Phần sau quyển 82 cho đến phần đầu quyển 84, Hội thứ I, ĐBN.
(Có thể nói phẩm này tương đương với phần sau quyển thứ 09,
phẩm “Ảo Nhân Thỉnh Pháp”, MHBNBLM)
Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu Diễn đọc: Cư Sĩ Quảng Tịnh Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước
Tóm lược:
Lúc bấy giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử, cụ thọ Đại Mục Liên, cụ thọ Chấp Đại Tạng, cụ thọ Mãn Từ Tử, Đại Ca Đa Diễn Na, Đại Ca Diếp Ba v.v… chư đại Thanh văn và vô lượng trăm ngàn đại Bồ Tát cùng lúc hỏi Thiện Hiện: Đã nói Bát nhã Ba la mật là thâm sâu khó thấy, khó biết, là đối tượng nghiên cứu, siêu vượt, vi diệu, tịch tịnh tối thắng đệ nhất, chỉ có bậc cực Thánh mới tự nội chứng, chẳng phải người có tri thức thường tục có thể suy lường. Đối với pháp như vậy ai là người có khả năng tín thọ?
Cụ thọ Thiện Tiện đáp: Thưa quý vị có ba hạng người có thể tín thọ là: 1. Đại Bồ Tát bất thối, 2. Người đã thấy Thánh đế hay các lậu tận A La hán; 3. Các thiện nam tín nữ đã từng thân cận cung kính cúng dường vô lượng vô số chư Phật hay người đã phát thệ rộng lớn, gieo trồng căn lành, trí năng thông tuệ. Đó là những người có khả năng tín thọ Bát nhã Ba la mật. Vì những người như vậy hoàn toàn chẳng lấy không, bất không để phân biệt sắc, cũng chẳng lấy sắc để phân biệt không, bất không; chẳng lấy không, bất không để phân biệt thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng lấy thọ, tưởng, hành, thức để phân biệt không, bất không; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt các uẩn, cũng chẳng lấy các uẩn để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt các uẩn, cũng chẳng lấy các uẩn để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt các uẩn, cũng chẳng lấy các uẩn để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt các uẩn, cũng chẳng lấy các uẩn để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt các uẩn, cũng chẳng lấy các uẩn để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt các uẩn, cũng chẳng lấy các uẩn để phân biệt viễn ly, bất viễn ly. (Q.82, ĐBN)
Những người như vậy, hoàn toàn chẳng lấy không, bất không để phân biệt mười hai xứ, mười tám giới, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ vô sắc định, Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, lục Ba la mật, mười tám pháp không, chơn như, pháp giới, pháp tánh, thật tế…, Ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao; cũng chẳng lấy tất cả pháp Phật nói trên để phân biệt không, bất không; chẳng lấy không, bất không để phân biệt tất cả pháp Phật; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt tất cả pháp Phật, cũng chẳng lấy tất cả pháp Phật để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt tất cả pháp Phật, cũng chẳng lấy tất cả pháp Phật để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt tất cả pháp Phật, cũng chẳng lấy tất cả pháp Phật để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt tất cả pháp Phật, cũng chẳng lấy tất cả pháp Phật để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt tất cả pháp Phật, cũng chẳng lấy tất cả pháp Phật để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt tất cả pháp Phật, cũng chẳng lấy tất cả pháp Phật để phân biệt viễn ly, bất viễn ly.
