Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

33. Phẩm “Hủy Báng Bát Nhã” (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

03/07/202016:33(Xem: 10067)
33. Phẩm “Hủy Báng Bát Nhã” (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

 

37-Pham Huy Bang Bat Nha

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

 

 

PHẨM “ HỦY BÁNG BÁT NHÔ
hay PHẨM “CHÊ BÁT NHÔ

Phần cuối quyển 181, Hội thứ I, Kinh ĐBN.

(Tức phần đầu quyển thứ 13, phẩm “Tín Hủy”, KinhMHBNBLM)

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu

Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên

Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le



 

 

Tóm lược:

 

(1. Thấy Bát Nhã tức thấy Phật)

 

Lúc bấy giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát đối với Bát nhã Ba la mật thậm thâm này có khả năng tin hiểu thì vị ấy đã xả thân ở cõi nào mà sanh vào cõi này? Đại Bồ Tát ấy phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao đã trải qua bao lâu? Đại Bồ Tát ấy đã từng thân cận cúng dường bao nhiêu đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác? Đại Bồ Tát ấy tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật đã trải qua bao nhiêu kiếp? Đại Bồ Tát ấy tin hiểu nghĩa của Bát nhã Ba la mật thậm thâm ấy như thế nào?

Phật bảo: Nếu đại Bồ Tát đối với Bát nhã Ba la mật thậm thâm nầy có khả năng tin hiểu thời vị ấy đã xả thân từ trong pháp hội của vô số, vô lượng, vô biên Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở mười phương thế giới mà sanh vào cõi này. Đại Bồ Tát ấy đã phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao đã trải qua vô số, vô lượng, vô biên trăm ngàn vô số kiếp. Đại Bồ Tát ấy đã từng thân cận cúng dường vô số, vô lượng, vô biên chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể so lường. Đại Bồ Tát ấy từ sơ phát tâm thường siêng tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, đã trải qua vô số, vô lượng, vô biên trăm ngàn vô số kiếp.

Nếu đại Bồ Tát thấy Bát Nhã này, thì liền nghĩ là ta được thấy Phật; nghe Bát nhã Ba la mật này thì liền nghĩ là ta được nghe Phật nói.

Vì Đại Bồ Tát ấy phải dùng vô tướng, vô nhị, vô sở đắc làm phương tiện, nên có khả năng tin hiểu nghĩa thú sâu xa của Bát nhã Ba la mật này.

 

(2. Các pháp vốn trì độn vô tri)

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật thậm thâm có ai có thể nghe, có thể thấy chăng?

Phật bảo: Bát nhã Ba la mật thật không có người có thể nghe, không có người có thể thấy. Bát nhã Ba la mật như thế cũng chẳng phải là cái để nghe, để thấy. Sắc không nghe không thấy, vì là pháp trì độn(1); thọ, tưởng, hành, thức không nghe không thấy, vì là pháp trì độn. Tất cả pháp từ mười hai xứ, mười tám giới, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… đến quả vị Giác ngộ tối cao không nghe không thấy. Này Thiện Hiện! Tất cả pháp không nghe không thấy, vì tất cả pháp trì độn.

 

(3. Tu Bát Nhã phải lấy vô sở đắc làm phương tiện)

 

Nhưng không phải bất cứ ai cũng có thể thọ trì Bát nhã Ba la mật. Chỉ có ai dùng vô sở đắc làm phương tiện, mặc dù chỉ là sơ phát tâm cũng có khả năng tu học Bát nhã Ba la mật, vì những kẻ ấy không xa lìa hạnh tương ưng lục Ba la mật; không xa lìa Phật, Pháp, Tăng; chẳng xa lìa thần thông thù thắng, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật.

Đối với những ai lấy hữu sở đắc làm phương tiện, bám chặc ngũ uẩn, tự cao khinh chê kẻ khác, lại nhiều sân hận, ác tâm… bị các tà ma mê hoặc trở nên ngu si, nên đối với pháp thậm thâm chẳng tin hiểu, đâm ra hủy báng chánh pháp. Những kẻ như thế không thể thọ trì Bát nhã Ba la mật mà trái lại bị rơi vào ác đạo, chịu đựng biết bao khổ não!

