Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

12. Phẩm "Tán Thán Công Đức"

05/10/202013:27(Xem: 9254)
12. Phẩm "Tán Thán Công Đức"

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-451

 

PHẨM "TÁN THÁN CÔNG ĐỨC"

Phần sau quyển 507, tập 21, Hội thứ III, ĐBN.

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

Tóm lược:

 

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… đối với Kinh điển Bát Nhã thẳm sâu mà chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý, biên chép, giảng giải tuyên thuyết, lưu truyền rộng rãi, thì các thiện nam, thiện nữ v.v… này các căn không bệnh, thân thể đầy đủ, không bị già yếu, cũng không bị chết oan, thường được vô lượng trăm ngàn thiên thần cung kính hộ trì các thiện nam, thiện nữ v.v… này. Đối với những ngày mùng tám, mười bốn, mười lăm trong nửa tháng có trăng, và nửa tháng không trăng mà đọc tụng, tuyên thuyết Bát Nhã thẳm sâu, thì khi đó, trời Tứ đại thiên vương cho đến trời Sắc cứu cánh đều đến vân tập ở chỗ Pháp sư này để lắng nghe, thọ trì pháp nghĩa Bát nhã Ba la mật.

Do nhân duyên này, các thiện nam, thiện nữ v.v… này liền được vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì công đức hi hữu.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói! Vì sao? Vì Bát Nhã thẳm sâu là đại bảo tạng, nên có vô lượng, vô số, vô biên hữu tình (tu học Bát Nhã mà) giải thoát khỏi địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ và các khổ nghèo nàn bệnh hoạn trong cõi trời, người. Cũng có thể đem sự phú quí an lạc cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình đại tộc Sát đế lợi cho đến đại tộc Cư sĩ. Cũng đem sự phú quí an lạc cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình trời Tứ đại thiên vương cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Cũng đem sự tự tại an lạc cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình đắc quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, Vô thượng Bồ đề. Vì sao? Vì trong đại bảo tạng của Bát Nhã thẳm sâu, thuyết rộng, khai thị mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, như vậy cho đến Nhất thiết tướng trí. Vô lượng, vô số, vô biên hữu tình tu học trong đó, nên được sanh vào các cõi thượng diêu như trên, nghĩa là được sanh vào đại tộc Sát đế cho đến chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Do nhân duyên này nên Bát Nhã thẳm sâu được gọi là đại bảo tạng. Công đức trân bảo ở thế gian và xuất thế gian đều y vào đây mà xuất hiện.

Thiện Hiện nên biết! Trong đại bảo tạng Bát Nhã thẳm sâu không có một chút pháp gì thuyết có sanh, có diệt, có nhiễm, có tịnh, có lấy, có bỏ. Vì sao? Vì trong đây không có pháp có thể sanh, có thể diệt, có thể nhiễm, có thể tịnh, có thể lấy, có thể bỏ.

Hơn nữa, trong đại bảo tạng Bát Nhã thẳm sâu không có pháp là thiện, là chẳng thiện, là hữu lậu, là vô lậu, là hữu tội, là vô tội, là tạp nhiễm, là thanh tịnh, là thế gian, là xuất thế gian, là hữu vi, là vô vi. Do nhân duyên này nên Bát Nhã thẳm sâu gọi là đại pháp bảo tạng vô sở đắc.

