Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

21. Phẩm "Tịnh Đạo" (Tổng Luận Kinh Đại Bát Nhã; Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu Diễn đọc: Phật tử Hoàng Lan Quảng Thiện Duyên Lồng nhạc: Jordan Lê Quảng Thiện Hùng)

06/06/202017:36(Xem: 10000)
21. Phẩm "Tịnh Đạo" (Tổng Luận Kinh Đại Bát Nhã; Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu Diễn đọc: Phật tử Hoàng Lan Quảng Thiện Duyên Lồng nhạc: Jordan Lê Quảng Thiện Hùng)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thin Bu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

25. phẩm tịnh đạo

PHẨM "TỊNH ĐẠO"

Phần sau quyển 75 cho đến hết quyển 76, Hội thứ I, ĐBN.

(Tương đương với phần sau của quyển thứ 08, phẩm “Vô Sanh”, MHBNBLMĐ)

 


 Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Phật tử Hoàng Lan Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Jordan Lê Quảng Thiện Hùng


 


 

Tóm lược:

 

Thiện Hiện bảo Xá Lợi Tử: Các đại Bồ Tát, khi tu hành sáu pháp Ba la mật thấy sắc tịnh; nên thọ, tưởng, hành, thức tịnh; thấy mười hai xứ tịnh, nên mười tám giới tịnh; thấy tứ Thánh đế cho đến ba mươi bảy pháp trợ đạo tịnh, nên tam giải thoát môn, năm loại mắt, sáu phép thần thông tịnh; thấy Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng tịnh, nên Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí tịnh; thấy Bồ Tát đạo tịnh, nên quả vị Giác ngộ tối cao tịnh.

Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Làm thế nào đại Bồ Tát tu hành sáu pháp Ba la mật mà Bồ Tát đạo được thanh tịnh?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử: Sáu phép Ba la mật, mỗi phép đều có hai thứ: Một là thế gian, hai là xuất thế gian.

Xá Lợi Tử hỏi: Thế nào là bố thí thế gian?

Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ Tát là đại thí chủ, thì luôn luôn bố thí cho tất cả Sa môn, Bà la môn, người nghèo, người bệnh, người cô độc, người lỡ đường, người hành khất: Cần ăn, cho ăn, cần uống cho uống, cần y phục cho y phục, cần chỗ ở cho chỗ ở, cần thuốc men cho thuốc men, và tùy theo nhu cầu sinh sống mà cho đầy đủ. Hoặc xin đầu mắt tay chân, hoặc xin các phần khác trong thân như máu thịt xương tủy… đều cho hết. Tuy làm việc bố thí như vậy nhưng đại thí chủ lại nghĩ nhờ bố thí mà được nhiều người ngợi khen, kiếp sau sẽ hưởng được nhiều phúc lợi. Đó là Bố thí chấp tướng, lấy sở đắc làm phương tiện. Vì bố thí còn nghĩ về mình, về người, về vật bố thí. Do chấp trước ba luân này, mà hành bố thí, nên gọi là thế gian bố thí.

Xá Lợi Tử hỏi: Thế nào là bố thí Ba la mật xuất thế gian?

Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ Tát, khi hành bố thí, ba luân thanh tịnh: Một là chẳng chấp ta là người cho, hai là chẳng chấp kẻ kia là người nhận, ba là chẳng chấp việc bố thí và kết quả bố thí, thì đó là đại Bồ Tát thực hành bố thí ba luân thanh tịnh.

Nếu đại Bồ Tát lấy đại bi làm đầu, đem phước bố thí đã tu ban cho khắp hữu tình, thì đối với các hữu tình hoàn toàn không sở đắc. Cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao, nhưng ở trong đó chẳng chấp tướng. Do hoàn toàn không chấp trước mà hành bố thí, nên gọi là bố thí Ba la mật xuất thế gian.

Xá Lợi Tử! Thế nào là tịnh giới thế gian?

Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ Tát thọ trì tịnh giới có chỗ nương, nghĩa là nghĩ thế này: Ta vì lợi ích của tất cả hữu tình mà thọ trì tịnh giới; ta theo lời Phật dạy đối với tịnh giới không có vi phạm..., ta là người thọ trì giới tịnh giới Ba la mật. Như vậy lấy hữu sở đắc làm phương tiện để trì giới. Vị ấy chấp trước ba luân mà thọ trì giới: Một là tưởng về mình, hai là tưởng về người, ba là tưởng về giới. Do chấp trước ba luân này, mà thọ trì giới, nên gọi là tịnh giới thế gian.