Những người như vậy, hoàn toàn chẳng lấy không, bất không để phân biệt phàm phu và pháp của bậc phàm phu; Bồ Tát thập địa và pháp của bậc Bồ Tát thập địa; Bồ Tát thập địa cộng Tam thừa và pháp của Bồ Tát thập địa cộng Tam thừa; cũng không phân biệt cảnh hữu vi với vô vi là không hay bất không, là hữu tướng hay vô tướng v.v…, và cũng chẳng lấy không, bất không, lấy hữu tướng, vô tướng phân biệt Bồ Tát thập địa cộng Tam thừa và pháp của Bồ Tát thập địa cộng Tam thừa v.v…
Như vậy, Bát nhã Ba la mật đã nói là pháp sâu xa khó thấy, khó biết, là siêu vượt, vi diệu, tịch tịnh, tối thắng đệ nhất, chỉ có bậc cực Thánh tự nội chứng, kẻ tri thức thế gian chẳng có thể suy lường; trong đó, thật không có kẻ có khả năng tín thọ. Vì sao? Vì trong đó, không có pháp có thể hiển thị, vì không có pháp có thể hiển thị nên kẻ thật tín thọ cũng chẳng thể nắm bắt được.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Ở trong giáo pháp thâm sâu của Bát nhã Ba la mật này, rộng nói giáo pháp ba thừa, đó là pháp của Thanh văn, Độc giác, Vô thượng thừa, rộng nói bao gồm Bồ Tát đạo. Đó là bố thí Ba la mật, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã; hoặc cái không nội, cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh; hoặc chơn như, pháp giới, pháp tánh, định pháp, trụ pháp, thật tế v.v…; hoặc tứ Thánh đế; hoặc tứ thiền, tứ vô lượng, tứ vô sắc định; 37 pháp trợ đạo; hoặc tam giải thoát môn; hoặc năm loại mắt, sáu phép thần thông; hoặc Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; hoặc Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; hoặc tất cả pháp môn Đà la ni, Tam ma địa; nghĩa là rộng nói là tất cả pháp Phật bao gồm các thắng sự công đức của đại Bồ Tát. Các đại Bồ Tát đối với Bát Nhã, siêng năng tu hành, cho nên tùy nơi sanh ra thường thọ hóa sanh, không mất thần thông, có thể dạo chơi tự tại, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Phật Thế Tôn, tùy theo sở nguyện, ưa gieo trồng thiện căn, mau được viên mãn, ở chỗ các đức Phật nghe và thọ trì chánh pháp cho đến chứng quả vị Giác ngộ tối cao, thường không quên mất cũng không biếng bỏ, thường trụ định thù thắng, xa lìa tâm tán loạn; do duyên này, nên được các biện tài vô ngại, biện tài không chấm dứt, biện tài không sai lầm, biện tài nhạy bén, biện tài thích ứng, biện tài có nghĩa lý phong phú ý vị khi diễn thuyết, biện tài thù thắng tối diệu đối với tất cả thế gian.
Thiện Hiện đáp: Đúng vậy! Đúng như lời Ngài nói, ở trong giáo pháp thậm thâm của Bát nhã Ba la mật này, rộng nói pháp ba thừa; rộng nói Bồ Tát đạo, đó là bố thí Ba la mật cho đến tất cả pháp môn Tam ma địa; nghĩa là rộng nói tất cả pháp Phật và các thắng sự công đức của đại Bồ Tát. Các đại Bồ Tát đối với Bát nhã Ba la mật, siêng năng tu hành, cho nên tùy nơi sanh ra thường hóa sanh cho đến đắc biện tài tối thắng vi diệu trong tất cả thế gian. Giáo pháp thậm thâm như vậy, hễ có nói thì phải lấy vô sở đắc làm phương tiện.
Xá Lợi Tử hỏi: Pháp này (Bát Nhã) đối với pháp nào, lấy vô sở đắc làm phương tiện?
Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Pháp này đối với ngã lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với hữu tình, dòng sinh mạng, sự sanh, sự dưỡng cho đến cái biết, cái thấy lấy vô sở đắc làm phương tiện.
