(Tương đương phần cuối phẩm “Mộng Hành” quyển thứ 19, MHBNBLM)
Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le
Tóm lược:
Này Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu đủ sáu phép Ba la mật, thấy các hữu tình bị lệ thuộc cảnh chúa tôi thì phát nguyện rằng: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba la mật, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị Giác ngộ tối cao. Trong cõi Phật của ta, không có ai là chúa, không có ai là tôi, ai muốn làm việc gì đều được tự do, cho đến chẳng thấy hình tượng chúa tể, cũng chẳng nghe danh tự chúa tể, chỉ có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng pháp thống nhiếp gọi là Pháp Vương.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy do sáu phép Ba la mật này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị Giác ngộ tối cao.
Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu đủ sáu phép Ba la mật, thấy các hữu tình sống trong các cảnh giới sai biệt: Địa ngục, quỷ giới, súc sanh, A tu la, nhơn, thiên, thấy rồi phát nguyện: Khi ta thành đạo, trong cõi Phật ta, không các cảnh giới sai biệt cũng không có danh tự sai biệt là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh v.v… Tất cả hữu tình đều cùng một loài, cùng tu một pháp là lục Ba la mật, an trụ pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh; an trụ chơn như, an trụ pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế v.v…; an trụ tứ Thánh đế, tu hành 37 pháp trợ đạo; tu hành 4 tịnh lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc; tu hành 8 giải thoát, 8 thắng xứ, 9 định thứ đệ, 10 biến xứ; tu hành tam giải thoát môn; tu hành 5 loại mắt, 6 phép thần thông; tu hành pháp môn Đà la ni, Tam ma địa; tu hành Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; tu hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; tu hành Bồ Tát hạnh; tu hành quả vị Giác ngộ tối cao.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy do sáu phép Ba la mật này, mà mau được viên mãn, gần gũi quả vị Giác ngộ tối cao.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu đủ sáu phép Ba la mật, thấy các hữu tình sanh ra trong bốn loài sai biệt: Noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh. Thấy như vậy rồi, mới phát nguyện khi thành Phật rồi trong cõi Phật Ta, các loài hữu tình đều là hóa sanh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu đủ sáu phép Ba la mật, thấy các hữu tình không có 5 loại thần thông, đối với việc làm không được tự tại. Thấy rồi phát nguyện, nếu Ta thành Phật, trong cõi Ta các loại hữu tình có năm tuệ thần thông đều được tự tại.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu đủ sáu phép Ba la mật, thấy các hữu tình thọ dụng đoàn thực(2), thân có các thứ đại tiểu tiện, máu mủ hôi thối, thật đáng chán bỏ, thệ nguyện rằng: Khi Ta thành Chánh Đẳng Chánh giác rồi, trong cõi Phật của Ta, các hữu tình đều cùng thọ dụng món ăn diệu pháp hỷ, thân thể thơm sạch, không có các việc đại tiểu tiện dơ uế.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu đủ sáu phép Ba la mật, thấy các hữu tình thân không ánh sáng, có làm việc gì phải nhờ đến ánh sáng bên ngoài. Nghĩ như thế rồi mới thệ nguyện: Nếu chứng quả vị Giác ngộ tối cao, trong cõi Phật của ta, thân các loài hữu tình đầy đủ ánh sáng, chẳng nhờ ánh sáng bên ngoài.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu đủ 6 phép Ba la mật, thấy nơi cư ngụ của các hữu tình có ngày có đêm, có tháng nửa tháng, thời tiết số năm, chuyển biến chẳng thường, thì ước nguyện rằng: Trong cõi Phật của ta, không có ngày đêm, và tháng nửa tháng, thời tiết số năm v.v…