 

(4. Hủy bán Bát Nhã tức hủy bán Phật)

 

Đối với việc nghe nói Bát nhã Ba la mật thậm thâm này, thân, ngữ và tâm đều chẳng hòa hợp, tăng trưởng thêm ngu si, ác tuệ, nên khi nghe nói Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, liền hủy báng, vứt bỏ. Nên biết, nếu có người hủy báng Bát Nhã tức là hủy báng quả vị Giác ngộ tối cao của chư Phật. Nếu hủy báng quả vị Giác ngộ của chư Phật tức là hủy báng Nhất thiết tướng trí của chư Phật trong quá khứ, vị lai, hiện tại. Nếu hủy báng Nhất thiết tướng trí tức là hủy báng Phật. Nếu hủy báng Phật tức là hủy báng Pháp. Nếu hủy báng Pháp tức là hủy báng Tăng. Nếu hủy báng Tăng thì sẽ hủy báng chánh kiến thế gian. Nếu hủy báng chánh kiến thế gian thì sẽ hủy báng bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã… cũng sẽ hủy báng tất cả thiện pháp. Người ấy do hủy báng, làm chướng ngại, nên tạo tác tăng trưởng, sẽ chiêu cảm nghiệp thiếu chánh pháp. Vì vậy, khi chết mới bị đọa vào địa ngục lớn, lãnh chịu khổ dữ dội hàng trăm ngàn năm chẳng được giải thoát. Do tội nặng ấy nên trong thế giới này, họ bị đọa từ hết địa ngục lớn này đến địa ngục lớn khác.

Đến khi thế giới này bị kiếp thủy, hỏa, phong khởi lên, do ác nghiệp nặng nề của họ vẫn chưa hết, nên sau khi qua đời lại thọ sanh ở thế giới khác, tiếp tục bị đọa vào địa ngục lớn giống như trước để chịu khổ cực suốt trăm ngàn năm. Vì người kia tội nặng nên ở thế giới phương khác vẫn bị lưu đày hết địa ngục lớn này đến địa ngục lớn khác, cho đến khi kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong xảy đến nữa.

Cứ luân hồi như vậy vô số kiếp cho đến khi năng lực của nghiệp tội hủy báng Chánh pháp yếu dần đi, vừa được ra khỏi địa ngục lại đọa làm loài bàng sanh(hay súc sanh, súc vật). Xoay chuyển như trước, hết cõi này đến phương khác, nhiều kiếp luân hồi chịu nhiều thứ khổ.

Khi năng lực của nghiệp tội hủy báng Chánh pháp yếu dần, họ mới thoát khỏi loài bàng sanh, nhưng lại đọa vào loài quỷ, hết cõi nầy đến phương khác, xoay chuyển luân hồi trải qua vô số kiếp chịu đủ mọi thống khổ.

Cuối cùng khi thế lực của nghiệp hủy báng Chánh pháp sắp hết, họ mới ra khỏi quỷ giới, được sanh vào cõi người. Tuy được làm người nhưng lại bị rơi vào chỗ hạ tiện như người mù bẩm sanh, hoặc như Chiên đà la, hoặc nhà khiêng thây chết, hoặc đánh cá, săn bắn, hoặc làm lao công, hoặc mua vui cho kẻ khác, hoặc hành tà kiến, hoặc thọ thân người không có mắt, không có tai, không có mũi, không có lưỡi, không có chân, ung thư, ghẻ lở, phong cùi, điên khùng, lưng gù, vai lệch, đen đủi, lùn xấu, tay co, chân khèo, các căn khiếm khuyết, bần cùng khốn khổ, bướng bỉnh không biết gì; phàm làm việc gì đều bị người khinh chê; hoặc tại chỗ sanh ra chẳng nghe danh hiệu Phật, Pháp, Tăng, danh hiệu Bồ Tát, Độc giác; hoặc sanh vào thế giới tối tăm, thường không có ngày đêm, chẳng thấy ánh sáng; vì kẻ ấy do hủy báng các công đức nên phải nhận chịu vô số, vô lượng, vô biên tội lỗi, nên phải nhận chịu các đại địa ngục, bàng sanh, quỷ giới và vô số, vô lượng, vô biên thống khổ trong loài người.

