Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

38. Phẩm “Đại Sư"

16/08/202017:18(Xem: 8905)
38. Phẩm “Đại Sư"

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-424

PHẨM “ĐẠI SƯ”(1)

Quyển 434, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương với phẩm "Khen Bát Nhã", phần sau quyển 172 cho đến

phần đầu quyển 181, Hội thứ I, ĐBN)

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

Tóm lược:

 

(Ca tụng Bát nhã Ba la mật)

 

Bấy giờ, cụ thọ Xá lợi Tử thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế hay soi sáng, rốt ráo thanh tịnh. Bát nhã Ba la mật như thế, các trời, người v.v… đều nên kính lễ, vâng làm. Bát nhã Ba la mật như thế không nhiễm trước, các pháp thế gian chẳng thể làm ô nhiễm được. Bát nhã Ba la mật như thế xa lìa tất cả mờ mịt ba cõi, trừ sạch phiền não các kiến chấp đen tối. Bát nhã Ba la mật như thế là thượng thủ nhất, tối thắng nhất trong tất cả chủng loại Bồ đề phần pháp. Bát nhã Ba la mật như thế có thể đem an ổn, dứt hẳn tất cả kinh khủng, bức bách, tai họa. Bát nhã Ba la mật như thế có thể cho ánh sáng, thu nhiếp các hữu tình khiến được năm nhãn. Bát nhã Ba la mật như thế có thể chỉ bày trung đạo, khiến kẻ lạc đường lìa bỏ hai bên. Bát nhã Ba la mật như thế khéo sanh Nhất thiết tướng trí, dứt hẳn tất cả phiền não tập khí tương tục. Bát nhã Ba la mật như thế là mẹ của các Bồ Tát, tất cả Phật pháp mà Bồ Tát tu tập đều từ đấy xuất sanh.

Bát nhã Ba la mật như thế chẳng sanh chẳng diệt, tự tướng không vậy. Bát nhã Ba la mật như thế lìa tất cả sanh tử, chẳng thường chẳng hoại. Bát nhã Ba la mật như thế có thể làm chỗ nương dựa, ban chánh pháp cho tất cả hữu tình. Bát nhã Ba la mật như thế có thể thành tựu viên mãn Như Lai mười lực, tất cả lý luận của kẻ khác đều bị chiết phục. Bát nhã Ba la mật như thế có khả năng chuyển pháp luân vô thượng gồm ba lần chuyển mười hai hành tướng(2), đạt tất cả pháp, không có gì xoay ngược lại được. Bát nhã Ba la mật như thế có thể chỉ bày tự tánh không trái ngược của các pháp, hiển rõ vô tánh tự tánh không.

 

(Trụ Bát Nhã coi như Đại sư)

 

Bạch Thế Tôn! Hoặc các Bồ Tát, hoặc kẻ hướng tới Bồ Tát thừa, hoặc các Thanh văn, hoặc kẻ hướng tới Thanh văn thừa, hoặc các Độc giác, hoặc kẻ hướng tới Độc giác thừa, đối với Bát nhã Ba la mật đây nên trụ thế nào?

Phật dạy:

- Này Xá lợi Tử! Các hữu tình này trụ Bát nhã Ba la mật đây, nên coi như Đại sư mà cung kính cúng dường. Cúng dường lễ kính Bát nhã Ba la mật như thế nào thì nên cúng dường kính lễ Đại sư như thế ấy. Vì sao? Vì Đại sư chẳng khác Bát nhã Ba la mật, Bát nhã Ba la mật chẳng khác Đại sư. Đại sư tức là Bát nhã Ba la mật, Bát nhã Ba la mật tức là Đại sư.

Này Xá lợi Tử! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều do Bát nhã Ba la mật mà được xuất sanh. Tất cả Bồ Tát, Độc giác, A la hán cho đến Dự lưu đều do Bát nhã Ba la mật mà được xuất sanh. Tất cả mười thiện nghiệp đạo của thế gian, bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông, bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật đều do Bát nhã Ba la mật mà được xuất sanh. Tất cả nội không cho đến vô tánh tự tánh không, bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, như vậy cho đến Như Lai mười lực, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết tướng trí đều do Bát nhã Ba la mật mà được xuất sanh.

Khi ấy, trời Đế Thích nghĩ như vầy: Nay không biết vì nhân duyên gì, Xá lợi Tử hỏi Phật việc này. Nghĩ vậy liền thưa Xá lợi Tử:

- Bạch Đại đức! Nay vì nhân duyên gì mà hỏi Thế Tôn như thế?