Xá Lợi Tử hỏi: Thế nào là tịnh giới Ba la mật xuất thế gian?

Thiện Hiện đáp: Đại Bồ Tát, khi thọ trì giới, ba luân thanh tịnh: Một là chẳng chấp ta năng trì giới, hai là chẳng chấp hữu tình được phòng hộ, ba là chẳng chấp giới và kết quả của giới, thì gọi là đại Bồ Tát khi thọ trì giới ba luân thanh tịnh. Bồ Tát lấy đại bi làm đầu, đem phước đã trì giới bố thí khắp hữu tình, đối với các hữu tình hoàn toàn không sở đắc. Tuy cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao, nhưng ở trong đó, chẳng thấy một chút tướng nào. Do hoàn toàn không chấp trước mà thọ trì giới cấm, nên gọi là tịnh giới Ba la mật xuất thế gian.

Xá Lợi Tử hỏi: Thế nào là an nhẫn thế gian?

Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ Tát, tuy tu an nhẫn, mà có chỗ nương, nghĩa là khởi lên ý nghĩ: Ta vì lợi ích của tất cả hữu tình mà tu an nhẫn; ta theo lời Phật dạy, đối với an nhẫn thù thắng, thường tu tập đúng đắn; ta tu hành an nhẫn Ba la mật, thì vị ấy khi tu hành an nhẫn, lấy hữu sở đắc làm phương tiện, cùng với các hữu tình đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao; lại khởi lên ý nghĩ thế này: Ta đem phước đức đã an nhẫn này bố thí cho các hữu tình, khiến đời này, đời khác được an vui cho đến chứng đắc Vô dư y Niết bàn. Vị ấy chấp trước ba luân mà tu hành an nhẫn: Một là tưởng về mình, hai là nghĩ về người, ba là nghĩ về nhẫn. Do chấp trước ba luân này, tu an nhẫn nên gọi là an nhẫn thế gian.

Xá Lợi Tử hỏi: Thế nào là an nhẫn Ba la mật xuất thế gian?

Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ Tát, khi tu hành an nhẫn, ba luân thanh tịnh: Một là chẳng chấp ta thường tu nhẫn, hai là chẳng chấp đối tượng nhẫn là hữu tình, ba là chẳng chấp trước nhẫn và kết quả của nhẫn, thì đó là đại Bồ Tát, khi tu hành an nhẫn, ba luân thanh tịnh. Đại Bồ Tát lấy đại bi làm đầu, đem phước đã tu hành an nhẫn bố thí khắp hữu tình, đối với các hữu tình hoàn toàn không sở đắc, tuy cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao, nhưng ở trong đó, chẳng thấy một chút tướng nào. Do hoàn toàn không chấp trước mà tu an nhẫn, nên gọi là an nhẫn Ba la mật xuất thế gian.

Xá Lợi Tử hỏi: Thế nào là tinh tấn thế gian?

Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ Tát, tuy dốc lòng tinh tấn, nhưng có chỗ nương, nghĩa là khởi lên ý nghĩ: Ta vì lợi ích tất cả hữu tình mà dốc lòng tinh tấn; ta theo lời Phật dạy, sách tấn thân tâm không hề giải đãi; ta hành tinh tấn Ba la mật, thì vị ấy khi hành tinh tấn, lấy hữu sở đắc mà làm phương tiện, cùng với các hữu tình hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao, lại khởi lên ý nghĩ: Ta đem phước đã tu tinh tấn này bố thí cho các hữu tình, khiến đời này, đời khác được an vui cho đến chứng đắc Vô dư y Niết bàn. Vị ấy chấp trước vào ba luân mà dốc lòng tinh tấn: Một là tưởng về mình, hai là nghĩ về người, ba là tưởng nghĩ về tinh tấn. Do chấp trước ba luân này mà tu tinh tấn, nên gọi là tinh tấn thế gian.

Xá Lợi Tử hỏi: Thế nào là tinh tấn Ba la mật xuất thế gian?

Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ Tát, khi dốc lòng tinh tấn, làm cho ba luân thanh tịnh: Một là chẳng chấp ta thường tinh tấn, hai là chẳng chấp vào cái vì hữu tình, ba là chẳng đắm vào sự tinh tấn và kết quả tinh tấn, thì đó là đại Bồ Tát dốc lòng tu tinh tấn, ba luân thanh tịnh. Đại Bồ Tát lấy đại bi làm đầu, đem phước tinh tấn đã tu bố thí khắp hữu tình, đối với các hữu tình hoàn toàn không sở đắc. Tuy cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao, nhưng ở trong đó, chẳng thấy có một chút tướng nào. Do hoàn toàn không chấp trước mà lại dốc lòng tinh tấn, nên gọi là tinh tấn Ba la mật xuất thế gian.

Xá Lợi Tử hỏi: Thế nào là tịnh lự thế gian?

Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ Tát, tuy tu tịnh lự, nhưng có chỗ nương, nghĩa là khởi lên ý nghĩ: Ta vì lợi ích tất cả hữu tình mà tu tịnh lự; ta theo lời Phật dạy, đối với các đẳng trì thù thắng luôn luôn tu tập đúng đắn; ta hành tịnh lự Ba la mật, thì vị ấy, khi tu định, lấy hữu sở đắc mà làm phương tiện, cùng với các hữu tình đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao; lại khởi lên ý nghĩ: Ta đem phước đã tu tịnh lự này bố thí cho các hữu tình, khiến đời này, đời sau được an vui cho đến chứng đắc Vô dư y Niết bàn. Vị ấy chấp trước ba luân mà tu tịnh lự: Một là tưởng về mình, hai là nghĩ về người, ba là tưởng nghĩ về tịnh lự. Do chấp trước ba luân này mà tu tịnh lự, nên gọi là tịnh lự thế gian.

Xá Lợi Tử hỏi: Thế nào là tịnh lự Ba la mật xuất thế gian?

Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ Tát, khi tu tịnh lự, ba luân thanh tịnh: Một là chẳng chấp ta thường tu định, hai là chẳng chấp vì hữu tình, ba là chẳng đắm vào tịnh lự và kết quả tịnh lự, thì đó là đại Bồ Tát, khi tu tịnh lự, ba luân thanh tịnh. Đại Bồ Tát lấy đại bi làm đầu, đem phước đã tu tịnh lự bố thí khắp hữu tình, đối với các hữu tình hoàn toàn không sở đắc. Tuy cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao, nhưng ở trong đó, chẳng thấy một chút tướng nào. Do hoàn toàn không chấp trước mà tu tịnh lự, nên gọi là tịnh lự Ba la mật xuất thế gian.

Xá Lợi Tử hỏi: Thế nào là Bát Nhã thế gian?

Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ Tát, khi tu hành Bát Nhã, mà có chỗ nương, nghĩa là khởi lên ý nghĩ: Ta vì lợi ích cho tất cả hữu tình mà tu Bát Nhã; tự xưng là từng tu Bát Nhã, lại cho tu Bát Nhã là thù thắng, thì vị ấy khi tu Bát nhã Ba la mật, lấy hữu sở đắc mà làm phương tiện, cùng với các hữu tình đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao; lại khởi lên ý nghĩ: Ta đem phước đã tu huệ này bố thí cho các hữu tình, khiến đời này, đời sau được an vui cho đến chứng đắc Vô dư y Niết bàn. Vị ấy chấp trước ba luân mà tu Bát Nhã: Một là tưởng về mình, hai là nghĩ về người, ba là tưởng nghĩ về Bát Nhã. Do chấp trước ba luân này, mà hành Bát Nhã nên gọi là tu Bát Nhã thế gian.

Xá Lợi Tử hỏi: Thế nào là Bát nhã Ba la mật xuất thế gian?

Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ Tát, khi tu hành Bát Nhã, ba luân thanh tịnh: Một là chẳng chấp ta thường tu tuệ, hai là chẳng chấp vì hữu tình, ba là chẳng đắm vào Bát Nhã và kết quả Bát Nhã, thì đó là đại Bồ Tát, khi tu hành Bát Nhã, ba luân thanh tịnh. Đại Bồ Tát lấy đại bi làm đầu, đem phước đã tu hành Bát Nhã bố thí khắp hữu tình, đối với các hữu tình hoàn toàn vô sở đắc. Tuy cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng về quả vị Giác ngộ tối cao, nhưng ở trong đó, chẳng thấy một chút tướng nào. Do hoàn toàn không chấp trước mà tu hành Bát Nhã, nên gọi là Bát nhã Ba la mật xuất thế gian.