 

Thích nghĩa:

(1). Trì độn: Từ này rất khó dịch, HT Thích Trí Nghiêm dịch là “lụt chậm”, từ lụt chậm không diễn tả hết ý nghĩa của từ “trì độn”. Anh ngữ gọi là dull, như dao gọi là “lụt”; nếu diễn tả cá tính thì gọi là cá tánh “nhạt phèo”. Ở đây có thể tạm dịch là “trơ trơ”, hay “trơ lì”. Các pháp tự nó không chậm không lụt; không khôn không dại…, nó như vậy bởi vì nó như vậy, nên nói: Nó “trơ lì ra đó”, ai muốn hiểu sao, nói gì cũng được, nên có thể gọi là trì độn, vô tri! TB

 

Lược giải:

 

Đây là một phẩm khó chiết giải. Khó không phải do các giáo pháp mắc mỏ không thể giảng nói, mà khó là vì các giáo pháp khác nhau lại được đúc kết trong cùng một phẩm. Như:

1. Nói về Bồ Tát chết từ đâu lại hiện thân ở cõi này? Kinh nói nói Bồ Tát hoặc ở cõi khác hoặc ở cõi trời Đâu suất hoặc ở cõi này thác sanh trởi lại cõi này;

2. Bát nhã Ba la mật thật không có người nghe, không có người thấy. Vì các pháp vốn trì độn vô tri, lìa tướng nên chẳng có ai nghe ai thấy và

3. Tu Bát Nhã phải lấy vô sở đắc làm phương tiện, mới có hy vọng thành đạt Bát Nhã.

Phẩm này đã sơ lược 3 đề mục trên rồi, đọc qua ai cũng có thể hiểu, nên không cần giải thích thêm. Chúng ta sẽ có rất nhiều dịp thảo luận các đề mục này trong 4 Hội kế tiếp. Bây giờ, chúng ta bàn đến mục bốn là mục chính của phẩm này: Thế nào là tội hủy bán Bát Nhã và tội này bị trừng phạt ra sao?

4. Hủy bán Bát Nhã tức hủy bán Phật. Đây là ý chánh cũa phẩm này giống như các phẩm “Địa Ngục” của các Hội khác.

Quyển 544, phẩm “Địa Ngục”, Hội thứ IV, TBBN. Phật bảo:

“Thiện Hiện nên biết! Nếu hủy báng Bát nhã Ba la mật thậm thâm, thì đó là hủy báng Vô thượng Bồ đề. Nếu hủy báng Vô thượng Bồ đề, thì đó là hủy báng Nhất thiết trí trí. Nếu hủy báng Nhất thiết trí trí, thì đó là hủy báng Phật, Pháp, Tăng bảo. Nếu có hủy báng Phật, Pháp, Tăng bảo, thì nhận lấy vô biên tội lỗi. Nếu đã nhận lấy vô biên tội lỗi liền chuốc lấy vô biên khổ báo”.

Điều đó có nghĩa: Trong lúc hiện tiền vì thiếu hiểu biết, ôm nhiều sân hận, ác tâm, khinh mạn, lại theo bọn ác tri thức quay lại chống đối Chánh pháp, đả kích Đại thừa, hủy báng Bát nhã Ba la mật, nên tạo nghiệp quá nặng. Vì vậy, khi chết mới bị đọa vào địa ngục lớn, lãnh chịu các khổ dữ dội hàng trăm ngàn năm chẳng được giải thoát. Do tội nặng ấy nên trong thế giới này, đả kích Đại thừa, hủy báng Bát Nhã bị đọa từ hết địa ngục lớn này sang địa ngục lớn khác.

Đến khi thế giới này bị kiếp thủy, hỏa, phong khởi lên, do ác nghiệp nặng của bọn ấy chưa hết, nên sau khi qua đời thọ sanh ở thế giới khác, tiếp tục bị đọa vào địa ngục lớn giống như trước để chịu khổ cực suốt trăm ngàn năm. Vì bọn kia tội nặng nên ở thế giới phương khác vẫn bị lưu đày hết địa ngục lớn này đến địa ngục lớn khác, cho đến khi kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong xảy đến nữa.

Cứ luân hồi như vậy vô số kiếp cho đến khi năng lực của nghiệp tội hủy báng Chánh pháp yếu dần, vừa được ra khỏi địa ngục lại đọa làm loài bàng sanh. Xoay chuyển như trước, hết cõi này đến phương khác, nhiều kiếp luân hồi chịu các thứ khổ.

Khi năng lực của nghiệp tội hủy báng Chánh pháp yếu dần, bọn ấy mới thoát khỏi loài bàng sanh, nhưng lại đọa vào loài quỷ, hết cõi này đến phương khác, xoay chuyển luân hồi trải qua vô số kiếp chịu đủ mọi thống khổ.