Trong đại bảo tạng Bát Nhã thẳm sâu không có một chút pháp gì thuyết là năng nhiễm ô, năng thanh tịnh. Vì sao? Vì trong đây không có pháp nào năng nhiễm ô, thanh tịnh. Do nhân duyên này nên Bát Nhã thẳm sâu gọi là đại pháp bảo tạng vô nhiễm tịnh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu khi đại Bồ Tát nào hành Bát Nhã thẳm sâu không tưởng như vậy, phân biệt như vậy, có đắc như vậy, hý luận như vậy, thì có thể thân cận, phụng sự chư Phật. Du hành từ cõi Phật này đến cõi Phật khác cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Phật Thế Tôn, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, tu các Bồ Tát hạnh, mau chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu đối với tất cả pháp không phải, không trái, không dẫn, không khiến, không lấy, không bỏ, không sanh, không diệt, không cấu, không tịnh, không tăng, không giảm. Bát Nhã thẳm sâu chẳng quá khứ, chẳng vị lai, chẳng hiện tại, không vượt Dục giới, không trụ Dục giới, không vượt Sắc giới, không trụ Sắc giới, không vượt Vô sắc giới, không trụ Vô sắc giới. Đối với bố thí Ba la mật không cho, không bỏ, cho đến đối với Nhất thiết tướng trí không cho, không bỏ. Đối với quả Dự lưu không cho, không bỏ, cho đến đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không cho, không bỏ. Không cho các Thánh pháp, không bỏ pháp dị sanh; không cho các Phật pháp, không bỏ pháp Nhị thừa; không cho cảnh giới vô vi, không bỏ cảnh giới hữu vi. Vì sao? Vì Như Lai xuất hiện ở đời hoặc không xuất hiện ở đời, các pháp vẫn như vậy thường không biến đổi, an trụ nơi pháp giới. Tất cả Như Lai hiện giác, hiện quán. Đã tự hiện giác, tự hiện quán rồi, thì vì các hữu tình tuyên thuyết, khai thị, phân biệt rõ ràng, làm cho tất cả cùng giác ngộ, xa lìa các vọng tưởng phân biệt điên đảo.

Lúc bấy giờ, vô lượng trăm ngàn Thiên tử ở trên hư không đều vui mừng hớn hở, cầm hoa sen xanh, hoa sen trắng, hoa sen đỏ, hoa sen vàng, hương thơm nhiệm mầu và các hương bột rải lên đức Phật, ai ai cũng hân hoan giống nhau, đồng thanh bạch Phật:

- Hiện nay, chúng con ở châu Thiệm bộ, thấy Phật chuyển pháp luân lần thứ hai. Trong pháp hội ấy có vô lượng trăm ngàn Thiên tử, nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đều đồng chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn.

Khi ấy, Thế Tôn bảo Thiện Hiện:

- Pháp luân như vậy, chẳng phải chuyển lần thứ nhất, cũng chẳng phải chuyển lần thứ hai. Vì sao? Vì Bát Nhã thẳm sâu đối với tất cả pháp, không vì lưu chuyển, không vì hoàn diệt mà chỉ vì pháp vô tánh tự tánh Không nên xuất hiện ở thế gian.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Sao lại vì pháp vô tánh tự tánh Không mà Bát Nhã thẳm sâu đối với tất cả pháp không vì lưu chuyển, không vì hoàn diệt nên xuất hiện ở thế gian?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu cho đến bố thí Ba la mật, là tự tánh Không của Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Cho đến Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, là tự tánh Không của Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Quả Dự lưu, tự tánh Không của quả Dự lưu... cho đến vì quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, là tự tánh Không của quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện phải biết: Vì vô tánh tự tánh các pháp như thế đều không, nên Bát Nhã thẳm sâu đối tất cả pháp chẳng vì lưu chuyển, chẳng vì hoàn diệt mà xuất hiện thế gian.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bát Nhã thẳm sâu là đại Ba la mật, vì thấu biết tất cả pháp tự tánh không, nên mặc dù thấu biết các pháp tự tánh đều không mà các đại Bồ Tát vẫn nương Bát nhã Ba la mật đây chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển xe diệu pháp độ chúng hữu tình. Tuy chứng Bồ đề mà không sở chứng, vì pháp chứng chẳng chứng bất khả đắc vậy. Mặc dù độ hữu tình mà không sở độ, vì pháp thấy chẳng thấy bất khả đắc vậy.

Bạch Thế Tôn! Trong Đại Bát Nhã Ba La Mật đây, việc chuyển pháp luân trọn bất khả đắc, vì tất cả pháp hẳn chẳng sanh vậy, vì năng chuyển sở chuyển đều bất khả đắc. Vì sao? Vì chẳng phải trong pháp không, vô tướng, vô nguyện khá có pháp năng chuyển và năng hoàn, vì tánh pháp chuyển hoàn bất khả đắc vậy.