Xá Lợi Tử! Như vậy là Bồ Tát khi tu hành 6 phép Ba la mật làm thanh tịnh đạo Bồ đề.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Những gì gọi là đạo Bồ đề của đại Bồ Tát?

Xá Lợi Tử! 18 pháp không là đạo Bồ đề của đại Bồ Tát; chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì gọi là đạo Bồ đề của đại Bồ Tát; tứ Thánh đế, 12 duyên khởi, lục Ba la mật gọi là đạo Bồ đề của đại Bồ Tát.

Bốn tịnh lự gọi là đạo Bồ đề của đại Bồ Tát; bốn vô lượng, bốn định vô sắc gọi là đạo Bồ đề của đại Bồ Tát. Tám giải thoát, 37 pháp trợ đạo, Tam giải thoát môn, năm loại mắt, sáu thần thông, Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng gọi là đạo Bồ đề của đại Bồ Tát. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, tất cả pháp môn Đà la ni, Tam ma địa gọi là đạo Bồ đề của đại Bồ Tát. Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí (nghĩa là tất cả pháp Phật)gọi là đạo Bồ đề của đại Bồ Tát.

Xá Lợi Tử! Vô lượng, vô biên các nhóm công đức lớn như vậy gọi là đạo Bồ đề của đại Bồ Tát.

Khi ấy, Xá Lợi Tử khen Thiện Hiện: Hay thay! Đúng như Ngài đã nói! Nhưng công đức như vậy là do thế lực Ba la mật nào mà đạt được?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Công đức như vậy đều do thế lực của Bát nhã Ba la mật mà đạt được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì Bát nhã Ba la mật luôn luôn là mẹ của tất cả thiện pháp. Tất cả thiện pháp của Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Như Lai đều từ đó xuất sanh.

Xá Lợi Tử! Bát nhã Ba la mật này có khả năng nhiếp thọ khắp tất cả thiện pháp. Thiện pháp của Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Như Lai đều nương nơi đây mà an trú. Chư Phật quá khứ tu hành Bát nhã Ba la mật, vì đạt đến chỗ viên mãn rốt ráo, nên đã chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sanh. Chư Phật hiện tại, vị lai tu hành Bát nhã Ba la mật, vì đạt đến viên mãn rốt ráo, nên sẽ chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sanh.

Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát nghe nói Bát nhã Ba la mật mà tâm không nghi hoặc, cũng chẳng mê muội, thì nên biết, đại Bồ Tát ấy trụ chỗ trụ như thị, chẳng lìa tác ý, nghĩa là muốn cứu hộ tất cả hữu tình, thường chẳng rời bỏ tác ý đại bi đối với tất cả hữu tình.

 

Xá Lợi Tử nói với Thiện Hiện: Nếu đại Bồ Tát trụ chỗ trụ như thị, chẳng lìa tác ý, thì tất cả hữu tình cũng phải trở thành đại Bồ Tát. Vì sao? Vì tất cả hữu tình cũng thường chẳng lìa tác ý này. Vì vậy, đại Bồ Tát cùng với tất cả hữu tình phải không sai khác?

Cụ thọ Thiện Hiện liền khen Xá Lợi Tử: Hay thay! Đúng như Ngài đã nói, Ngài có khả năng nắm bắt đúng như thật cái nghĩa mà tôi muốn nói. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì hữu tình phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì ngã, dòng sinh mạng, sự sanh, sự dưỡng, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, người do người sanh, ngã tối thắng, khả năng làm việc, tự thọ quả báo, cái biết, cái thấy phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì hũu tình không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì ngã cho đến cái thấy không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì hữu tình không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì ngã cho đến cái thấy không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì hữu tình là không, nên biết tác ý cũng không; vì ngã cho đến cái thấy là không, nên biết tác ý cũng là không. Vì hữu tình là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì ngã cho đến cái thấy là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì hữu tình là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì ngã cho đến cái thấy là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì hữu tình vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì ngã cho đến cái thấy vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới, không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới là không, nên biết tác ý cũng không. Vì ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Vì tứ thiền, tứ vô lượng, tứ vô sắc phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu, vì ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp Phật bất cộng phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Nói rộng ra, vì tất cả pháp Phật không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì tất cả pháp Phật không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì tất cả pháp Phật là không, nên biết tác ý cũng không; vì tất cả pháp Phật là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì tất cả pháp Phật là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì tất cả pháp Phật vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác v.v...