Cuối cùng khi thế lực của nghiệp hủy báng Chánh pháp sắp hết, họ mới ra khỏi quỷ giới, được sanh vào cõi người. Tuy được làm người nhưng thuộc hàng hạ tiện: Mù điếc, câm ngọng, nghèo cùng, xấu xí, ngu muội… bị người đời khinh chê. Dù sanh đến chỗ nào cũng khổ nhiều vui ít, không được nghe đến danh hiệu Phật, Pháp, Tăng. Vì sao? Vì ác nghiệp phỉ báng Tam bảo nên phải chuốc lấy đủ loại quả khổ như vậy.

 

Kết kuận:

 

Ở cõi Diêm phù đề này nếu bị nghiệp vô gián sẽ thác sinh địa ngục A tỳ, chịu biết bao hình phạt khủng khiếp, không bao giờ gián đoạn. Nhưng so với tội chống Chánh pháp, đả kích Đại thừa và hủy báng Bát nhã Ba la mật thì chẳng thấm thía gì. Người mang tội hủy báng bị đọa hết đại địa ngục này sang đại địa ngục khác, từ thế giới này sang thế giới khác, cho đến khi tội nghiệp mỏng dần mới được sanh vào cõi súc sinh, ngạ quỷ, cuối cùng mới được sanh vào cõi người… nhưng phải làm người hạ tiện, năm căn khiếm khuyết, ngu si, đần độn… bị mọi người khinh chê hủy nhục như đã nói trên.

Tội hủy báng hay khinh chê Bát Nhã như thế còn hơn 5 tội vô gián. Biết như thế nên tránh “vạ miệng” để khỏi bị lưu đày ghê gớm như đã nói trên. Phải tự mình răn đe và cũng phải vì người khác mà khuyên bảo./.

 

---o0o---

 

 


