Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

20. Phẩm “Siêu Thắng” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

09/08/202015:58(Xem: 9142)
20. Phẩm “Siêu Thắng” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thin Bu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***



2.20.Siêu Thắng-QT

PHẨM “SIÊU THẮNG”

Cuối quyển 417 đến đầu quyển 418, Hội thứ II.

(Tương đương phẩm “Khen Đại Thừa”, phần sau quyển 56 - 61, Hội thứ I, ĐBN)

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước






 

 

Gợi ý:

Phẩm “Siêu Thắng”(siêu vượt lên hết thảy) của Hội thứ II, ĐBN so với phẩm “Thắng Xuất”(Vượt Lên Tất Cả) của Kinh MHBNBLMĐ chỉ là một. Phẩm tựa có khác nhưng nội dung không khác. Đọc một phẩm là hiểu cả hai.

 

Tóm lược:

 

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Nói Đại thừa, Đại thừa là vượt hơn tất cả trời, người, A tu la v.v... là tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu. Đại thừa như vậy bằng với hư không, cũng như hư không có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Đại thừa cũng vậy, có thể dung nạp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Do nhân duyên này nên Đại thừa tức là Nhất thiết trí trí. Lại như hư không không đến, không đi, không trụ có thể thấy. Đại thừa cũng không đến, không đi, không trụ có thể thấy… nên gọi là Đại thừa. Lại như khoảng trước, khoảng sau, khoảng giữa của hư không đều bất khả đắc. Đại thừa cũng vậy, khoảng trước, khoảng sau, khoảng giữa đều bất khả đắc. Ba đời bình đẳng nên gọi là Đại thừa?

 

(Thời trước không, thời giữa không, thời sau cũng không. Đại thừa, Bát Nhã, Nhất thiết trí, hư không cũng không. Không với không chẳng khác nhau, nên nói là bình đẳng).

 

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.

Này Thiện Hiện! Đại thừa của tất cả Bồ Tát là: Sáu Ba la mật, tức là bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Đại thừa nghĩa là pháp không nội cho đến pháp không vô tánh tự tánh. Đại thừa là tất cả Đà la ni môn, Tam ma địa môn, tức là Kiện hành Tam ma địa cho đến Vô nhiễm trước như hư không Tam ma địa. Đại thừa của tất cả Bồ Tát là bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Thiện Hiện! Có vô lượng, vô số, vô biên công đức Đại thừa như vậy, nên biết.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ông nói Đại thừa vượt hơn tất cả trời, người, A tu la v.v... trong thế gian là tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu. Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Thiện Hiện! Những gì trong thế gian được gọi là tất cả trời, người, A tu la v.v..., đó chính là Dục, Sắc, Vô sắc giới.

Này Thiện Hiện! Nếu Dục giới là chơn như chẳng hư dối, không biến khác, chẳng điên đảo là thật, là chắc như sở hữu tánh, tất cả thường hằng không biến không đổi, có thật tánh ấy, thời Đại thừa đây chẳng tôn, chẳng thắng, chẳng thượng, chẳng diệu, chẳng năng vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v...  Nhưng vì cõi Dục là sở chấp, là giả hợp, có dời động, cho đến tất cả không thường không hằng, có biến có đổi, đều không thật tánh, nên Đại thừa đây là tôn là thắng là thượng là diệu, vượt hơn tất cả thế gian trời người, A tu la v.v…

Này Thiện Hiện! Nếu cõi Sắc, Vô sắc là chơn như chẳng hư dối, không biến khác, chẳng điên đảo là thật, là chắc như sở hữu tánh, tất cả thường hằng không biến không đổi, có thật tánh ấy, thời Đại thừa đây chẳng tôn, chẳng thắng, chẳng thượng, chẳng diệu, chẳng năng vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v...  Nhưng vì cõi Sắc, Vô sắc là sở chấp, là giả hợp, có dời động, cho đến tất cả không thường không hằng, có biến có đổi, đều không thật tánh, nên Đại thừa đây là tôn là thắng là thượng là diệu, vượt hơn tất cả thế gian trời người, A tu la v.v…