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, các đại Bồ Tát trụ chỗ trụ như thị(1), nên thường chẳng xả tác ý đại bi.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khen Thiện Hiện: Hay thay! Ông có khả năng khéo vì đại Bồ Tát mà tuyên thuyết Bát Nhã, đó là đều do sức oai thần của Như Lai. Các vị nào muốn vì đại Bồ Tát mà tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật thì đều nên như ông mà tuyên thuyết. Các đại Bồ Tát nào muốn học Bát nhã Ba la mật, thì đều nên theo điều ông nói mà học.

Khi cụ thọ Thiện Hiện vì các đại Bồ Tát thuyết Bát nhã Ba la mật ấy, thì ở trong tam thiên đại thiên thế giới chấn động sáu cách.

Lúc bấy giờ đức Như Lai liền mỉm cười.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch: Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Ngài mỉm cười?

Phật bảo Thiện Hiện! Như ta ở thế giới Kham Nhẫn tam thiên đại thiên này, vì các đại Bồ Tát mà tuyên thuyết Bát Nhã; nay chư Phật Thế Tôn ở vô lượng, vô số, vô biên thế giới trong mười phương cũng vì các đại Bồ Tát mà tuyên thuyết Bát Nhã. Như nay ở thế giới Kham Nhẫn tam thiên đại thiên này có mười hai ức các trời, người v.v…thảy nghe thuyết Bát Nhã đối trong các pháp, chứng đắc vô sanh nhẫn; nay ở vô lượng, vô số, vô biên thế giới trong mười phương, đều có vô lượng, vô số, vô biên hữu tình thảy nghe chư Phật ở cõi ấy thuyết Bát nhã Ba la mật, cũng phát tâm cầu chứng quả vị Giác ngộ tối cao.

 

Thích nghĩa:

(1). Như thị có ba nghĩa như sau: 1- Như Thị: Như vầy (như thị ngã văn). Chỉ cho Tín thành tựu trong 6 thành tựu. Thông thường từ ngữ này được đặt ở đầu mỗi bộ kinh, là để biểu thị niềm tin sâu xa rằng những điều ghi chép trong Kinh này đều là giáo pháp do chính đức Phật nói ra. (xt. Lục Thành Tựu). 2- Như Thị: Như thế. Từ ngữ biểu thị thực tướng các pháp. (xt. Thập Như Thị). 3- Như Thị: Đúng vậy! Đúng vậy! Đây là lời công nhận và tán thành những điều mà một người nào đó hiểu biết và trình bày. (Từ điển Phật Quang)

 

Lược giải:

 

Thế nào là tu theo thế gian? Tu mà trông cậy, nương chấp, lấy chứng lấy đắc làm phương tiện, mong mỏi đời này đời sau được nhiều phúc lợi, được Niết bàn. Tu như vậy là thủ tâm chấp tướng: Chấp mình, chấp người, chấp pháp tức tu có sở đắc nên nói tam luân không được thanh tịnh. Vì vậy, mới gọi là tu theo thế gian, nghĩa là tu để được hưởng các phúc lợi thế gian.

Thế nào là tu xuất thế gian? Tức tu không mong cầu nắm bắt, không thủ tâm chấp tương, không năng sở... Lấy đại bi làm đầu lấy vô sở hữu, bất khả đắc làm phương tiện cùng hữu tình đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao, nhưng ở trong đó, chẳng thấy tướng. Do công năng vô chấp mà tam luân thanh tịnh. Nên nói là tu xuất thế gian.

Tu pháp nào còn gọi là tu pháp xuất thế gian? Tu tất cả các thiện pháp, các pháp mầu Phật đạo, còn gọi là tư lương Bồ đề Bồ Tát hay Bồ Tát đạo... hay nói chung là tu tất cả pháp mầu Phật đạo được coi là các pháp tu xuất thế gian. Tu các pháp này thì có thể thành thục hữu tình, thanh tịnh Phật độ. Vì tu các pháp này sẽ đưa đến bản lai tự tánh thanh tịnh tức Niết bàn(1). Nên Phật đạo được xem là “Tịnh Đạo” hay Thanh-Tịnh-Đạo. Đó là ý nghĩa của phẩm này.