Xá lợi Tử bảo trời Đế Thích:

- Này Kiều Thi Ca! Các Bồ Tát nhờ Bát nhã Ba la mật này nhiếp trì, nên dùng phương tiện khéo léo đối với tất cả các đức Như Lai ứng Chánh Đẳng Giác khắp mười phương thế giới quá khứ, vị lai, hiện tại, từ sơ phát tâm đến khi được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển bánh xe diệu pháp, độ vô lượng chúng vào cõi Vô dư y Bát Niết bàn, cho đến lúc pháp diệt; trong thời gian giữa này, có tất cả các công đức căn lành, như công đức căn lành của các Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát và các loại hữu tình khác. Tập hợp tất cả lượng căn lành như vậy, lấy vô tướng và vô sở đắc làm phương tiện, hiện tiền tùy hỷ. Tùy hỷ xong, ban cho các hữu tình cùng có bình đẳng hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Do nhân duyên đây nên tôi hỏi việc này.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật mà các Bồ Tát học thù thắng hơn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự Ba la mật gấp vô lượng lần.

Này Kiều Thi Ca! Như kẻ sanh manh hoặc trăm hoặc ngàn hoặc nhiều trăm ngàn mà không có người lành mắt làm người dẫn đường thì chẳng thể đến gần chánh đạo, huống nữa là đến được những chốn vương đô, thành ấp giàu có an lạc xa xôi. Cũng như các kẻ mù lòa; bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự Ba la mật, nếu không có người sáng mắt Bát nhã Ba la mật dẫn đường thì chẳng thể hướng tới chánh đạo của Bồ Tát, huống nữa là đến được thành Nhất thiết trí xa xôi.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Năm Ba la mật: Bố thí, trì giới… phải nhờ Bát nhã Ba la mật nhiếp dẫn(3), nên gọi là kẻ có mắt; lại nhờ Bát nhã Ba la mật nhiếp trì(4) nên năm pháp Ba la mật kia mới có tên “đến bờ kia”.

Khi ấy, trời Đế Thích thưa cụ thọ Xá lợi Tử:

- Như Đại đức nói năm pháp Ba la mật: Bố thí, tịnh giới… nhờ có Bát nhã Ba la mật nhiếp trì nên mới được gọi là đến bờ kia. Sao chẳng nói nhờ bố thí cho đến tĩnh lự Ba la mật nhiếp trì nên năm pháp ấy mới được tên gọi đến bờ kia? Như vậy, do duyên gì mà chỉ khen một mình Bát nhã Ba la mật?

Xá lợi Tử nói:

- Đúng vậy! Đúng như ông đã nói. Sáu pháp Ba la mật: Bố thí, trì giới… nhiếp dẫn lẫn nhau mới có thể đến bờ kia được. Nhưng trụ Bát nhã Ba la mật đủ đại thế lực phương tiện khéo léo thì mau được viên mãn việc tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự Ba la mật. Chớ chẳng phải trụ năm pháp trước mà thành việc này. Cho nên, Bát nhã Ba la mật đối với năm pháp trước là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng. Do nhân duyên này nên chỉ khen riêng Bát Nhã là thù thắng hơn năm pháp Ba la mật kia.

Bấy giờ, Xá lợi Tử thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật như thế nào?

Phật dạy:

- Này Xá lợi Tử! Các Bồ Tát chẳng vì dẫn phát sắc cho đến thức, vậy nên dẫn phát Bát Nhã Ba la. Chẳng vì dẫn phát nhãn xứ cho đến ý xứ, vậy nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật. Cũng chẳng vì dẫn phát sắc xứ cho đến pháp xứ; chẳng vì dẫn phát nhãn giới cho đến ý giới; chẳng vì dẫn phát sắc giới cho đến pháp giới; chẳng vì dẫn phát nhãn thức giới cho đến ý thức giới; chẳng vì dẫn phát nhãn xúc cho đến ý xúc; chẳng vì dẫn phát nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, vậy nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật. Chẳng vì dẫn phát bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật; chẳng vì dẫn phát nội không cho đến vô tánh tự tánh không; chẳng vì dẫn phát bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Như vậy, cho đến chẳng vì dẫn phát Phật mười lực, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vậy nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật. Chẳng vì dẫn phát Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; chẳng vì dẫn phát tất cả pháp, vậy nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật. (Q.434, ĐBN)

Khi ấy, Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao các Bồ Tát chẳng dẫn phát sắc cho đến tất cả pháp, vậy nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật?

Phật dạy:

- Này Xá lợi Tử! Vì sắc cho đến tất cả pháp vô tác vô sanh, vô đắc vô hoại, vô tự tánh, nên các Bồ Tát chẳng vì dẫn phát sắc cho đến tất cả pháp, vậy nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật.

Xá lợi Tử lại thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát dẫn phát Bát nhã Ba la mật như thế hiệp với pháp nào?

Phật dạy:

- Này Xá lợi Tử! Các Bồ Tát dẫn phát Bát nhã Ba la mật như thế chẳng hiệp với tất cả pháp. Vì chẳng hiệp nên được gọi là Bát nhã Ba la mật.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế chẳng hiệp với những pháp nào?