 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/12/2014(Xem: 16249)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
24/11/2014(Xem: 17916)
Tập sách nhỏ “Du-già Tây Tạng, Giáo Lý và Tu Tập” này được dịch từ bản văn tiếng Anh có nhan đề là “Teachings of Tibetan Yoga” do Giáo sư Garma C. C. Chang – giảng sư của Tu viện Kong Ka ở miền Đông Tây Tạng khoảng trước năm 1950 – biên dịch từ Hoa ngữ, do nhà xuất bản Carol Publishing Group ấn hành năm 1993 tại New York, Hoa Kỳ.
18/08/2014(Xem: 26031)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn và đã được in chung với bảng thuật ngữ tra cứu thành một Phụ lục đính kèm theo toàn bộ kinh, xuất bản trong năm 2009.
18/08/2014(Xem: 23090)
Tôi nghe như thế này: Một thuở nọ, đức Phật ngự tại thành Tỳ-da-ly, trong vườn cây Am-la với chúng đại tỳ-kheo là tám ngàn người, Bồ Tát là ba mươi hai ngàn vị mà ai ai cũng đều biết đến, đều đã thành tựu về đại trí và bổn hạnh. Oai thần mà chư Phật đã gầy dựng được, chư Bồ Tát ấy nương vào đó mà hộ vệ thành trì đạo pháp. Các ngài thọ lãnh giữ gìn Chánh pháp, có thể thuyết pháp hùng hồn như tiếng sư tử rống, danh tiếng các ngài bay khắp mười phương. Chẳng đợi sự thỉnh cầu giúp đỡ mà các ngài tự mang sự an ổn đến cho mọi người. Các ngài tiếp nối làm hưng thạnh Tam bảo, khiến cho lưu truyền chẳng dứt.
18/08/2014(Xem: 27020)
Tôi nghe như thế này: Có một lúc đức Phật tại thành Vương Xá, núi Kỳ-xà-quật, cùng với sáu mươi hai ngàn vị đại tỳ-kheo. Các vị đều là những bậc A-la-hán đã dứt sạch lậu hoặc, không còn sinh khởi các phiền não, mọi việc đều được tự tại, tâm được giải thoát, trí huệ được giải thoát, như các bậc đại long tượng khéo điều phục. Các ngài đã làm xong mọi việc cần làm, buông bỏ được gánh nặng, tự thân đã được sự lợi ích, dứt hết mọi chấp hữu, đạt trí huệ chân chánh nên tâm được tự tại. Hết thảy các ngài đều đã được giải thoát, chỉ trừ ngài A-nan. Trong pháp hội có bốn trăm bốn mươi vạn Bồ Tát, đứng đầu là Bồ Tát Di-lặc. Các vị đều đã đạt được các pháp nhẫn nhục, thiền định, đà-la-ni. Các ngài hiểu sâu ý nghĩa các pháp đều là không và hoàn toàn không có tướng nhất định. Các vị đại sĩ như thế đều là những bậc không còn thối chuyển trên đường tu tập.
18/08/2014(Xem: 18567)
Sách Liên Tông Bảo Giám nói rằng: “Tâm thể chính là cõi Cực Lạc trải khắp mười phương. Tự tánh là đức Di-đà tròn đầy trí giác. Mầu nhiệm ứng theo thanh sắc nơi ngoại cảnh, tỏa sáng nơi tự tâm. Bởi vậy, bỏ mê vọng liền về chân thật, thẳng lìa trần ai tức là giác ngộ.” “Thuở trước ngài Pháp Tạng phát lời nguyện lớn, khai mở con đường nhiệm mầu sang Cực Lạc. Cho nên đức Thế Tôn mới chỉ về phương Tây mà dạy cho bà Vi-đề-hy biết rõ cõi diệu huyền. Khi ấy, mười phương chư Phật đều hiện tướng lưỡi rộng dài mà xưng tán. Nên báo trước rằng khi các kinh khác đều đã mất, sẽ chỉ riêng lưu lại bộ kinh A-di-đà.
18/08/2014(Xem: 20361)
Cuốn sách này được biên soạn chủ yếu dựa vào một cuốn sách bằng tiếng Tây Tạng có nhan đề là Bardo Thődol, trước đây được một vị Lạt-ma Tây Tạng là Kazi Dawa Samdup dịch sang tiếng Anh, nhan đề là The Tibetian Book of the Dead, với lời bình giải của Hòa thượng Chőgyam Trungpa. Sau đó đã có thêm bản tiếng Pháp của bà Marguerite La Fuente, dịch lại từ bản tiếng Anh. Chúng tôi đã sử dụng phần lớn bản dịch tiếng Việt của dịch giả Nguyên Châu, cũng được dịch từ bản tiếng Anh.
18/08/2014(Xem: 17428)
Tập sách này là phần tinh yếu của giáo pháp mật truyền thuộc Mật tông Tây Tạng, được Đại sư ORGYEN KUSUM LINGPA giảng giải thật chi tiết và rõ ràng. Sách đề cập đến các giai đoạn tu tập và chuẩn bị cho giai đoạn thân trung ấm (bardo), tức là giai đoạn quyết định sự tái sinh của mỗi chúng sinh.
18/08/2014(Xem: 58372)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay. Thật vậy tư tưởng của Ngài có thể biểu trưng cho toàn thể lòng từ bi và trí tuệ Phật Giáo trên một hành tinh mà con người dường như đã mất hết định hướng. Các sự xung đột không hề chấm dứt, con người bóc lột con người, giết hại muôn thú và tàn phá thiên nhiên. Phật giáo thường được coi như là một tín ngưỡng nhưng những lời khuyên của Đức Đạt-lai Lạt-ma trong quyển sách này vượt lên trên khuôn khổ hạn hẹp của một tôn giáo: - "Mỗi khi phải đề cập đến các vấn đề tâm linh thì không nhất thiết là tôi buộc phải nói đến các vấn đề liên quan đến tôn giáo (câu 87).
17/08/2014(Xem: 21529)
Tập sách này trong nguyên ngữ Tây Tạng được biên soạn từ quyển Truyền thuyết về 84 vị Thánh tăng (Grub thob brgyad bcu tsa bzhi’i lo rgyus) do ngàiMondup Sherab ghi chép từ lời kể của ngài Abhayadatta Sri (thế kỷ 12th) và quyển Tâm chứng của 84 vị Thánh tăng (Grub thob brgyad bcu rtogs pa’i snying po rdo rje’i lu) của ngài Vira Prakash, đã được Keith Dowman và Bhaga Tulku Pema Tenzin dịch sang Anh ngữ. Phần giới thiệu và các chú giải, nhận xét là củaKeith Dowman, hình minh họa là của H. R. Downs. Sách đã được phát hành tại Hoa Kỳ vào năm 1985 (The State University of New York Press, Albany, NY., 1985) với độ dày 454 trang. Sách cũng đã từng được dịch sang tiếng Đức vào năm 1991 với nhan đề Die Meister der Mahamudra (Diederichs, Munchen, 1991). Bản dịch Việt ngữ được giới thiệu lần này là của Nguyên Thạnh Lê Trung Hưng, được dịch từ bản tiếng Anh Masters of Mahamudra of the Eighty-four Buddhist Siddhas của Keith Dowman.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]