Bạch Thế Tôn! Đối với Bát Nhã thẳm sâu, nếu tuyên thuyết khai thị, phân biệt rõ ràng như vậy, làm cho người khác ngộ nhập dễ dàng thì đấy gọi là khéo tịnh tuyên Bát nhã Ba la mật. Trong đây hoàn toàn không có người thuyết, người thọ trì, pháp để thuyết và thọ. Đã không người thuyết, người thọ và pháp thuyết, người chứng cũng bất khả đắc; không người chứng nên cũng không có người đắc Niết bàn.

Đối với Bát nhã Ba la mật này, khéo thuyết pháp thì cũng không có phước điền, vì người thí, người nhận và vật thí đều là tánh Không. Phước điền không, nên phước đức cũng không. Biểu tướng, danh ngôn đều bất khả đắc. Vì thế nên gọi là đại Ba la mật.

 

(Đoạn Kinh sau đây tương đương phẩm “Bất Khả Đắc”,

thuộc phần sau quyển 437, Hội thứ II, ĐBN)

 

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là vô biên Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Như vậy, như thái hư không không ngằn mé vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là bình đẳng Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp tánh bình đẳng vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là viễn ly Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì rốt ráo không vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là khó khuất phục Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp bất khả đắc vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là không dấu chân Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp không danh thể vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là hư không Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì thở vào thở ra bất khả đắc vậy. 

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là bất khả thuyết Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì trong đây không tầm cũng không tứ.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là vô danh Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì thọ tưởng tư xúc và tác ý v.v… bất khả đắc.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là vô hành Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp không đến và đi.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là chẳng khả đoạn Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp chẳng thể phục.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là cùng tận Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp rốt ráo tận vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là vô sanh, vô diệt Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp không sanh diệt.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là vô tác Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì các tác giả bất khả đắc.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là vô tri Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì các tri giả bất khả đắc vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là không dời động Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì kẻ tử sanh bất khả đắc vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là không điều phục Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp có thể điều phục, tánh bất khả đắc.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là như mộng, như tiếng vang, như hình tượng, như huyễn hóa, như ảnh trong gương, như sóng nắng, như thành Tầm hương, như việc biến hóa Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp như mộng đã thấy, nói rộng cho đến như việc biến hóa bất khả đắc vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là không nhiễm không tịnh Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì nhân nhiễm tịnh bất khả đắc vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật thẳm sâu là không bôi nhơ Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì pháp chỗ nương kia bất khả đắc vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là không hý luận Ba la mật?

- Thiện Hiện! Như vậy, các việc hý luận dứt trừ hẳn vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là không khinh chấp Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì diệt trừ tất cả việc khinh chấp vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là không động chuyển Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì an trụ pháp giới vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là xa lìa nhiễm trước Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì ngộ tất cả pháp chẳng hư vọng.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là không đẳng khởi Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì đối tất cả pháp không phân biệt vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là tịch tĩnh Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì vô sở đắc đối với các pháp tướng.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là không tham, sân, si Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì dứt trừ tất cả ba độc vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là không phiền não Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì lìa sự phân biệt.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là lìa hữu tình Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì đạt biết hữu tình vô sở hữu.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là không đoạn hoại Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì đây năng đẳng khởi tất cả pháp vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là không nhị biên Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì xa lìa nhị biên.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là không tạp hoại Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp không tạp hoại.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là không chấp trước Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì vượt qua địa vị Thanh văn, Độc giác.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là không phân biệt Ba la mật? 

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả sự phân biệt, bất khả đắc.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là không phân hạn Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì sự phân hạn các pháp bất khả đắc.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là như hư không Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì đối với tất cả pháp không trở ngại.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là vô thường, khổ, vô ngã Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì đối tất cả pháp diệt hoại bức bách không chấp đắm vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là không, vô tướng, vô nguyện Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì các pháp đạt được hoàn toàn vô sở hữu, xa lìa các tướng không thể nguyện.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là pháp nội không cho đến pháp vô tánh tự tánh không Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì pháp chỗ biết Không, bất khả đắc.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì biết thân, thọ, tâm, pháp đều bất khả đắc, rộng nói cho đến vượt các pháp Thanh văn, Độc giác.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là Như Lai Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Có thể như thật thuyết tất cả pháp.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là tự nhiên Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì đối tất cả pháp tự tại chuyển vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là Chánh đẳng giác Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì đối tất cả pháp năng chánh đẳng giác tất cả tướng vậy.