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu đủ sáu phép Ba la mật, thấy các hữu tình tuổi thọ ngắn ngủi. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, tu học, chóng mau chứng quả, khiến trong cõi Phật của ta, tuổi thọ của các loài hữu tình dài lâu, khó biết kiếp số.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu đủ sáu phép Ba la mật, thấy các hữu tình không có các tướng tốt, mới ước nguyện, khi Ta thành Phật, cõi nước Ta, các loại hữu tình đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc viên mãn.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu đủ sáu phép Ba la mật, thấy loài hữu tình xa lìa các căn lành, mới phát nguyện: Trong cõi Phật của ta, các loại hữu tình, tất cả đều thành tựu căn lành vi diệu thù thắng. Do căn lành này, thường cúng dường chư Phật, nương vào phước lực này, tùy theo chỗ thọ sanh, được hưởng nhiều phúc lợi.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu đủ sáu phép Ba la mật, thấy các hữu tình có đủ các bệnh về thân tâm, mới phát nguyện: Khi Ta thành Phật, cõi nước của ta, các loại hữu tình, thân tâm thanh tịnh, không có nỗi khổ về bệnh, cho đến không nghe tên của các loại bệnh cũng chẳng nghe các bệnh phiền não như tham, sân, si, mạn v.v…
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu đủ sáu phép Ba la mật, thấy có hữu tình có đủ các ý thích: Hoặc có người thích hướng đến Thanh văn thừa, hoặc có người thích hướng đến Độc giác thừa, hoặc có người thích hướng đến Vô thượng thừa. Thấy như vậy rồi mới ước nguyện, khi Ta thành Phật rồi thì cõi nước Ta chỉ có một thừa duy nhất, là Đại thừa mà thôi.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu đủ sáu phép Ba la mật, thấy các hữu tình khởi tăng thượng mạn; chưa có thể thật sự xa lìa thập ác mà cho ta đã tu xong thập thiện; chưa đắc thiền, chưa đắc định mà cho ta đắc thiền, đắc định; chưa đắc tứ vô lượng mà cho ta đã hoàn tất từ, bi, hỷ, xả; chưa đắc các thần thông mà cho là đã chứng các thần thông; chưa đắc bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện mà cho là đắc bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện; chưa đắc quả vị Độc giác mà cho là đắc quả vị Độc giác; chưa đắc lục Ba la mật mà cho là đắc lục Ba la mật. Nói rộng ra, chưa đắc tất cả pháp Phật mà cho rằng ta đã chứng đắc tất cả pháp Phật.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta phải làm thế nào để cứu giúp các loại hữu tình như thế, khiến họ xa lìa sự kết buộc của tăng thượng mạn. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba la mật, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị Giác ngộ tối cao. Trong cõi Phật của ta, không có hạng tăng thượng mạn như thế, tất cả hữu tình lìa tăng thượng mạn.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu đủ sáu phép Ba la mật, thấy các hữu tình chấp trước các pháp, đó là chấp trước sắc, chấp trước thọ, tưởng, hành, thức; chấp trước mười hai xứ, mười tám giới; chấp trước tất cả pháp Phật. Đại Bồ Tát ấy, thấy việc đó rồi, phát thệ nguyện: Trong cõi Phật của ta, các loại hữu tình không có các loại chấp trước như thế.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu đủ 6 phép Ba la mật, thấy có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hào quang giới hạn, tuổi thọ giới hạn, các chúng đệ tử số lượng giới hạn. Đại Bồ Tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta làm thế nào để được hào quang vô lượng, thọ mạng vô lượng, và các chúng đệ tử số lượng không giới hạn. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba la mật, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị Giác ngộ tối cao. Bấy giờ, thân ta hào quang vô lượng, thọ mạng vô lượng, số lượng đệ tử được tăng lên vô lượng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu đủ 6 Ba la mật, thấy cõi nước của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, có chu vi giới hạn. Đại Bồ Tát Ma ha tát này thấy việc đây rồi, liền nghĩ: Ta phải làm sao cho cõi Phật này có chu vi vô hạn. Đã suy nghĩ rồi, tác lời nguyện này: Ta phải tinh siêng chẳng đoái thân mạng, tu hành 6 Ba la mật, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật khiến cho mau viên mãn chứng quả vị Giác ngộ tối cao. Đại thiên thế giới mười phương đều như số cát sông Hằng hợp làm một cõi, Ta ở trong ấy thuyết pháp giáo hoá vô lượng vô số vô biên hữu tình.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu đủ 6 Ba la mật, thấy các hữu tình đường sanh tử quá dài, ác cõi hữu tình số ấy vô biên. Đại Bồ Tát này thấy việc đây rồi, liền nghĩ: Ngằn mé sanh tử y như hư không, các cõi hữu tình cũng lại như thế. Tuy không thật có các loại hữu tình trôi lăn trong sanh tử hoặc được Niết bàn, mà các hữu tình vọng chấp là có, xoay quanh sanh tử, chịu khổ vô biên. Ta phải làm sao phương tiện cứu vớt. Đã suy nghĩ rồi, tác lời nguyện này: Ta phải tinh siêng chẳng đoái thân mạng, tu hành sáu Ba la mật, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật khiến cho chóng chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Vì các hữu tình thuyết Vô thượng pháp, đều khiến giải thoát đại khổ sanh tử, cũng khiến chứng biết sanh tử, giải thoát đều vô sở hữu, đều rốt ráo không.
Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này do sáu Ba la mật đây, mau được viên mãn gần gũi Vô thượng chánh Đẳng Bồ đề.
Thích nghĩa:
(1). Đoàn thực hay suyển thực là thức ăn vo tròn. Theo tục lệ Ấn độ, dân Ấn không dùng muỗng nĩa để ăn mà thường dùng tay vo tròn thức ăn rồi bỏ vào miêng. Đoàn thực, nói chung là thức ăn cõi Dục, chia làm hai loại: 1- Thô thực: Như cơm, bánh, miến, mì v.v... 2- Tế thực: Như bơ, phô mai(cheese) v.v...
Lược giải:
Phần cuối của phẩm “Mộng Hành” quyển thứ 19, MHBNBLMĐ nói lên ước nguyện sâu xa của một vị Bồ Tát giống như ước nguyện của Pháp Tạng Tỳ kheo trong Kinh Vô Lượng Thọ trước khi thành Phật A di đà. Đó cũng là ước nguyện của Văn Thù, của Phổ Hiền, của Đức Quán Âm Bồ Tát hoặcbất cứ một vị Bồ Tát nào trong hằng sa thế giới.
Tu Bồ Tát đạo hay Bồ Tát hạnh là thực hiện Bồ đề tâm, quyết tâm đạt Bồ đề vì lợi ích hữu tình, nhằm dẫn dắt cho chúng sanh đến Niết bàndù phải trải qua bao gian nan thử thách trong vô lượng kiếp. Nhưng muốn thực hiện hạnh nguyện đó thì trước nhất phải tu đủ sáu phép Ba la mật còn gọi là tu lục độ vạn hạnh, tu tất cả các pháp mầu Phật đạo, lại phải tích tụ thiện căn công đức mới có thể đạt Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, để phục vụ chúng sanh.
Hạnh nguyện của một vị Bồ Tát là muốn thực hiện một thế giới lý tưởng, tạo một mô hình gương mẫu mà vô lượng vô biên thế giới hằng ước mơ về mọi phương diện vật chất cũng như tinh thần.
Phần cuối phẩm “Mộng Hành” quyển thứ 19, MHBNBLMĐ ghi như sau. Đức Phật bảo Ngài Tu Bồ Đề:
- “Có đại Bồ Tát lúc hành bố thí Ba la mật, hoặc thấy chúng sanh đói rét, y phục rách rưới, phát nguyện rằng: Trong thời gian tôi hành bố thí Ba la mật đó, nguyện lúc tôi thành Phật, chúng sanh trong cõi nước tôi không có sự đói rét như vậy. Những đồ dùng, thức ăn, thức uống, y phục… giống như cõi Trời Tứ Thiên Vương, Trời Đao Lợi, Trời Dạ Ma, Trời Đâu Suất, Trời Hóa Lạc, Trời Tha Hóa Tự tại.
- Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát tu hành như vậy thì có thể đầy đủ bố thí Ba la mật, gần kề Vô thượng Bồ đề.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc hành trì giới Ba la mật, đại Bồ Tát thấy chúng sanh sát sanh, trộm cướp nhẫn đến tà kiến, bị chết yểu, nhiều bịnh, tướng xấu, thiếu oai đức, nghèo hèn, tàn tật, phải phát nguyện rằng: Trong thời gian tôi hành Trì giới Ba la mật đây, nguyện lúc tôi thành Phật, chúng sanh trong cõi nước tôi không có nghiệp ác và quả báo xấu như vậy.
Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát tu hành như vậy thì có thể đầy đủ Trì giới Ba la mật, gần kề Vô thượng Bồ đề.
- Lại này Tu Bồ Đề! Lúc hành Nhẫn nhục Ba la mật, đại Bồ Tát thấy chúng sanh giận dữ, thù ghét, mắng nhiếc, đánh đập, tàn sát lẫn nhau, phải phát nguyện rằng: Trong thời gian tôi hành Nhẫn nhục Ba la mật đây, nguyện lúc tôi thành Phật, chúng sanh trong cõi nước tôi không có những sự đó, tất cả đều xem nhau như cha, như mẹ, như anh chị em, như thiện tri thức, đều có lòng từ bi.
Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát tu hành như vậy thì có thể đầy đủ Nhẫn nhục Ba la mật, gần kề Vô thượng Bồ đề.
- Lại này Tu Bồ Đề! Lúc thực hành Tinh tấn Ba la mật, đại Bồ Tát thấy chúng sanh lười biếng, chẳng siêng tu pháp lành, rời bỏ ba thừa Thanh Văn, Bích Chi Phật, Phật thừa, phải phát nguyện rằng: Trong thời gian tôi hành Tinh tấn Ba la mật, nguyện lúc tôi thành Phật, chúng sanh trong cõi nước tôi không có sự như vậy, tất cả đều siêng tu tinh tấn, đều được đắc độ nơi pháp Nhất thừa.
Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát tu hành như vậy có thể đầy đủ Tinh tấn Ba la mật, gần kề Vô thượng Bồ đề.
- Lại này Tu Bồ Đề! Lúc hành ThiềnBa la mật, đại Bồ Tát thấy chúng sanh bị ngũ cái che đậy: dâm dục, ngủ nghỉ, điệu hối, nghi ngờ, mất thiền, mất định, mất vô lượng tâm, phát nguyện rằng: Lúc tôi tu Thiền Ba la mật, nguyện khi thành Phật, chúng sanh trong cõi nước tôi đều không có sự như vậy.
Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát tu hành như vậy có thể đầy đủ Thiền Ba la mật, gần kề Vô thượng Bồ đề.
- Lại này Tu Bồ Đề! Lúc hành Bát nhã Ba la mật, đại Bồ Tát thấy chúng sanh ngu si, mất chánh kiến thế gian, xuất thế gian hoặc cho rằng không nghiệp, không nhân duyên, hoặc cho rằng thân là thường còn, hoặc cho rằng đoạn diệt, hoặc nói là vô sở hữu, phải phát nguyện rằng: Trong thời gian tôi hành Bát nhã Ba la mật, tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh, nguyện lúc tôi thành Phật, chúng sanh trong cõi nước tôi không có sự như vậy.
Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát tu hành như vậy thì có thể đầy đủ Bát nhã Ba la mật, gần kề Vô thượng Bồ đề.
Lại này Tu Bồ Đề! Lúc hành sáu Ba la mật, đại Bồ Tát thấy chúng sanh an trụ nơi ba tụ: Một là chánh định tụ, hai là tà định tụ, ba là bất định tụ, phải phát nguyện rằng: Lúc tôi hành lục Ba la mật, tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh, nguyện khi tôi thành Phật, chúng sanh trong cõi nước tôi không có tà định tụ, cũng không có danh từ tà tụ.