Phật dạy:

- Bát nhã Ba la mật như thế chẳng hiệp với pháp thiện, chẳng hiệp với pháp bất thiện, chẳng hiệp với pháp thế gian, chẳng hiệp với pháp xuất thế gian, chẳng hiệp với pháp hữu lậu, chẳng hiệp với pháp vô lậu, chẳng hiệp với pháp hữu tội, chẳng hiệp với pháp vô tội, chẳng hiệp với pháp hữu vi, chẳng hiệp với pháp vô vi. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật như thế đối với tất cả pháp vô sở đắc, nên chẳng thể nói hiệp với các pháp như thế.

Khi ấy, trời Đế Thích thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế há chẳng hiệp với Nhất thiết tướng trí chăng?

Phật dạy:

- Này Kiều Thi Ca! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói, Bát nhã Ba la mật như thế cũng chẳng hiệp với Nhất thiết tướng trí. Do đây nói Bát nhã Ba la mật đối với Nhất thiết tướng trí kia không sở đắc vậy.

- Bạch Thế Tôn! Vì sao Bát nhã Ba la mật đối với Nhất thiết tướng trí không hiệp cũng không đắc?

- Này Kiều Thi Ca! Vì chẳng phải Bát nhã Ba la mật đối với Nhất thiết tướng trí, như danh, như tướng, như sở tác kia mà có hiệp có đắc.

- Bạch Thế Tôn! Vì sao Bát nhã Ba la mật đối với Nhất thiết tướng trí cũng có thể nói có hiệp có đắc?

- Này Kiều Thi Ca! Vì Bát nhã Ba la mật đối với Nhất thiết tướng trí, như đối với danh, tướng… không nhận, không lấy, không trụ, không dứt, không chấp, không bỏ. Hiệp đắc như vậy mà không hiệp đắc.

Này Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật như thế đối với tất cả pháp cũng như đối với danh, tướng… không nhận, không lấy, không trụ, không dứt, không chấp, không bỏ. Hiệp đắc như vậy mà không hiệp đắc.

Trời Đế Thích lại thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật là hiếm có. Bát nhã Ba la mật như thế, vì tất cả pháp không sanh, không diệt, không tác, không thành, không đắc, không hoại. Vì không có tự tánh nên hiện ra trước, tuy có hiệp có đắc mà không đắc không hiệp. Nghĩa lý như thế chẳng thể nghĩ bàn.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu khi Bồ Tát tu hành Bát Nhã khởi tưởng như vầy: Bát nhã Ba la mật như thế hiệp cùng với các pháp, hoặc chẳng hiệp cùng các pháp thì Bồ Tát này xa lìa Bát nhã Ba la mật chăng?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Lại có nhân duyên các Bồ Tát xa lìa Bát nhã Ba la mật, nghĩa là khi Bồ Tát tu hành Bát Nhã khởi tưởng như vầy: Bát nhã Ba la mật như thế không sở hữu, chẳng chơn thật, chẳng bền chắc, chẳng tự tại. Như thế là Bồ Tát này bỏ xa Bát nhã Ba la mật.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu khi Bồ Tát tin Bát nhã Ba la mật thì chẳng tin pháp nào?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu khi Bồ Tát tin Bát nhã Ba la mật thì chẳng tin sắc, chẳng tin thọ, tưởng, hành, thức. Chẳng tin 12 xứ, chẳng tin 18 giới. Chẳng tin nhãn xúc, chẳng tin nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Chẳng tin nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ; chẳng tin nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Chẳng tin bố thí, chẳng tin tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự Ba la mật. Chẳng tin nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Chẳng tin ba mươi bảy pháp trợ đạo. Như vậy cho đến chẳng tin Phật mười lực; chẳng tin bốn vô sở uý, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Chẳng tin quả Dự lưu, chẳng tin quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán. Chẳng tin Độc giác Bồ đề. Chẳng tin tất cả Bồ Tát hạnh. Chẳng tin chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Chẳng tin Nhất thiết trí, chẳng tin Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao khi Bồ Tát tin Bát nhã Ba la mật thì chẳng tin sắc, nói rộng cho đến chẳng tin Nhất thiết tướng trí?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Vì khi các Bồ Tát tu hành Bát Nhã quán tất cả sắc bất khả đắc, nên tin Bát nhã Ba la mật mà chẳng tin sắc; nói rộng cho đến quán Nhất thiết tướng trí cũng bất khả đắc, nên tin Bát nhã Ba la mật mà chẳng tin Nhất thiết tướng trí. Do vậy, Thiện Hiện! Khi các Bồ Tát tin Bát nhã Ba la mật thì chẳng tin sắc, nói rộng cho đến chẳng tin Nhất thiết tướng trí.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế là đại Ba la mật.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ông vin vào đâu mà nói: Bát nhã Ba la mật như thế là đại Ba la mật?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Bạch Thế Tôn! Vì Bát nhã Ba la mật đây đối với sắc cho đến thức chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ. Đối với 12 xứ chẳng làm cho nhỏ. Đối với, 18 giới chẳng làm cho nhỏ. Đối với nhãn xúc cho đến ý xúc chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ. Đối với nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ. Đối với bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, chẳng làm cho lớn chẳng làm nhỏ. Đối với nội không cho đến vô tánh tự tánh không chẳng làm cho lớn chẳng làm nhỏ. Nói rộng ra cho đến tất cả pháp Phật cũng chẳng làm thêm lớn, chẳng làm nhỏ. (Q.434, ĐBN)