Xá Lợi Tử! Pháp này đối với sắc, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với thọ, tưởng, hành, thức, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Pháp này đối với mười hai xứ, mười tám giới hay nói rộng pháp này đối với tất cả pháp Phật lấy vô sở đắc làm phương tiện.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Vì nhân duyên gì ở trong giáo pháp thậm thâm của Bát Nhã này, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói giáo pháp ba thừa? Vì nhân duyên gì ở trong giáo pháp thậm thâm của Bát Nhã này, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói bao gồm Bồ Tát đạo, đó là bố thí Ba la mật cho đến tất cả pháp môn Tam ma địa? Vì nhân duyên gì ở trong giáo pháp thậm thâm của Bát Nhã này, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói bao gồm tất cả pháp Phật và các thắng sự công đức của đại Bồ Tát? Các đại Bồ Tát đối với Bát nhã Ba la mật này, siêng năng tu hành, cho nên tùy nơi sanh ra, thường thọ hóa sanh cho đến được biện tài thù thắng tối diệu trong tất cả thế gian?
Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Do cái không nội nên ở trong giáo pháp thậm thâm của Bát nhã Ba la mật này, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói pháp ba thừa. Do cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cho đến cái không không tánh tự tánh, nên ở trong giáo pháp thậm thâm của Bát nhã Ba la mật này, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói pháp ba thừa.
Xá Lợi Tử! Do cái không nội cho đến cái không không tánh tự tánh nên ở trong giáo pháp thậm thâm của Bát nhã Ba la mật này, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói bao gồm Bồ Tát đạo từ bố thí Ba la mật, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã; hoặc chơn như, pháp giới, pháp tánh, định pháp, trụ pháp, thật tế v.v… cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; hoặc tứ Thánh đế, 12 nhân duyên; hoặc Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; hoặc Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; hoặc tất cả pháp môn Đà la ni, Tam ma địa.
Xá Lợi Tử! Do cái không nội cho đến cái không không tánh tự tánh, nên ở trong giáo pháp thậm thâm của Bát nhã Ba la mật này, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói bao gồm Bồ Tát đạo, rộng nói bao gồm tất cả pháp Phật và các thắng sự công đức của đại Bồ Tát. Các đại Bồ Tát đối với Bát nhã Ba la mật này, siêng năng tu hành, nên tùy nơi sanh ra, thường thọ hóa sanh cho đến được biện tài thù thắng tối diệu đối với tất cả thế gian.
(Nói cách khác, là do hiểu biết sâu xa 18 pháp không này, Bồ Tát siêng năng tu hành tất cả pháp Phật, lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên tùy nơi sanh thường hóa sanh, luôn luôn được biện tài thù thắng tối diệu đối với tất cả thế gian).
Lược giải:
Phẩm này đặc biệt nói về ý thức phân biệt và hậu quả của nó. Có phân biệt là có chia chẻ, phân hóa. Có chia chẻ phân hóa nên rơi vào nhị nguyên đối đãi: Không-bất không, hữu tướng-vô tướng, hữu nguyện -vô nguyện v.v… Pháp Phật là pháp môn bất nhị! Vì vậy, chỉ những bậc cực Thánh, những La Hán lậu tận, những vị thường gần gũi, phụng sự cung kính cúng dường vô số vô biên chư Phật, siêng năng tu học chánh pháp mới có thể nhập Bát Nhã Tánh không và nhờ đó vào được đệ nhất nghĩa đế, rồi sống với nó thấy tất cả pháp đều bình đẳng, không còn chấp đắm nữa mới sanh trí tuệ mà có Bát Nhã Trí, Vô Phân Biệt Trí, Vô Trước Trí.
Tu Bát nhã Ba la mật muốn đắc Bát Nhã Trí, Vô Phân Biệt Trí, Vô Trước Trí phải lìa phân biệt, vì phân biệt đưa tới chấp trước! Phân biệt không đáng trách. Đáng trách chính là chấp trước. Chấp trước đi liền với phân biệt. Ở đâu có phân biệt thì ở đó có chấp trước hay ngược lại.