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu sắc, thọ tưởng, hành, thức là chơn như chẳng hư dối, không biến khác, chẳng điên đảo là thật là chắc như sở hữu tánh, tất cả thường hằng không biến không đổi, có thật tánh ấy, thời Đại thừa đây chẳng tôn, chẳng thắng, chẳng thượng, chẳng diệu, chẳng năng vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v... Nhưng vì ngũ uẩn là sở chấp, là giả hợp, có dời động, cho đến tất cả không thường không hằng, có biến có đổi, đều không thật tánh, nên Đại thừa đây là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả thế gian trời người, A tu la v.v…

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu mười hai xứ, mười tám giới là chơn như chẳng hư dối, không biến khác, chẳng điên đảo là thật, là chắc như sở hữu tánh, tất cả thường hằng không biến không đổi, có thật tánh ấy, thời Đại thừa đây chẳng tôn, chẳng thắng, chẳng thượng, chẳng diệu, chẳng năng vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v...  Nhưng vì mười hai xứ, mười tám giới là sở chấp, là giả hợp, có dời động, cho đến tất cả không thường không hằng, có biến có đổi, đều không thật tánh, nên Đại thừa đây là tôn là thắng là thượng là diệu, vượt hơn tất cả thế gian trời người, A tu la v.v…

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu pháp giới là thật có(thật pháp), chẳng phải không có(phi pháp), thời Đại thừa đây chẳng tôn, chẳng thắng, chẳng thượng, chẳng diệu, chẳng năng vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v...  Thiện Hiện! Vì pháp giới chẳng thật có, là tánh phi hữu, nên Đại thừa đây là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v... Thiện Hiện! Nếu chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới thảy là thật có, chẳng phải không có, thời Đại thừa đây chẳng tôn, chẳng thắng, chẳng thượng, chẳng diệu, chẳng năng vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v... Thiện Hiện! Vì chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới thảy chẳng thật có, là tánh phi hữu, nên Đại thừa đây là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v...

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu bố thí Ba la mật là thật có, chẳng phải không có, thời Đại thừa đây chẳng tôn, chẳng thắng, chẳng thượng, chẳng diệu, chẳng năng vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v... Thiện Hiện! Vì bố thí Ba la mật chẳng thật có, là tánh phi hữu, nên Đại thừa đây là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v… Thiện Hiện! Nếu tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát Nhã là thật có, chẳng phải không có, thời Đại thừa đây chẳng tôn, chẳng thắng, chẳng thượng, chẳng diệu, chẳng năng vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v... Thiện Hiện! Vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát Nhã chẳng thật có, là tánh phi hữu, nên Đại thừa đây là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v... 

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu nội không là thật có, chẳng phải không có, thời Đại thừa đây chẳng tôn, chẳng thắng, chẳng thượng, chẳng diệu, chẳng năng vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v... Thiện Hiện! Vì nội không chẳng thật có, là tánh phi hữu, nên Đại thừa đây là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v… Thiện Hiện! Nếu ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa thông, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán vô tán không, bổn tánh không, tự cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không là thật có, chẳng phải không có, thời Đại thừa đây chẳng tôn, chẳng thắng, chẳng thượng, chẳng diệu, chẳng năng vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v... Thiện Hiện! Vì ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không chẳng thật có, là tánh phi hữu, nên Đại thừa đây là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v...

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu 37 pháp trợ đạo cho đến nếu Phật mười lực là thật có, chẳng phải không có, thời Đại thừa đây chẳng tôn, chẳng thắng, chẳng thượng, chẳng diệu, chẳng năng vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v… Thiện Hiện! Vì Phật mười lực chẳng thật có(tức vô pháp), là tánh phi hữu, nên Đại thừa đây là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v… Thiện Hiện! Nếu bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là thật có, chẳng phải không có, thời Đại thừa đây chẳng tôn, chẳng thắng, chẳng thượng, chẳng diệu, chẳng năng vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la thảy. Thiện Hiện! Vì bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng thật có, là tánh phi hữu, nên Đại thừa đây là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v… (Q.417, ĐBN)

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu pháp Chủng tánh là thật có, chẳng phải không có, thời Đại thừa đây chẳng tôn, chẳng thắng, chẳng thượng, chẳng diệu, chẳng năng vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v… Thiện Hiện! Vì pháp Chủng tánh chẳng thật có, là tánh phi hữu, nên Đại thừa đây là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v… Thiện Hiện! Nếu pháp Đệ bát, pháp Dự lưu, pháp Nhất Lai, pháp Bất hoàn, pháp A la hán, pháp Độc giác, pháp Bồ Tát, pháp Như Lai là thật có, chẳng phải không có, thời Đại thừa đây chẳng tôn, chẳng thắng, chẳng thượng, chẳng diệu, chẳng năng vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v… Thiện Hiện! Vì pháp Đệ bát cho đến pháp Như Lai chẳng thật có, là tánh phi hữu, nên Đại thừa đây là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v… (Q.418, ĐBN)

