài tiếp nối làm hưng thạnh Tam bảo, khiến cho lưu truyền chẳng dứt.
18/08/2014(Xem: 27020)
Tôi nghe như thế này: Có một lúc đức Phật tại thành Vương Xá, núi Kỳ-xà-quật, cùng với sáu mươi hai ngàn vị đại tỳ-kheo. Các vị đều là những bậc A-la-hán đã dứt sạch lậu hoặc, không còn sinh khởi các phiền não, mọi việc đều được tự tại, tâm được giải thoát, trí huệ được giải thoát, như các bậc đại long tượng khéo điều phục. Các ngài đã làm xong mọi việc cần làm, buông bỏ được gánh nặng, tự thân đã được sự lợi ích, dứt hết mọi chấp hữu, đạt trí huệ chân chánh nên tâm được tự tại. Hết thảy các ngài đều đã được giải thoát, chỉ trừ ngài A-nan. Trong pháp hội có bốn trăm bốn mươi vạn Bồ Tát, đứng đầu là Bồ Tát Di-lặc. Các vị đều đã đạt được các pháp nhẫn nhục, thiền định, đà-la-ni. Các ngài hiểu sâu ý nghĩa các pháp đều là không và hoàn toàn không có tướng nhất định. Các vị đại sĩ như thế đều là những bậc không còn thối chuyển trên đường tu tập.
18/08/2014(Xem: 18567)
Sách Liên Tông Bảo Giám nói rằng: “Tâm thể chính là cõi Cực Lạc trải khắp mười phương. Tự tánh là đức Di-đà tròn đầy trí giác. Mầu nhiệm ứng theo thanh sắc nơi ngoại cảnh, tỏa sáng nơi tự tâm. Bởi vậy, bỏ mê vọng liền về chân thật, thẳng lìa trần ai tức là giác ngộ.” “Thuở trước ngài Pháp Tạng phát lời nguyện lớn, khai mở con đường nhiệm mầu sang Cực Lạc. Cho nên đức Thế Tôn mới chỉ về phương Tây mà dạy cho bà Vi-đề-hy biết rõ cõi diệu huyền. Khi ấy, mười phương chư Phật đều hiện tướng lưỡi rộng dài mà xưng tán. Nên báo trước rằng khi các kinh khác đều đã mất, sẽ chỉ riêng lưu lại bộ kinh A-di-đà.
18/08/2014(Xem: 20361)
Cuốn sách này được biên soạn chủ yếu dựa vào một cuốn sách bằng tiếng Tây Tạng có nhan đề là Bardo Thődol, trước đây được một vị Lạt-ma Tây Tạng là Kazi Dawa Samdup dịch sang tiếng Anh, nhan đề là The Tibetian Book of the Dead, với lời bình giải của Hòa thượng Chőgyam Trungpa. Sau đó đã có thêm bản tiếng Pháp của bà Marguerite La Fuente, dịch lại từ bản tiếng Anh. Chúng tôi đã sử dụng phần lớn bản dịch tiếng Việt của dịch giả Nguyên Châu, cũng được dịch từ bản tiếng Anh.
18/08/2014(Xem: 17427)
Tập sách này là phần tinh yếu của giáo pháp mật truyền thuộc Mật tông Tây Tạng, được Đại sư ORGYEN KUSUM LINGPA giảng giải thật chi tiết và rõ ràng. Sách đề cập đến các giai đoạn tu tập và chuẩn bị cho giai đoạn thân trung ấm (bardo), tức là giai đoạn quyết định sự tái sinh của mỗi chúng sinh.
18/08/2014(Xem: 58372)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay. Thật vậy tư tưởng của Ngài có thể biểu trưng cho toàn thể lòng từ bi và trí tuệ Phật Giáo trên một hành tinh mà con người dường như đã mất hết định hướng. Các sự xung đột không hề chấm dứt, con người bóc lột con người, giết hại muôn thú và tàn phá thiên nhiên. Phật giáo thường được coi như là một tín ngưỡng nhưng những lời khuyên của Đức Đạt-lai Lạt-ma trong quyển sách này vượt lên trên khuôn khổ hạn hẹp của một tôn giáo: - "Mỗi khi phải đề cập đến các vấn đề tâm linh thì không nhất thiết là tôi buộc phải nói đến các vấn đề liên quan đến tôn giáo (câu 87).
17/08/2014(Xem: 21529)
Tập sách này trong nguyên ngữ Tây Tạng được biên soạn từ quyển Truyền thuyết về 84 vị Thánh tăng (Grub thob brgyad bcu tsa bzhi’i lo rgyus) do ngàiMondup Sherab ghi chép từ lời kể của ngài Abhayadatta Sri (thế kỷ 12th) và quyển Tâm chứng của 84 vị Thánh tăng (Grub thob brgyad bcu rtogs pa’i snying po rdo rje’i lu) của ngài Vira Prakash, đã được Keith Dowman và Bhaga Tulku Pema Tenzin dịch sang Anh ngữ. Phần giới thiệu và các chú giải, nhận xét là củaKeith Dowman, hình minh họa là của H. R. Downs. Sách đã được phát hành tại Hoa Kỳ vào năm 1985 (The State University of New York Press, Albany, NY., 1985) với độ dày 454 trang. Sách cũng đã từng được dịch sang tiếng Đức vào năm 1991 với nhan đề Die Meister der Mahamudra (Diederichs, Munchen, 1991). Bản dịch Việt ngữ được giới thiệu lần này là của Nguyên Thạnh Lê Trung Hưng, được dịch từ bản tiếng Anh Masters of Mahamudra of the Eighty-four Buddhist Siddhas của Keith Dowman.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]