Nầy Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát tu hành như vậy có thể đầy đủ sáu Ba la mật, gần kề Nhất thiết tướng trí”.
Bồ Tát sống lăn lóc với chúng sanh, hiểu rõ thế gian đầy thống khổ này, nên Bồ Tát lập nguyện khi thành Phật sẽ xây dựng thế giới của mình là một thế giới lý tưởng, trong đó tất cả chúng sanh đều sống an lạc, thái bình về mọi phương diện vật chất lẫn tinh thần!
Đó là lý tưởng hoằng độ chúng sanh của Bồ Tát đạo với tứ vô lượng tâm -từ bi hỷ xả, duy trì huyết mạch của Đại thừa, làm đẹp thế gian này dù trải qua muôn ngàn kiếp khổ nhọc.
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
Tập sách nhỏ “Du-già Tây Tạng, Giáo Lý và Tu Tập” này được dịch từ bản văn tiếng Anh có nhan đề là “Teachings of Tibetan Yoga” do Giáo sư Garma C. C. Chang – giảng sư của Tu viện Kong Ka ở miền Đông Tây Tạng khoảng trước năm 1950 – biên dịch từ Hoa ngữ, do nhà xuất bản Carol Publishing Group ấn hành năm 1993 tại New York, Hoa Kỳ.
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn và đã được in chung với bảng thuật ngữ tra cứu thành một Phụ lục đính kèm theo toàn bộ kinh, xuất bản trong năm 2009.
Tôi nghe như thế này: Một thuở nọ, đức Phật ngự tại thành Tỳ-da-ly, trong vườn cây Am-la với chúng đại tỳ-kheo là tám ngàn người, Bồ Tát là ba mươi hai ngàn vị mà ai ai cũng đều biết đến, đều đã thành tựu về đại trí và bổn hạnh. Oai thần mà chư Phật đã gầy dựng được, chư Bồ Tát ấy nương vào đó mà hộ vệ thành trì đạo pháp. Các ngài thọ lãnh giữ gìn Chánh pháp, có thể thuyết pháp hùng hồn như tiếng sư tử rống, danh tiếng các ngài bay khắp mười phương. Chẳng đợi sự thỉnh cầu giúp đỡ mà các ngài tự mang sự an ổn đến cho mọi người. Các ngài tiếp nối làm hưng thạnh Tam bảo, khiến cho lưu truyền chẳng dứt.
Tôi nghe như thế này:
Có một lúc đức Phật tại thành Vương Xá, núi Kỳ-xà-quật, cùng với sáu mươi hai ngàn vị đại tỳ-kheo. Các vị đều là những bậc A-la-hán đã dứt sạch lậu hoặc, không còn sinh khởi các phiền não, mọi việc đều được tự tại, tâm được giải thoát, trí huệ được giải thoát, như các bậc đại long tượng khéo điều phục. Các ngài đã làm xong mọi việc cần làm, buông bỏ được gánh nặng, tự thân đã được sự lợi ích, dứt hết mọi chấp hữu, đạt trí huệ chân chánh nên tâm được tự tại. Hết thảy các ngài đều đã được giải thoát, chỉ trừ ngài A-nan.
Trong pháp hội có bốn trăm bốn mươi vạn Bồ Tát, đứng đầu là Bồ Tát Di-lặc. Các vị đều đã đạt được các pháp nhẫn nhục, thiền định, đà-la-ni. Các ngài hiểu sâu ý nghĩa các pháp đều là không và hoàn toàn không có tướng nhất định. Các vị đại sĩ như thế đều là những bậc không còn thối chuyển trên đường tu tập.