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu bổ đặc già la Chủng tánh là thật có, chẳng phải không có, thời Đại thừa đây chẳng tôn, chẳng thắng, chẳng thượng, chẳng diệu, chẳng năng vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v… Thiện Hiện! Vì bổ đặc già la chẳng thật có, là tánh phi hữu, nên Đại thừa đây là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v… Thiện Hiện! Nếu bổ đặc già la Đệ bát, Dự lưu, Nhất Lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ Tát, Như Lai là thật có, chẳng phải không có, thời Đại thừa đây chẳng tôn, chẳng thắng, chẳng thượng, chẳng diệu, chẳng năng vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v… Thiện Hiện! Vì bổ đặc già la Đệ bát cho đến Như Lai chẳng thật có, là tánh phi hữu, nên Đại thừa đây là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v...

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v… là thật có, chẳng phải không có, thời Đại thừa đây chẳng tôn, chẳng thắng, chẳng thượng, chẳng diệu, chẳng năng, vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v… Thiện Hiện! Vì tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v… chẳng thật có, là tánh phi hữu, nên Đại thừa đây là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v…

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát từ sơ phát tâm cho đến ngồi yên tòa Bồ đề vi diệu, trong ấy đã vượt vô lượng các tâm, là thật có chẳng phải không có, thời Đại thừa đây chẳng tôn, chẳng thắng, chẳng thượng, chẳng diệu, chẳng năng vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v… Thiện Hiện! Vì Bồ Tát từ sơ phát tâm cho đến ngồi yên tòa Bồ đề, trong ấy đã vượt vô lượng các tâm chẳng thật có, là tánh phi hữu, nên Đại thừa đây là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v…

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Kim cương dụ Bồ Tát trí là thật có, chẳng phải không có, thời Đại thừa đây chẳng tôn, chẳng thắng, chẳng thượng, chẳng diệu, chẳng năng vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v… Thiện Hiện! Vì Kim cương dụ Bồ Tát trí chẳng thật có, là tánh phi hữu, nên Đại thừa đây là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v… Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Kim cương dụ Bồ Tát trí là thật có, chẳng phải chẳng có ấy, thời Bồ Tát chẳng nên dùng Kim cương dụ trí đây đạt tất cả pháp tự tánh đều không, dứt hẳn tất cả tập khí phiền não nối nhau, chứng được Nhất thiết trí trí; cũng chẳng năng vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v… Thiện Hiện! Vì Kim cương dụ Bồ Tát trí chẳng thật có, là tánh phi hữu, nên các Bồ Tát dùng Kim cương dụ trí đây đạt tất cả pháp tự tánh đều không, dứt hẳn tất cả tập khí phiền não, chứng được Nhất thiết trí trí, cũng năng vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v…

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi tùy hảo để trang nghiêm thân là thật có, chẳng phải không có, thời uy quang diệu đức các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng năng vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v… Thiện Hiện! Vì các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi tùy hảo để trang nghiêm thân chẳng thật có, là tánh phi hữu, nên uy quang diệu đức các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v…

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác phóng ra quang minh là thật có, chẳng phải không có, thời các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác phóng ra quang minh chẳng năng soi khắp mười phương cõi đều như cát sông Hằng; cũng chẳng năng vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v… Thiện Hiện! Vì các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác phóng ra quang minh chẳng thật có, là tánh phi hữu, nên các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác phóng ra quang minh đều năng soi khắp mười phương cõi đều như cát sông Hằng; cũng năng vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v…

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quay xe pháp là thật có, chẳng phải không có, thời các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã quay xe pháp chẳng rất thanh tịnh; cũng chẳng phải tất cả thế gian Sa môn, Ba la môn thảy chẳng thể quay được; cũng chẳng năng vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v… Thiện Hiện! Vì các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã quay xe pháp chẳng thật có, là tánh phi hữu, nên các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã quay xe pháp rất tột thanh tịnh, tất cả thế gian Sa môn, Bà la môn thảy đều không có ai năng quay xe pháp; cũng năng vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v…

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác sở hóa chúng sanh(1) là thật có, chẳng phải không có, thời các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã quay xe pháp chẳng năng khiến các loại hữu tình kia đối cõi Vô dư y Niết bàn vi diệu mà vào Niết bàn; cũng chẳng năng vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v… Thiện Hiện! Vì các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác sở hóa chúng sanh chẳng thật có, là tánh phi hữu, nên các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã quay xe pháp đều năng khiến các loại hữu tình kia đối cõi Vô dư y Niết bàn vi diệu mà vào Niết bàn; cũng năng vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v…

Thiện Hiện! Do tất cả nhân duyên như thế nên nói Đại thừa là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v...