Ai là người phân biệt giỏi nhất thế gian, phải nói là Phật. Nhưng tại sao Phật phân biệt giỏi nhất mà thành bậc Thiên nhân sư. Còn chúng sanh lúc nào cũng phân biệt mà vẫn bị trầm luân khổ ải nhiều kiếp. Bởi vì, Phật và Bồ Tát sống trong phân biệt nhưng không phân biệt, không dính mắc! Có dính mắc là có quái ngại. Sống trong phân biệt mà không biệt, không dính mắc mới thật là khó!
Phẩm này một lần nữa khuyên hành giả Bát Nhã: Muốn tín thọ được Bát nhã Ba la mật, muốn được tất cả biện tài thù thắng tối diệu đối với thế gian, muốn được bậc hóa sanh phải lấy vô sở đắc làm phương tiện, lấy vô chấp, vô thủ, vô trụ, vô phân biệt mà tịnh tu các thiện pháp.
Đó là lời khuyên, lời dặn dò của người dạy bảo trao truyền Bát nhã Ba la mật tạm gọi là Giáo thọ. Vì vậy, phẩm này mới có tên là Giáo thọ./.
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
Tập sách nhỏ “Du-già Tây Tạng, Giáo Lý và Tu Tập” này được dịch từ bản văn tiếng Anh có nhan đề là “Teachings of Tibetan Yoga” do Giáo sư Garma C. C. Chang – giảng sư của Tu viện Kong Ka ở miền Đông Tây Tạng khoảng trước năm 1950 – biên dịch từ Hoa ngữ, do nhà xuất bản Carol Publishing Group ấn hành năm 1993 tại New York, Hoa Kỳ.
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn và đã được in chung với bảng thuật ngữ tra cứu thành một Phụ lục đính kèm theo toàn bộ kinh, xuất bản trong năm 2009.
Tôi nghe như thế này: Một thuở nọ, đức Phật ngự tại thành Tỳ-da-ly, trong vườn cây Am-la với chúng đại tỳ-kheo là tám ngàn người, Bồ Tát là ba mươi hai ngàn vị mà ai ai cũng đều biết đến, đều đã thành tựu về đại trí và bổn hạnh. Oai thần mà chư Phật đã gầy dựng được, chư Bồ Tát ấy nương vào đó mà hộ vệ thành trì đạo pháp. Các ngài thọ lãnh giữ gìn Chánh pháp, có thể thuyết pháp hùng hồn như tiếng sư tử rống, danh tiếng các ngài bay khắp mười phương. Chẳng đợi sự thỉnh cầu giúp đỡ mà các ngài tự mang sự an ổn đến cho mọi người. Các ngài tiếp nối làm hưng thạnh Tam bảo, khiến cho lưu truyền chẳng dứt.
Tôi nghe như thế này:
Có một lúc đức Phật tại thành Vương Xá, núi Kỳ-xà-quật, cùng với sáu mươi hai ngàn vị đại tỳ-kheo. Các vị đều là những bậc A-la-hán đã dứt sạch lậu hoặc, không còn sinh khởi các phiền não, mọi việc đều được tự tại, tâm được giải thoát, trí huệ được giải thoát, như các bậc đại long tượng khéo điều phục. Các ngài đã làm xong mọi việc cần làm, buông bỏ được gánh nặng, tự thân đã được sự lợi ích, dứt hết mọi chấp hữu, đạt trí huệ chân chánh nên tâm được tự tại. Hết thảy các ngài đều đã được giải thoát, chỉ trừ ngài A-nan.
Trong pháp hội có bốn trăm bốn mươi vạn Bồ Tát, đứng đầu là Bồ Tát Di-lặc. Các vị đều đã đạt được các pháp nhẫn nhục, thiền định, đà-la-ni. Các ngài hiểu sâu ý nghĩa các pháp đều là không và hoàn toàn không có tướng nhất định. Các vị đại sĩ như thế đều là những bậc không còn thối chuyển trên đường tu tập.