Sách Liên Tông Bảo Giám nói rằng: “Tâm thể chính là cõi Cực Lạc trải khắp mười phương. Tự tánh là đức Di-đà tròn đầy trí giác. Mầu nhiệm ứng theo thanh sắc nơi ngoại cảnh, tỏa sáng nơi tự tâm. Bởi vậy, bỏ mê vọng liền về chân thật, thẳng lìa trần ai tức là giác ngộ.”
“Thuở trước ngài Pháp Tạng phát lời nguyện lớn, khai mở con đường nhiệm mầu sang Cực Lạc. Cho nên đức Thế Tôn mới chỉ về phương Tây mà dạy cho bà Vi-đề-hy biết rõ cõi diệu huyền. Khi ấy, mười phương chư Phật đều hiện tướng lưỡi rộng dài mà xưng tán. Nên báo trước rằng khi các kinh khác đều đã mất, sẽ chỉ riêng lưu lại bộ kinh A-di-đà.
Cuốn sách này được biên soạn chủ yếu dựa vào một cuốn sách bằng tiếng Tây Tạng có nhan đề là Bardo Thődol, trước đây được một vị Lạt-ma Tây Tạng là Kazi Dawa Samdup dịch sang tiếng Anh, nhan đề là The Tibetian Book of the Dead, với lời bình giải của Hòa thượng Chőgyam Trungpa. Sau đó đã có thêm bản tiếng Pháp của bà Marguerite La Fuente, dịch lại từ bản tiếng Anh. Chúng tôi đã sử dụng phần lớn bản dịch tiếng Việt của dịch giả Nguyên Châu, cũng được dịch từ bản tiếng Anh.
Tập sách này là phần tinh yếu của giáo pháp mật truyền thuộc Mật tông Tây Tạng, được Đại sư ORGYEN KUSUM LINGPA giảng giải thật chi tiết và rõ ràng. Sách đề cập đến các giai đoạn tu tập và chuẩn bị cho giai đoạn thân trung ấm (bardo), tức là giai đoạn quyết định sự tái sinh của mỗi chúng sinh.
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
Thật vậy tư tưởng của Ngài có thể biểu trưng cho toàn thể lòng từ bi và trí tuệ Phật Giáo trên một hành tinh mà con người dường như đã mất hết định hướng. Các sự xung đột không hề chấm dứt, con người bóc lột con người, giết hại muôn thú và tàn phá thiên nhiên. Phật giáo thường được coi như là một tín ngưỡng nhưng những lời khuyên của Đức Đạt-lai Lạt-ma trong quyển sách này vượt lên trên khuôn khổ hạn hẹp của một tôn giáo:
- "Mỗi khi phải đề cập đến các vấn đề tâm linh thì không nhất thiết là tôi buộc phải nói đến các vấn đề liên quan đến tôn giáo (câu 87).
Tập sách này trong nguyên ngữ Tây Tạng được biên soạn từ quyển Truyền thuyết về 84 vị Thánh tăng (Grub thob brgyad bcu tsa bzhi’i lo rgyus) do ngàiMondup Sherab ghi chép từ lời kể của ngài Abhayadatta Sri (thế kỷ 12th) và quyển Tâm chứng của 84 vị Thánh tăng (Grub thob brgyad bcu rtogs pa’i snying po rdo rje’i lu) của ngài Vira Prakash, đã được Keith Dowman và Bhaga Tulku Pema Tenzin dịch sang Anh ngữ. Phần giới thiệu và các chú giải, nhận xét là củaKeith Dowman, hình minh họa là của H. R. Downs. Sách đã được phát hành tại Hoa Kỳ vào năm 1985 (The State University of New York Press, Albany, NY., 1985) với độ dày 454 trang. Sách cũng đã từng được dịch sang tiếng Đức vào năm 1991 với nhan đề Die Meister der Mahamudra (Diederichs, Munchen, 1991).
Bản dịch Việt ngữ được giới thiệu lần này là của Nguyên Thạnh Lê Trung Hưng, được dịch từ bản tiếng Anh Masters of Mahamudra of the Eighty-four Buddhist Siddhas của Keith Dowman.
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.