Bạch Thế Tôn! Con duyên ý đây nên nói Bát nhã Ba la mật là đại Ba la mật.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì Bát nhã Ba la mật đây đối với sắc chẳng làm cho nhóm hợp, chẳng làm cho tan; đối với thọ, tưởng, hành, thức chẳng làm cho nhóm hợp, chẳng làm cho tan. Như vậy cho đến đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật chẳng làm cho nhóm hợp, chẳng làm cho tan; đối với các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng làm cho nhóm hợp, chẳng làm cho tan.

Bạch Thế Tôn! Con duyên ý đây nên nói Bát nhã Ba la mật là đại Ba la mật.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì Bát nhã Ba la mật như thế đối với sắc chẳng làm lượng, chẳng làm phi lượng; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng làm lượng, chẳng làm phi lượng. Cho đến đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật chẳng làm lượng, chẳng làm phi lượng; đối với các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng chẳng làm lượng, chẳng làm phi lượng.

Bạch Thế Tôn! Con duyên ý đây nên nói Bát nhã Ba la mật là đại Ba la mật.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì Bát nhã Ba la mật đây đối với sắc chẳng làm rộng, chẳng làm hẹp; đối với thọ, tưởng, hành, thức chẳng làm rộng, chẳng làm hẹp. Như vậy cho đến đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật chẳng làm rộng, chẳng làm hẹp; đối với các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng làm rộng, chẳng làm hẹp.

Bạch Thế Tôn! Con duyên ý đây nên nói Bát nhã Ba la mật là đại Ba la mật.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì Bát nhã Ba la mật đây đối với sắc chẳng làm yếu, chẳng làm mạnh; đối với thọ, tưởng, hành, thức chẳng làm yếu, chẳng làm mạnh. Như vậy, cho đến đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng làm yếu, chẳng làm mạnh; đối với các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng làm yếu, chẳng làm mạnh.

Bạch Thế Tôn! Con duyên ý đây nên nói Bát nhã Ba la mật là đại Ba la mật.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát mới hướng tới Đại thừa, nương tựa Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật, khởi tưởng như vầy: Bát nhã Ba la mật như thế đối với ngũ uẩn cho đến đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật chẳng làm lớn, chẳng làm nhỏ; chẳng làm cho nhóm hợp, chẳng làm cho tan; chẳng làm lượng, chẳng làm phi lượng; chẳng làm rộng, chẳng làm hẹp; chẳng làm mạnh, chẳng làm yếu. Nếu các Bồ Tát này do khởi tưởng như vậy, nên chẳng phải hành Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát mới hướng tới Đại thừa, nương tựa Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật, khởi tưởng như vầy: Bát nhã Ba la mật như thế đối với ngũ uẩn cho đến đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật làm lớn, làm nhỏ; làm cho nhóm hợp, làm cho tan; làm lượng, làm phi lượng; làm rộng, làm hẹp; làm mạnh, làm yếu.

Bạch Thế Tôn! Bồ Tát này do khởi tưởng như vậy, nên chẳng phải hành Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát mới hướng tới đại thừa, chẳng nương Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật, khởi tưởng như vầy: Bát nhã Ba la mật như thế đối với ngũ uẩn cho đến đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật chẳng làm lớn, chẳng làm nhỏ; chẳng làm cho nhóm hợp, chẳng làm cho tan; chẳng làm lượng, chẳng làm phi lượng; chẳng làm rộng, chẳng làm hẹp; chẳng làm mạnh, chẳng làm yếu.

Bạch Thế Tôn! Bồ Tát này do khởi tưởng như vậy, nên chẳng phải hành Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát mới hướng tới Đại thừa, chẳng nương Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật, khởi tưởng như vầy: Bát nhã Ba la mật như thế đối với ngũ uẩn cho đến đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật làm lớn làm nhỏ; làm cho nhóm hợp, làm cho tan rã; làm lượng, làm phi lượng; làm rộng, làm hẹp; làm mạnh, làm yếu.

Bạch Thế Tôn! Bồ Tát này do khởi tưởng như vậy, nên chẳng phải hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì nếu Bồ Tát khởi tưởng như vầy: Bát nhã Ba la mật như thế đối với ngũ uẩn cho đến đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật hoặc làm lớn nhỏ, chẳng làm lớn nhỏ; hoặc làm cho nhóm hợp, tan rã, chẳng làm cho nhóm hợp, tan rã; hoặc làm lượng phi lượng, chẳng làm lượng phi lượng; hoặc làm rộng hẹp, chẳng làm rộng hẹp; hoặc làm mạnh yếu, chẳng làm mạnh yếu.