 

Sơ giải:

 

Chỗ nào Hội nào Kinh cũng tán thán công đức, ai đọc cũng có thể, vì là do công năng oai thần và các diệu dụng không thể nghĩ bàn của các Ba la mật mà ra. Học Bát Nhã phải ghi khắc vào xương tủy các Ba la mật này. Chính nhờ nó mà chư Như Lai hiện đẳng giác. Chúng sanh nhờ nó mà có thể qua bờ kia!

 

---o0o---

 

 


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/12/2014(Xem: 16354)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
24/11/2014(Xem: 18002)
Tập sách nhỏ “Du-già Tây Tạng, Giáo Lý và Tu Tập” này được dịch từ bản văn tiếng Anh có nhan đề là “Teachings of Tibetan Yoga” do Giáo sư Garma C. C. Chang – giảng sư của Tu viện Kong Ka ở miền Đông Tây Tạng khoảng trước năm 1950 – biên dịch từ Hoa ngữ, do nhà xuất bản Carol Publishing Group ấn hành năm 1993 tại New York, Hoa Kỳ.
18/08/2014(Xem: 26397)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn và đã được in chung với bảng thuật ngữ tra cứu thành một Phụ lục đính kèm theo toàn bộ kinh, xuất bản trong năm 2009.
18/08/2014(Xem: 23365)
Tôi nghe như thế này: Một thuở nọ, đức Phật ngự tại thành Tỳ-da-ly, trong vườn cây Am-la với chúng đại tỳ-kheo là tám ngàn người, Bồ Tát là ba mươi hai ngàn vị mà ai ai cũng đều biết đến, đều đã thành tựu về đại trí và bổn hạnh. Oai thần mà chư Phật đã gầy dựng được, chư Bồ Tát ấy nương vào đó mà hộ vệ thành trì đạo pháp. Các ngài thọ lãnh giữ gìn Chánh pháp, có thể thuyết pháp hùng hồn như tiếng sư tử rống, danh tiếng các ngài bay khắp mười phương. Chẳng đợi sự thỉnh cầu giúp đỡ mà các ngài tự mang sự an ổn đến cho mọi người. Các ngài tiếp nối làm hưng thạnh Tam bảo, khiến cho lưu truyền chẳng dứt.
18/08/2014(Xem: 27327)
Tôi nghe như thế này: Có một lúc đức Phật tại thành Vương Xá, núi Kỳ-xà-quật, cùng với sáu mươi hai ngàn vị đại tỳ-kheo. Các vị đều là những bậc A-la-hán đã dứt sạch lậu hoặc, không còn sinh khởi các phiền não, mọi việc đều được tự tại, tâm được giải thoát, trí huệ được giải thoát, như các bậc đại long tượng khéo điều phục. Các ngài đã làm xong mọi việc cần làm, buông bỏ được gánh nặng, tự thân đã được sự lợi ích, dứt hết mọi chấp hữu, đạt trí huệ chân chánh nên tâm được tự tại. Hết thảy các ngài đều đã được giải thoát, chỉ trừ ngài A-nan. Trong pháp hội có bốn trăm bốn mươi vạn Bồ Tát, đứng đầu là Bồ Tát Di-lặc. Các vị đều đã đạt được các pháp nhẫn nhục, thiền định, đà-la-ni. Các ngài hiểu sâu ý nghĩa các pháp đều là không và hoàn toàn không có tướng nhất định. Các vị đại sĩ như thế đều là những bậc không còn thối chuyển trên đường tu tập.
18/08/2014(Xem: 18764)