Thích nghĩa cho phần lược giải này:

(1). Niết Bàn: Từ này đã được giải thích rồi. Tuy nhiên, chúng tôi ghi thêm thích nghĩa chi tiết của Phật Quang tự điển để quý vị hiểu rõ tường tận hơn: (涅槃) Phạm: Nirvàịa. Pàli: Nibbàna. Cũng gọi: Nê hoàn, Nê viết, Niết bàn na, Niết lệ bàn na, Nê phạ nam, Nặc phạ nam. Hán dịch: Diệt, Tịnh diệt, Diệt độ, Tịch, Vô sinh. Đồng nghĩa: Trạch diệt, Li hệ, Giải thoát. Hoặc gọi là Bát Niết bàn (Bát, dịch âm của tiếng Phạm Pari, nghĩa là hoàn toàn, dịch ý là Viên tịch), Đại Bát Niết bàn (Đại nghĩa là thù thắng, cũng gọi Đại viên tịch). Niết bàn nguyên nghĩa chỉ cho sự thổi tắt, hoặc biểu thị trạng thái thổi tắt, về sau được chuyển dụng để chỉ lửa phiền não thiêu đốt đã bị dập tắt, là cảnh giới hoàn toàn giác ngộ. Cảnh giới này vượt ngoài sinh tử (cõi mê), cũng là mục đích thực tiễn cuối cùng của Phật giáo, cho nên được xếp vào 1 trong những pháp ấn, gọi là Niết bàn tịch tĩnh. Về Niết bàn, Đại thừa và Tiểu thừa giải thích có khác nhau: 1. Theo Tiểu thừa (Phật giáo bộ phái): Niết bàn là trạng thái diệt hết phiền não. Trong đó lại chia ra Hữu dư y Niết bàn (gọi tắt: Hữu dư Niết bàn) và Vô dư y Niết bàn (gọi tắt: Vô dư Niết bàn). Hữu dư y Niết bàn nghĩa là phiền não tuy đã bị diệt hết, nhưng nhục thể (tức y thân) tàn dư còn lại; Vô dư y Niết bàn nghĩa là phiền não đã hết mà y thân cũng không còn, tức là trạng thái khôi thân diệt trí. Hữu bộ chủ trương Niết bàn là 1 thực thể tồn tại, nhưng Kinh lượng bộ thì cho rằng Niết bàn chỉ là giả danh của cái trạng thái đã diệt hết phiền não, chứ tự nó không có thực thể. 2. Theo Đại thừa: - Trung luận chủ trương Thực tướng là Niết bàn, Thực tướng cũng tức là tính không, là pháp do nhân duyên sinh ra, bởi thế Niết bàn và sinh tử thế gian không có sai khác. - Kinh Niết bàn quyển 3 (bản Nam) cho rằng Niết bàn có 8 vị: Thường, hằng, an, thanh tịnh, bất lão, bất tử, vô cấu và khoái lạc. Nếu đem 8 vị này phối với 4 đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của Niết bàn thì thường và hằng là Thường, an và khoái lạc là Lạc, bất lão và bất tử là Ngã, thanh tịnh và vô cấu là Tịnh. - Tông Duy thức chủ trương Niết bàn có 4 loại: Bản lai tự tính thanh tịnh Niết bàn, Hữu dư y Niết bàn, Vô dư y Niết bàn và Vô trụ xứ Niết bàn. Trong đó, Bản lai tự tính thanh tịnh Niết bàn (gọi tắt: Bản lai thanh tịnh Niết bàn, Tính tịnh Niết bàn) là chỉ cho Chân như, nghĩa là tướng của hết thảy sự vật xưa nay vốn là lí thể của Chân như vắng lặng. Vô trụ xứ Niết bàn là nương vào trí tuệ mà xa lìa phiền não chướng và sở tri chướng, không bị vướng mắc trong cõi mê sinh tử. Lại vì lòng đại bi nên hoạt động trong cõi mê để cứu giúp chúng sinh mà không bị kẹt nơi cảnh giới Niết bàn. Đây là 1 đặc sắc về Niết bàn của Phật giáo Đại thừa. - Tông Địa luận và tông Nhiếp luận chia Niết bàn làm 2 loại là: Tịnh tính Niết bàn và Phương tiện tịnh Niết bàn. - Tông Thiên thai thì chia Niết bàn làm 3 loại là: Tịnh tính Niết bàn, Viên tịnh Niết bàn và Phương tiện tịnh Niết bàn (cũng gọi Ứng hóa Niết bàn – đức Phật vì cứu độ chúng sinh nên thị hiện thân giả huyễn, khi nhân duyên độ sinh đã hết thì vào Niết bàn). - Tông Tịnh độ gọi thế giới Cực lạc của đức Phật A di đà là thành Niết bàn, cũng gọi là Vô vi Niết bàn giới. - Hàng Thanh văn, Duyên giác vào Vô dư Niết bàn, sau đó lại hồi tâm chuyển hướng Đại thừa giáo, gọi là Vô dư hoàn sinh. Đồng thời, Niết bàn là xa lìa tướng trạng sai biệt của hết thảy các pháp, nên cũng gọi là Li tướng.