Bạch Thế Tôn! Tất cả như thế đều chẳng phải đẳng lưu quả (nhân quả ngang nhau) của Bát nhã Ba la mật.

Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát khởi tưởng như vầy: Bát nhã Ba la mật cho đến đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật hoặc làm lớn nhỏ, chẳng làm lớn nhỏ; hoặc làm cho nhóm hợp tan, chẳng làm cho nhóm hợp tan; hoặc làm lượng phi lượng, chẳng làm lượng phi lượng; hoặc làm rộng hẹp, chẳng làm rộng hẹp; hoặc làm mạnh yếu, chẳng làm mạnh yếu.

Bạch Thế Tôn! Bồ Tát này được gọi là “đại hữu sở đắc” (có sở đắc lớn), chẳng phải hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì chẳng phải tưởng có sở đắc năng chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì hữu tình vô sanh, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô sanh. Vì sắc vô sanh, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô sanh; thọ, tưởng, hành, thức vô sanh, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô sanh. Như vậy cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật vô sanh, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô sanh. Tất cả đức Như Lai ứng Chánh Đẳng Giác vô sanh, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô sanh.

Bạch Thế Tôn! Vì hữu tình không có tự tánh, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng không có tự tánh. Vì sắc không có tự tánh, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng không có tự tánh; thọ, tưởng, hành, thức không có tự tánh, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng không có tự tánh. Như vậy, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật không có tự tánh, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng không có tự tánh. Tất cả đức Như Lai ứng Chánh Đẳng Giác không có tự tánh, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng không có tự tánh.

Bạch Thế Tôn! Vì hữu tình vô sở hữu, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô sở hữu. Vì sắc vô sở hữu, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô sở hữu; thọ, tưởng, hành, thức vô sở hữu, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô sở hữu. Như vậy, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật vô sở hữu, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô sở hữu. Tất cả đức Như Lai ứng Chánh Đẳng Giác vô sở hữu, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô sở hữu.

Bạch Thế Tôn! Vì hữu tình không, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng không. Vì sắc không, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng không; thọ, tưởng, hành, thức không, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng không. Như vậy cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật không, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng không. Tất cả đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng không.

Bạch Thế Tôn! Vì hữu tình xa lìa, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng xa lìa. Vì sắc xa lìa, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng xa lìa; thọ tưởng hành thức xa lìa, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng xa lìa. Như vậy, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật xa lìa, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng xa lìa. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác xa lìa, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng xa lìa.

Bạch Thế Tôn! Vì hữu tình bất khả đắc, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng bất khả đắc. Vì sắc bất khả đắc, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng bất khả đắc; thọ tưởng hành thức bất khả đắc, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng bất khả đắc. Như vậy, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật bất khả đắc, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng bất khả đắc. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác bất khả đắc, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Vì hữu tình bất khả tư nghì (không thể nghĩ bàn), nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng bất khả tư nghì. Vì sắc bất khả tư nghì, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng bất khả tư nghì; thọ tưởng hành thức bất khả tư nghì, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng bất khả tư nghì. Như vậy, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật bất khả tư nghì, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng bất khả tư nghì. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác bất khả tư nghì, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng bất khả tư nghì.

Bạch Thế Tôn! Vì hữu tình không hoại diệt, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng không hoại diệt. Vì sắc không hoại diệt, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng không hoại diệt; thọ tưởng hành thức không hoại diệt, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng không hoại diệt. Như vậy, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật không hoại diệt, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng không hoại diệt. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không hoại diệt, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng không hoại diệt.

Bạch Thế Tôn! Vì hữu tình vô tri giác, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô tri giác. Vì sắc vô tri giác, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô tri giác; thọ, tưởng, hành, thức vô tri giác, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô tri giác. Như vậy, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật vô tri giác, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô tri giác. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vô tri giác, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô tri giác.

Bạch Thế Tôn! Vì thế lực của hữu tình chẳng thành tựu, nên phải quán thế lực của Bát nhã Ba la mật cũng chẳng thành tựu. Thế lực của Sắc chẳng thành tựu, nên phải quán thế lực của Bát nhã Ba la mật cũng chẳng thành tựu; thế lực của thọ tưởng hành thức lực chẳng thành tựu, nên phải quán thế lực của Bát nhã Ba la mật cũng chẳng thành tựu. Như vậy, cho đến thế lực của chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng thành tựu, nên phải quán thế lực của Bát nhã Ba la mật cũng chẳng thành tựu. Tất cả thế lực của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng thành tựu, nên phải quán thế lực Bát nhã Ba la mật cũng chẳng thành tựu.