 

Thích nghĩa:

(1). Sở hóa chúng sanh: 所化, Phạn: Vinìta. Đối lại: Năng hóa. Chỉ cho đối tượng được giáo hóa. Trong 3 loại thế gian nêu trong Hoa nghiêm Kinh thám huyền ký quyển 7 thì Trí chính giác thế gian của Thập Phật là Năng hóa, còn Chúng sanh thế gian thì là sở hóa. (X. Kinh Cầu giải trong Trung a hàm Q.48; phẩm Thí dụ Kinh Pháp hoa Q.2; Phật địa Kinh luận Q.7; luận Thi thiết Q.6). - Phật Quang tự điển.

 

Sơ giải:

 

Tất cả phẩm này nằm trong câu nói của Thiện Hiện:

Nói Đại thừa, Đại thừa là vượt hơn tất cả trời, người, A tu la v.v... là tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu. Đại thừa như vậy bằng với hư không, cũng như hư không có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Đại thừa cũng vậy, có thể dung nạp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Do nhân duyên này nên Đại thừa tức là Nhất thiết trí trí. Lại như hư không không đến, không đi, không trụ có thể thấy. Đại thừa cũng không đến, không đi, không trụ có thể thấy… nên gọi là Đại thừa. Lại như khoảng trước, khoảng sau, khoảng giữa của hư không đều bất khả đắc. Đại thừa cũng vậy, khoảng trước, khoảng sau, khoảng giữa đều bất khả đắc. Ba đời bình đẳng nên gọi là Đại thừa”.

Đoạn kinh này thường được lặp đi lặp lại nhiều lần về những đặc tánh của Đại thừa cũng như hư không. Các Kinh Luận không những thường lấy hư không làm thí dụ để so sánh với Đại thừa, mà Kinh Luận cũng lấy hư không so sánh với Bát nhã Ba la mật và Nhất thiết trí trí. Cả hai kinh ĐBN và MHBNBLMĐ đều cùng diễn tả như vậy.

Kinh MHBNBLMĐ có một phẩm đặc biệt nói về hư không mà Đại Trí Độ Luận gọi là “Đẳng Không”, diễn tả hư không như sau:

“Này Tu Bồ Đề! Đúng như lời ông nói, hư không dung thọ vô lượng, vô biên chúng sanh; Ma Ha Diễn(tức Đại thừa) cũng như vậy, dung thọ vô lượng, vô biên chúng sanh.

Đúng như vậy. Chúng sanh là vô sở hữu, nên hư không cũng vô sở hữu; hư không vô sở hữu nên Ma Ha Diễn cũng vô sở hữu. Bởi vậy, nên nói Ma Ha Diễn dung thọ vô lượng, vô biên chúng sanh. Vì sao? Vì chúng sanh, hư không, Ma Ha Diễn, cùng hết thảy các pháp đều là vô sở hữu, là bất khả đắc cả.

Lại nữa, ngã vô sở hữu,… dẫn đến tri giả, kiến giả cũng đều là vô sở hữu. Bởi vậy, nên như pháp tánh thật tế cũng đều vô sở hữu… dẫn đến vô lượng, vô biên pháp cũng đều là vô sở hữu cả. Vì sao? Vì hết thảy các pháp đều do duyên hoà hợp mà có.

Này Tu Bồ Đề! Ma Ha Diễn dung thọ vô lượng, vô biên chúng sanh. Vì sao? Vì chúng sanh bất khả đắc, dẫn đến tri giả, kiến giả,… thật tế, cùng vô lượng, vô biên pháp đều bất khả đắc.

Lại nữa, ngã vô sở hữu, dẫn đến tri giả, kiến giả vô sở hữu. Bất khả tư nghì tánh cũng vô sở hữu, nên hư không vô sở hữu, Ma Ha Diễn vô sở hữu, dẫn đến vô lượng, vô biên pháp cũng đều vô sở hữu.