 

Cũng nên lưu ý tất cả thích nghĩa được ghi trong Tổng luận này rất cần thiết và hữu ích trong việc hiểu biết tu tập. Nên Quý vị cố gắng đọc tụng. Xin đứng bỏ qua./.

 

---o0o---

 

 


 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/12/2014(Xem: 16249)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
24/11/2014(Xem: 17916)
Tập sách nhỏ “Du-già Tây Tạng, Giáo Lý và Tu Tập” này được dịch từ bản văn tiếng Anh có nhan đề là “Teachings of Tibetan Yoga” do Giáo sư Garma C. C. Chang – giảng sư của Tu viện Kong Ka ở miền Đông Tây Tạng khoảng trước năm 1950 – biên dịch từ Hoa ngữ, do nhà xuất bản Carol Publishing Group ấn hành năm 1993 tại New York, Hoa Kỳ.
18/08/2014(Xem: 26031)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn và đã được in chung với bảng thuật ngữ tra cứu thành một Phụ lục đính kèm theo toàn bộ kinh, xuất bản trong năm 2009.
18/08/2014(Xem: 23090)
Tôi nghe như thế này: Một thuở nọ, đức Phật ngự tại thành Tỳ-da-ly, trong vườn cây Am-la với chúng đại tỳ-kheo là tám ngàn người, Bồ Tát là ba mươi hai ngàn vị mà ai ai cũng đều biết đến, đều đã thành tựu về đại trí và bổn hạnh. Oai thần mà chư Phật đã gầy dựng được, chư Bồ Tát ấy nương vào đó mà hộ vệ thành trì đạo pháp. Các ngài thọ lãnh giữ gìn Chánh pháp, có thể thuyết pháp hùng hồn như tiếng sư tử rống, danh tiếng các ngài bay khắp mười phương. Chẳng đợi sự thỉnh cầu giúp đỡ mà các ngài tự mang sự an ổn đến cho mọi người. Các ngài tiếp nối làm hưng thạnh Tam bảo, khiến cho lưu truyền chẳng dứt.
18/08/2014(Xem: 27020)
Tôi nghe như thế này: Có một lúc đức Phật tại thành Vương Xá, núi Kỳ-xà-quật, cùng với sáu mươi hai ngàn vị đại tỳ-kheo. Các vị đều là những bậc A-la-hán đã dứt sạch lậu hoặc, không còn sinh khởi các phiền não, mọi việc đều được tự tại, tâm được giải thoát, trí huệ được giải thoát, như các bậc đại long tượng khéo điều phục. Các ngài đã làm xong mọi việc cần làm, buông bỏ được gánh nặng, tự thân đã được sự lợi ích, dứt hết mọi chấp hữu, đạt trí huệ chân chánh nên tâm được tự tại. Hết thảy các ngài đều đã được giải thoát, chỉ trừ ngài A-nan. Trong pháp hội có bốn trăm bốn mươi vạn Bồ Tát, đứng đầu là Bồ Tát Di-lặc. Các vị đều đã đạt được các pháp nhẫn nhục, thiền định, đà-la-ni. Các ngài hiểu sâu ý nghĩa các pháp đều là không và hoàn toàn không có tướng nhất định. Các vị đại sĩ như thế đều là những bậc không còn thối chuyển trên đường tu tập.
18/08/2014(Xem: 18567)
Sách Liên Tông Bảo Giám nói rằng: “Tâm thể chính là cõi Cực Lạc trải khắp mười phương. Tự tánh là đức Di-đà tròn đầy trí giác. Mầu nhiệm ứng theo thanh sắc nơi ngoại cảnh, tỏa sáng nơi tự tâm. Bởi vậy, bỏ mê vọng liền về chân thật, thẳng lìa trần ai tức là giác ngộ.” “Thuở trước ngài Pháp Tạng phát lời nguyện lớn, khai mở con đường nhiệm mầu sang Cực Lạc. Cho nên đức Thế Tôn mới chỉ về phương Tây mà dạy cho bà Vi-đề-hy biết rõ cõi diệu huyền. Khi ấy, mười phương chư Phật đều hiện tướng lưỡi rộng dài mà xưng tán. Nên báo trước rằng khi các kinh khác đều đã mất, sẽ chỉ riêng lưu lại bộ kinh A-di-đà.