Bạch Thế Tôn! Con duyên vào những ý như vậy, nên nói Bát nhã Ba la mật của Bồ Tát là đại Ba la mật.

 

Thích nghĩa:

(1). Đại sư: Ám chỉ Phật, gọi là Thiên nhân sư (thầy của Trời người), một trong mười danh hiệu Phật.

(2). Chuyển bánh xe pháp Vô thượng: Tam chuyển thập nhị hành tướng. Ba lần chuyển 12 hành tướng tức thị chuyển, khuyến chuyển và chứng chuyển và thuyết 12 bộ Kinh từ khế Kinh… cho đến nghị luận. Đã thích nghĩa nhiều lần.

(3). Nhiếp dẫn: Nhiếp phục, dẫn dắt hay đưa đến.

(4). Nhiếp trì: Nắm giữ và hành trì.

 

Sơ giải:

 

1. Phần đầu phẩm này nói về tánh cách tôn dẫn của Bát nhã Ba la mật đối với tất cả pháp môn Phật đạo trong rất nhiều phẩm mà chúng ta đã tụng trước đây. Cho nên Xá Lợi Tử bảo Thiên đế Thích: “Bát nhã Ba la mật đối với năm pháp trước là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng. Do nhân duyên này nên chỉ khen riêng Bát nhã Ba la mật là thù thắng hơn năm pháp Ba la mật kia”.

Chư Phật tu thành tựu Bát Nhã và trụ trong pháp môn này làm lợi ích cho toàn thể chúng sanh nên được suy tôn là Thiên Nhân sư (Đại sư) trong loài người. Vì vậy, các Bồ Tát theo chân Phật nên không lấy các pháp môn khác mà chỉ lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn đắt chúng sanh. Nên Kinh Đại Bát Nhã được gọi là “Đại Sư”.

Cùng phẩm này Kinh MHBNBLMĐ có tên “Chiếu Minh”, giải thích rằng:

- “Bát Nhã Ba La Mật chẳng dính mắc vào 3 cõi.

- Bát Nhã Ba La Mật tận trừ hết thảy các vô minh phiền não, cùng hết thảy các kiến chấp.

- Bát Nhã Ba La Mật là pháp tối thượng trong tất cả các pháp trợ đạo, tận đoạn hết thảy các sợ hãi, khổ não và đem lại sự an lạc.

- Bát Nhã Ba La Mật thường chiếu diệu quang minh và trang nghiêm 5 nhãn.

- Bát Nhã Ba La Mật dẫn dắt chúng sanh ra khỏi tà kiến, xa lìa chấp “nhị biên”.

- Bát Nhã Ba La Mật là nhất thiết chủng trí, đoạn trừ hết thảy các tập khí phiền não.

- Bát Nhã Ba La Mật là mẹ của chư Phật và chư đại Bồ Tát”.

Đó là tánh cách tôn dẫn chỉ đạo của Bát Nhã được các phẩm trước đây ca tụng là “Thầy của Trời người”. Hơn thế nữa Bát nhã Ba la mật được nâng cao đến mức tối đa khi bảo rằng: Bát nhã Ba la mật tức là Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề tức là Bát nhã Ba la mật hoặc Bát nhã Ba la mật là Nhất thiết trí trí, Nhất thiết trí trí tức là Bát nhã Ba la mật.

  

2. Kế đến Phật lưu ý những người hành trì Bát nhã Ba la mật:

“Bát nhã Ba la mật như thế chẳng hiệp với pháp thiện, chẳng hiệp với pháp bất thiện, chẳng hiệp với pháp thế gian, chẳng hiệp với pháp xuất thế gian, chẳng hiệp với pháp hữu lậu, chẳng hiệp với pháp vô lậu, chẳng hiệp với pháp hữu tội, chẳng hiệp với pháp vô tội, chẳng hiệp với pháp hữu vi, chẳng hiệp với pháp vô vi. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật như thế đối với tất cả pháp vô sở đắc, nên chẳng thể nói hiệp với các pháp như thế”.

Để giải thích điểm này Đại trí độ Luận, phẩm thứ 40, “Chiếu Minh”, tập 4, quyển 62, giải thích rằng:

“Nếu Bát Nhã Ba La Mật có pháp để hợp, thì ắt phải hợp với các pháp thiện hoặc với các pháp bất thiện; như vậy là chẳng phải Bát Nhã Ba La Mật nữa. Vì Bát Nhã Ba La Mật chẳng hợp với hết thảy pháp, nên mới dung nhiếp hết thảy pháp”.

... “Bồ Tát nào dụng tâm sở đắc, mà phân biệt Nhất thiết chủng trí cùng hết thảy các các pháp là hợp hay chẳng hợp, thì vị Bồ Tát ấy đã xa rời Bát Nhã Ba La Mật”.