Này Tu Bồ Đề ! Ma Ha Diễn dung thọ vô lượng, vô biên chúng sanh. Vì sao? Vì ngã và chúng sanh bất khả đắc, dẫn đến vô lượng, vô biên pháp cũng đều bất khả đắc.

Lại nữa, ngã và chúng sanh vô sở hữu, nên nhãn dẫn đến ý vô sở hữu. Nhãn dẫn đến ý vô sở hữu, nên hư không vô sở hữu, Ma Ha Diễn vô sở hữu, dẫn đến vô lượng, vô biên pháp cũng đều vô sở hữu.

Này Tu Bồ Đề! Ma Ha Diễn dung thọ vô lượng, vô biên chúng sanh. Vì sao? Vì ngã và chúng sanh bất khả đắc, dẫn đến vô lượng, vô biên pháp cũng đều bất khả đắc.

Lại nữa, ngã và chúng sanh vô sở hữu, dẫn đến tri giả, kiến giả vô sở hữu, nên nội không vô sở hữu, dẫn đến vô pháp không vô sở hữu. Vô pháp hữu pháp không vô sở hữu, nên hư không vô sở hữu, Ma Ha Diễn vô sở hữu, dẫn đến vô lượng, vô biên pháp cũng đều vô sở hữu.

Này Tu Bồ Đề! Ma Ha Diễn dung thọ vô lượng, vô biên chúng sanh. Vì sao? Vì ngã và chúng sanh bất khả đắc, dẫn đến vô lượng, vô biên pháp cũng đều bất khả đắc.

Lại nữa, ngã và chúng sanh vô sở hữu, dẫn đến tri giả, kiến giả vô sở hữu, nên niệm bốn xứ vô sở hữu dẫn đến mười tám bất cộng pháp vô sở hữu. Bốn niệm xứ dẫn đến mười tám bất cộng pháp vô sở hữu (hay nói rộng ra, tất cả pháp Phật), nên hư không vô sở hữu, Ma Ha Diễn vô sở hữu, dẫn đến vô lượng, vô biên pháp cũng đều vô sở hữu”.

Nói tóm lại, hư không có đặc tính gì thì Đại thừa, Bát nhã Ba la mật, Nhất thiết trí trí cũng có đặc tính như vậy. Hư không rộng lớn bao la dung nạp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình thì Đại thừa, Bát nhã Ba la mật, Nhất thiết trí trí cũng như vậy dung nạp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Đại thừa, Bát nhã Ba la mật, Nhất thiết trí trí bao dung quảng đại như hư không. Vì vậy, cả ba mới có thể bảo hộ, che chở cho tất cả thế gian, trời, người, A tu la...

 

--o0o--

 

Lại nữa, trong phẩm này Phật bảo: “Nếu tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v… là thật có, chẳng phải không có, thời Đại thừa đây chẳng tôn, chẳng thắng, chẳng thượng, chẳng diệu, chẳng năng, vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v… Thiện Hiện! Vì tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v… chẳng thật có(vô pháp), là tánh phi hữu, nên Đại thừa đây là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v…”

Kinh MHBNBLMĐ, phẩm “Xuất Thắng” tương đương với phẩm “Siêu Thắng” của Kinh ĐBN, Phật cũng nói:Này Tu Bồ Đề! Nếu sắc… dẫn đến thức, sắc… dẫn đến pháp, nhãn… dẫn đến ý, nhãn thức… dẫn đến ý thức, nhãn xúc… dẫn đến ý xúc, nhãn xúc nhân duyên sanh thọ… dẫn đến ý xúc nhân duyên sanh thọ là thật có, là thường hằng, là bất hoại, chẳng phải là hư vọng, chẳng phải là điên đảo, chẳng phải là vô pháp, thì Ma Ha Diễn chẳng có thể thắng xuất hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La được.

Bởi sắc… dẫn đến thức, sắc… dẫn đến pháp, nhãn dẫn đến ý, nhãn thức… dẫn đến ý thức, nhãn xúc… dẫn đến ý xúc, nhãn xúc nhân duyên sanh thọ… dẫn đến ý xúc nhân duyên sanh thọ là hư vọng, là ức tưởng, là hòa hợp, là danh tự, là vô thường, là tán hoại, là vô pháp, nên Ma Ha Diễn thắng xuất hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La.