Sách Liên Tông Bảo Giám nói rằng: “Tâm thể chính là cõi Cực Lạc trải khắp mười phương. Tự tánh là đức Di-đà tròn đầy trí giác. Mầu nhiệm ứng theo thanh sắc nơi ngoại cảnh, tỏa sáng nơi tự tâm. Bởi vậy, bỏ mê vọng liền về chân thật, thẳng lìa trần ai tức là giác ngộ.”
“Thuở trước ngài Pháp Tạng phát lời nguyện lớn, khai mở con đường nhiệm mầu sang Cực Lạc. Cho nên đức Thế Tôn mới chỉ về phương Tây mà dạy cho bà Vi-đề-hy biết rõ cõi diệu huyền. Khi ấy, mười phương chư Phật đều hiện tướng lưỡi rộng dài mà xưng tán. Nên báo trước rằng khi các kinh khác đều đã mất, sẽ chỉ riêng lưu lại bộ kinh A-di-đà.
Cuốn sách này được biên soạn chủ yếu dựa vào một cuốn sách bằng tiếng Tây Tạng có nhan đề là Bardo Thődol, trước đây được một vị Lạt-ma Tây Tạng là Kazi Dawa Samdup dịch sang tiếng Anh, nhan đề là The Tibetian Book of the Dead, với lời bình giải của Hòa thượng Chőgyam Trungpa. Sau đó đã có thêm bản tiếng Pháp của bà Marguerite La Fuente, dịch lại từ bản tiếng Anh. Chúng tôi đã sử dụng phần lớn bản dịch tiếng Việt của dịch giả Nguyên Châu, cũng được dịch từ bản tiếng Anh.
Tập sách này là phần tinh yếu của giáo pháp mật truyền thuộc Mật tông Tây Tạng, được Đại sư ORGYEN KUSUM LINGPA giảng giải thật chi tiết và rõ ràng. Sách đề cập đến các giai đoạn tu tập và chuẩn bị cho giai đoạn thân trung ấm (bardo), tức là giai đoạn quyết định sự tái sinh của mỗi chúng sinh.
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
Thật vậy tư tưởng của Ngài có thể biểu trưng cho toàn thể lòng từ bi và trí tuệ Phật Giáo trên một hành tinh mà con người dường như đã mất hết định hướng. Các sự xung đột không hề chấm dứt, con người bóc lột con người, giết hại muôn thú và tàn phá thiên nhiên. Phật giáo thường được coi như là một tín ngưỡng nhưng những lời khuyên của Đức Đạt-lai Lạt-ma trong quyển sách này vượt lên trên khuôn khổ hạn hẹp của một tôn giáo:
- "Mỗi khi phải đề cập đến các vấn đề tâm linh thì không nhất thiết là tôi buộc phải nói đến các vấn đề liên quan đến tôn giáo (câu 87).
Tập sách này trong nguyên ngữ Tây Tạng được biên soạn từ quyển Truyền thuyết về 84 vị Thánh tăng (Grub thob brgyad bcu tsa bzhi’i lo rgyus) do ngàiMondup Sherab ghi chép từ lời kể của ngài Abhayadatta Sri (thế kỷ 12th) và quyển Tâm chứng của 84 vị Thánh tăng (Grub thob brgyad bcu rtogs pa’i snying po rdo rje’i lu) của ngài Vira Prakash, đã được Keith Dowman và Bhaga Tulku Pema Tenzin dịch sang Anh ngữ. Phần giới thiệu và các chú giải, nhận xét là củaKeith Dowman, hình minh họa là của H. R. Downs. Sách đã được phát hành tại Hoa Kỳ vào năm 1985 (The State University of New York Press, Albany, NY., 1985) với độ dày 454 trang. Sách cũng đã từng được dịch sang tiếng Đức vào năm 1991 với nhan đề Die Meister der Mahamudra (Diederichs, Munchen, 1991).
Bản dịch Việt ngữ được giới thiệu lần này là của Nguyên Thạnh Lê Trung Hưng, được dịch từ bản tiếng Anh Masters of Mahamudra of the Eighty-four Buddhist Siddhas của Keith Dowman.
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.