 

3. Phần cuối cùng của phẩm này, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bát nhã Ba la mật đối với tất cả pháp chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ, chẳng làm cho nhóm họp, chẳng làm cho tan, chẳng làm cho có lượng hay phi lượng, chẳng làm cho yếu chẳng làm cho mạnh. Nếu Bồ Tát làm, chẳng làm, chẳng phải làm, chẳng phải chẳng làm như vậy là Bồ Tát hành theo tứ cú, tức hí luận, nên rơi vào nhị nguyên đối đãi đều chẳng phải là đẳng lưu quả của Bát nhã Ba la mật. Nên Bồ Tát này bị gọi là “đại hữu sở đắc”. Nếu bị gọi là “người đại hữu sở đắc” thì không thể tu Bát nhã Ba la mật, không thể đắc Nhất thiết trí trí. Nên khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn! Bồ Tát này được gọi là “đại hữu sở đắc”, chẳng phải hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì chẳng phải tưởng có sở đắc năng chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì hữu tình vô sanh, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô sanh”. Vì sắc vô sanh, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô sanh; thọ, tưởng, hành, thức vô sanh, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô sanh. Như vậy cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật vô sanh, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô sanh. Tất cả đức Như Lai ứng Chánh Đẳng Giác vô sanh, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô sanh.

Vì hữu tình không có tự tánh, vô sở hữu, không, xa lìa, bất khả tư nghì, vô tri giác, chẳng thành tựu… Nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng không có tự tánh, vô sở hữu, không, xa lìa, bất khả tư nghì, không thành tựu. Như vậy, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật không có tự tánh, vô sở hữu… cho đến không thành tựu. Nên cũng phải quán Bát nhã Ba la mật không có tự tánh, vô sở hữu… cho đến không thành tựu cũng lại như thế.

Đó là lý do tại sao một số luận sư căn cứ vào đặc tánh này nên nói Bát Nhã vô tri. Phải, Bát Nhã vô tri nhưng vô sở bất tri. Vì vậy, mới nói Bát nhã Ba la mật là thầy dạy của tất trời người mà những người con dòng họ Thích trong Tam thiên đại thiên thế giới, hằng ngưỡng mộ, tôn kính như Đại sư!

 

(Xem lại chiết giải phẩm “Khen Bát Nhã”, phần sau quyển 172 cho đến phần đầu quyển 181, Hội thứ I, ĐBN)./.

 

---o0o---

 

 