18/08/2014(Xem: 20361)
Cuốn sách này được biên soạn chủ yếu dựa vào một cuốn sách bằng tiếng Tây Tạng có nhan đề là Bardo Thődol, trước đây được một vị Lạt-ma Tây Tạng là Kazi Dawa Samdup dịch sang tiếng Anh, nhan đề là The Tibetian Book of the Dead, với lời bình giải của Hòa thượng Chőgyam Trungpa. Sau đó đã có thêm bản tiếng Pháp của bà Marguerite La Fuente, dịch lại từ bản tiếng Anh. Chúng tôi đã sử dụng phần lớn bản dịch tiếng Việt của dịch giả Nguyên Châu, cũng được dịch từ bản tiếng Anh.
18/08/2014(Xem: 17427)
Tập sách này là phần tinh yếu của giáo pháp mật truyền thuộc Mật tông Tây Tạng, được Đại sư ORGYEN KUSUM LINGPA giảng giải thật chi tiết và rõ ràng. Sách đề cập đến các giai đoạn tu tập và chuẩn bị cho giai đoạn thân trung ấm (bardo), tức là giai đoạn quyết định sự tái sinh của mỗi chúng sinh.
18/08/2014(Xem: 58372)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay. Thật vậy tư tưởng của Ngài có thể biểu trưng cho toàn thể lòng từ bi và trí tuệ Phật Giáo trên một hành tinh mà con người dường như đã mất hết định hướng. Các sự xung đột không hề chấm dứt, con người bóc lột con người, giết hại muôn thú và tàn phá thiên nhiên. Phật giáo thường được coi như là một tín ngưỡng nhưng những lời khuyên của Đức Đạt-lai Lạt-ma trong quyển sách này vượt lên trên khuôn khổ hạn hẹp của một tôn giáo: - "Mỗi khi phải đề cập đến các vấn đề tâm linh thì không nhất thiết là tôi buộc phải nói đến các vấn đề liên quan đến tôn giáo (câu 87).
17/08/2014(Xem: 21529)
Tập sách này trong nguyên ngữ Tây Tạng được biên soạn từ quyển Truyền thuyết về 84 vị Thánh tăng (Grub thob brgyad bcu tsa bzhi’i lo rgyus) do ngàiMondup Sherab ghi chép từ lời kể của ngài Abhayadatta Sri (thế kỷ 12th) và quyển Tâm chứng của 84 vị Thánh tăng (Grub thob brgyad bcu rtogs pa’i snying po rdo rje’i lu) của ngài Vira Prakash, đã được Keith Dowman và Bhaga Tulku Pema Tenzin dịch sang Anh ngữ. Phần giới thiệu và các chú giải, nhận xét là củaKeith Dowman, hình minh họa là của H. R. Downs. Sách đã được phát hành tại Hoa Kỳ vào năm 1985 (The State University of New York Press, Albany, NY., 1985) với độ dày 454 trang. Sách cũng đã từng được dịch sang tiếng Đức vào năm 1991 với nhan đề Die Meister der Mahamudra (Diederichs, Munchen, 1991). Bản dịch Việt ngữ được giới thiệu lần này là của Nguyên Thạnh Lê Trung Hưng, được dịch từ bản tiếng Anh Masters of Mahamudra of the Eighty-four Buddhist Siddhas của Keith Dowman.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]