Sách Liên Tông Bảo Giám nói rằng: “Tâm thể chính là cõi Cực Lạc trải khắp mười phương. Tự tánh là đức Di-đà tròn đầy trí giác. Mầu nhiệm ứng theo thanh sắc nơi ngoại cảnh, tỏa sáng nơi tự tâm. Bởi vậy, bỏ mê vọng liền về chân thật, thẳng lìa trần ai tức là giác ngộ.” “Thuở trước ngài Pháp Tạng phát lời nguyện lớn, khai mở con đường nhiệm mầu sang Cực Lạc. Cho nên đức Thế Tôn mới chỉ về phương Tây mà dạy cho bà Vi-đề-hy biết rõ cõi diệu huyền. Khi ấy, mười phương chư Phật đều hiện tướng lưỡi rộng dài mà xưng tán. Nên báo trước rằng khi các kinh khác đều đã mất, sẽ chỉ riêng lưu lại bộ kinh A-di-đà.
18/08/2014(Xem: 20571)
Cuốn sách này được biên soạn chủ yếu dựa vào một cuốn sách bằng tiếng Tây Tạng có nhan đề là Bardo Thődol, trước đây được một vị Lạt-ma Tây Tạng là Kazi Dawa Samdup dịch sang tiếng Anh, nhan đề là The Tibetian Book of the Dead, với lời bình giải của Hòa thượng Chőgyam Trungpa. Sau đó đã có thêm bản tiếng Pháp của bà Marguerite La Fuente, dịch lại từ bản tiếng Anh. Chúng tôi đã sử dụng phần lớn bản dịch tiếng Việt của dịch giả Nguyên Châu, cũng được dịch từ bản tiếng Anh.
18/08/2014(Xem: 17759)
Tập sách này là phần tinh yếu của giáo pháp mật truyền thuộc Mật tông Tây Tạng, được Đại sư ORGYEN KUSUM LINGPA giảng giải thật chi tiết và rõ ràng. Sách đề cập đến các giai đoạn tu tập và chuẩn bị cho giai đoạn thân trung ấm (bardo), tức là giai đoạn quyết định sự tái sinh của mỗi chúng sinh.
18/08/2014(Xem: 59304)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay. Thật vậy tư tưởng của Ngài có thể biểu trưng cho toàn thể lòng từ bi và trí tuệ Phật Giáo trên một hành tinh mà con người dường như đã mất hết định hướng. Các sự xung đột không hề chấm dứt, con người bóc lột con người, giết hại muôn thú và tàn phá thiên nhiên. Phật giáo thường được coi như là một tín ngưỡng nhưng những lời khuyên của Đức Đạt-lai Lạt-ma trong quyển sách này vượt lên trên khuôn khổ hạn hẹp của một tôn giáo: - "Mỗi khi phải đề cập đến các vấn đề tâm linh thì không nhất thiết là tôi buộc phải nói đến các vấn đề liên quan đến tôn giáo (câu 87).
17/08/2014(Xem: 21653)
Tập sách này trong nguyên ngữ Tây Tạng được biên soạn từ quyển Truyền thuyết về 84 vị Thánh tăng (Grub thob brgyad bcu tsa bzhi’i lo rgyus) do ngàiMondup Sherab ghi chép từ lời kể của ngài Abhayadatta Sri (thế kỷ 12th) và quyển Tâm chứng của 84 vị Thánh tăng (Grub thob brgyad bcu rtogs pa’i snying po rdo rje’i lu) của ngài Vira Prakash, đã được Keith Dowman và Bhaga Tulku Pema Tenzin dịch sang Anh ngữ. Phần giới thiệu và các chú giải, nhận xét là củaKeith Dowman, hình minh họa là của H. R. Downs. Sách đã được phát hành tại Hoa Kỳ vào năm 1985 (The State University of New York Press, Albany, NY., 1985) với độ dày 454 trang. Sách cũng đã từng được dịch sang tiếng Đức vào năm 1991 với nhan đề Die Meister der Mahamudra (Diederichs, Munchen, 1991). Bản dịch Việt ngữ được giới thiệu lần này là của Nguyên Thạnh Lê Trung Hưng, được dịch từ bản tiếng Anh Masters of Mahamudra of the Eighty-four Buddhist Siddhas của Keith Dowman.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]