 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/12/2014(Xem: 16354)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
24/11/2014(Xem: 18002)
Tập sách nhỏ “Du-già Tây Tạng, Giáo Lý và Tu Tập” này được dịch từ bản văn tiếng Anh có nhan đề là “Teachings of Tibetan Yoga” do Giáo sư Garma C. C. Chang – giảng sư của Tu viện Kong Ka ở miền Đông Tây Tạng khoảng trước năm 1950 – biên dịch từ Hoa ngữ, do nhà xuất bản Carol Publishing Group ấn hành năm 1993 tại New York, Hoa Kỳ.
18/08/2014(Xem: 26397)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn và đã được in chung với bảng thuật ngữ tra cứu thành một Phụ lục đính kèm theo toàn bộ kinh, xuất bản trong năm 2009.
18/08/2014(Xem: 23366)
Tôi nghe như thế này: Một thuở nọ, đức Phật ngự tại thành Tỳ-da-ly, trong vườn cây Am-la với chúng đại tỳ-kheo là tám ngàn người, Bồ Tát là ba mươi hai ngàn vị mà ai ai cũng đều biết đến, đều đã thành tựu về đại trí và bổn hạnh. Oai thần mà chư Phật đã gầy dựng được, chư Bồ Tát ấy nương vào đó mà hộ vệ thành trì đạo pháp. Các ngài thọ lãnh giữ gìn Chánh pháp, có thể thuyết pháp hùng hồn như tiếng sư tử rống, danh tiếng các ngài bay khắp mười phương. Chẳng đợi sự thỉnh cầu giúp đỡ mà các ngài tự mang sự an ổn đến cho mọi người. Các ngài tiếp nối làm hưng thạnh Tam bảo, khiến cho lưu truyền chẳng dứt.
18/08/2014(Xem: 27327)
Tôi nghe như thế này: Có một lúc đức Phật tại thành Vương Xá, núi Kỳ-xà-quật, cùng với sáu mươi hai ngàn vị đại tỳ-kheo. Các vị đều là những bậc A-la-hán đã dứt sạch lậu hoặc, không còn sinh khởi các phiền não, mọi việc đều được tự tại, tâm được giải thoát, trí huệ được giải thoát, như các bậc đại long tượng khéo điều phục. Các ngài đã làm xong mọi việc cần làm, buông bỏ được gánh nặng, tự thân đã được sự lợi ích, dứt hết mọi chấp hữu, đạt trí huệ chân chánh nên tâm được tự tại. Hết thảy các ngài đều đã được giải thoát, chỉ trừ ngài A-nan. Trong pháp hội có bốn trăm bốn mươi vạn Bồ Tát, đứng đầu là Bồ Tát Di-lặc. Các vị đều đã đạt được các pháp nhẫn nhục, thiền định, đà-la-ni. Các ngài hiểu sâu ý nghĩa các pháp đều là không và hoàn toàn không có tướng nhất định. Các vị đại sĩ như thế đều là những bậc không còn thối chuyển trên đường tu tập.
18/08/2014(Xem: 18764)
Sách Liên Tông Bảo Giám nói rằng: “Tâm thể chính là cõi Cực Lạc trải khắp mười phương. Tự tánh là đức Di-đà tròn đầy trí giác. Mầu nhiệm ứng theo thanh sắc nơi ngoại cảnh, tỏa sáng nơi tự tâm. Bởi vậy, bỏ mê vọng liền về chân thật, thẳng lìa trần ai tức là giác ngộ.” “Thuở trước ngài Pháp Tạng phát lời nguyện lớn, khai mở con đường nhiệm mầu sang Cực Lạc. Cho nên đức Thế Tôn mới chỉ về phương Tây mà dạy cho bà Vi-đề-hy biết rõ cõi diệu huyền. Khi ấy, mười phương chư Phật đều hiện tướng lưỡi rộng dài mà xưng tán. Nên báo trước rằng khi các kinh khác đều đã mất, sẽ chỉ riêng lưu lại bộ kinh A-di-đà.
18/08/2014(Xem: 20571)
Cuốn sách này được biên soạn chủ yếu dựa vào một cuốn sách bằng tiếng Tây Tạng có nhan đề là Bardo Thődol, trước đây được một vị Lạt-ma Tây Tạng là Kazi Dawa Samdup dịch sang tiếng Anh, nhan đề là The Tibetian Book of the Dead, với lời bình giải của Hòa thượng Chőgyam Trungpa. Sau đó đã có thêm bản tiếng Pháp của bà Marguerite La Fuente, dịch lại từ bản tiếng Anh. Chúng tôi đã sử dụng phần lớn bản dịch tiếng Việt của dịch giả Nguyên Châu, cũng được dịch từ bản tiếng Anh.
18/08/2014(Xem: 17759)
Tập sách này là phần tinh yếu của giáo pháp mật truyền thuộc Mật tông Tây Tạng, được Đại sư ORGYEN KUSUM LINGPA giảng giải thật chi tiết và rõ ràng. Sách đề cập đến các giai đoạn tu tập và chuẩn bị cho giai đoạn thân trung ấm (bardo), tức là giai đoạn quyết định sự tái sinh của mỗi chúng sinh.
18/08/2014(Xem: 59304)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay. Thật vậy tư tưởng của Ngài có thể biểu trưng cho toàn thể lòng từ bi và trí tuệ Phật Giáo trên một hành tinh mà con người dường như đã mất hết định hướng. Các sự xung đột không hề chấm dứt, con người bóc lột con người, giết hại muôn thú và tàn phá thiên nhiên. Phật giáo thường được coi như là một tín ngưỡng nhưng những lời khuyên của Đức Đạt-lai Lạt-ma trong quyển sách này vượt lên trên khuôn khổ hạn hẹp của một tôn giáo: - "Mỗi khi phải đề cập đến các vấn đề tâm linh thì không nhất thiết là tôi buộc phải nói đến các vấn đề liên quan đến tôn giáo (câu 87).
17/08/2014(Xem: 21653)
Tập sách này trong nguyên ngữ Tây Tạng được biên soạn từ quyển Truyền thuyết về 84 vị Thánh tăng (Grub thob brgyad bcu tsa bzhi’i lo rgyus) do ngàiMondup Sherab ghi chép từ lời kể của ngài Abhayadatta Sri (thế kỷ 12th) và quyển Tâm chứng của 84 vị Thánh tăng (Grub thob brgyad bcu rtogs pa’i snying po rdo rje’i lu) của ngài Vira Prakash, đã được Keith Dowman và Bhaga Tulku Pema Tenzin dịch sang Anh ngữ. Phần giới thiệu và các chú giải, nhận xét là củaKeith Dowman, hình minh họa là của H. R. Downs. Sách đã được phát hành tại Hoa Kỳ vào năm 1985 (The State University of New York Press, Albany, NY., 1985) với độ dày 454 trang. Sách cũng đã từng được dịch sang tiếng Đức vào năm 1991 với nhan đề Die Meister der Mahamudra (Diederichs, Munchen, 1991). Bản dịch Việt ngữ được giới thiệu lần này là của Nguyên Thạnh Lê Trung Hưng, được dịch từ bản tiếng Anh Masters of Mahamudra of the Eighty-four Buddhist Siddhas của Keith Dowman.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]