Này Tu Bồ Đề! Nếu như pháp tánh thật tế, bất khả tư nghì tánh là hữu pháp (thật pháp), chẳng phải là vô pháp (pháp chẳng có), thì Ma Ha Diễn chẳng có thể thắng xuất hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La được”.

Nhiều thí dụ như vậy được diễn tả từ trên xuống dưới, Kinh nói Đại thừa so với tất cả pháp đều không thật có, chỉ giả thi thiết, chỉ có danh tướng, tánh phi hữu… Vậy nên, Đại thừa mới được xem là tôn, là thắng, là thượng, là diệu, vượt hơn tất cả thế gian trời, người, A tu la v.v... Do đó, phẩm này mới xưng tụng Đại thừa là “siêu thắng”.

Nên, Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ 22, “Thắng Xuất”, tập 3, quyển 51, giải thích rằng:

“Do nghiệp lực mới có năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới… dẫn đến mới có xúc, có thọ. Nếu các pháp thế gian nầy đều là hữu pháp, đều chẳng phải là vô pháp, thì Ma Ha Diễn chẳng có thể thắng xuất thế gian được. Nhưng bởi các pháp thế gian đều là vô pháp, là phi pháp nên Ma Ha Diễn thắng xuất hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La vậy”.

 

--o0o--

 

Vã lại, người thế gian thường phân biệt hay chấp, nên mới có cái nhìn lệch lạc về hư không. Bởi vậy, Đại Trí Độ Luận mới nói rằng:

“Do phàm phu chấp “sắc pháp” có tướng, nên mới phân biệt “sắc pháp” với “tâm pháp”. Rồi từ đó, khởi sanh ý niệm về trú xứ vậy. Lại do chấp “sắc xứ” mà khởi chấp có hư không.

Nên biết tánh của hư không là dung thọ. Trái với hư không là sắc, cũng như trái với vô minh là minh vậy. Chỗ nào chẳng có vô minh, thì minh hiện ra; chỗ nào chẳng có khổ là có lạc. Cũng như vậy, chỗ nào chẳng có sắc, là có hư không.

Tâm và tâm sở chẳng có nghĩa dung thọ, như tà kiến chẳng dung thọ chánh kiến vậy. Còn tánh của hư không là dung thọ hết thảy các vật.

Tâm và tâm sở có sanh, có diệt khiến người tu hành có thể tu đoạn được các chấp đó. Còn hư không chẳng phải như vậy, vì hư không là trường tồn, là chẳng có đoạn diệt.

Bởi vậy nên, mặc dù tâm và tâm sở cũng là vô sắc vô hình như hư không, nhưng vẫn khác với hư không. Tâm và tâm sở chẳng dung thọ vạn vật, còn hư không thì dung thọ tất cả”.

Đại thừa, Bát Nhã và Nhất thiết trí trí cũng lại như thế. Vì vậy, nói hư không cũng như Đại thừa, Bát nhã ba la mật, Nhất thiết trí trí dung thọ tất cả.

 

--o0o--

 

Điểm quan trọng cần nêu ra đây để hiểu Đại thừa, hư không, Bát Nhã và Nhất thiết trí trí. Tất cả pháp đều do duyên hợp, do đối đãi nương tựa nhau mà có hình sắc như các lau sậy gác vào nhau tạo hình sắc, tựa như có mà không thật(1), nên nói “giả có tức không”. Vì do đối đãi với “sắc” mà nói có “hư không”. Như vậy hư không cũng là tác pháp, chẳng phải là chân pháp, nên nói hư không là vô tướng, là bất khả đắc(2). Nên nói hư không chỉ là giả danh, không thật có. Tư tưởng này tràn đầy trong Đại Bát Nhã. Đại Trí Độ Luận giải thích rằng:

“Các pháp đều do duyên hoà hợp mà có, nên đều là hư dối. Chúng sanh do vô minh che tâm, mà khởi chấp có các pháp, chấp có sáu căn, sáu trần, sáu thức… Do điên đảo chấp như vậy mà tâm trí của chúng sanh bị mê mờ, nên Phật lấy hư không làm dụ để phá các chấp vi tế về có pháp (hữu pháp).

Do đối đãi với sắc mà nói có hư không, nhưng hư không cũng chỉ là giả danh, chẳng thật có. Cũng như vậy, do năm ấm hoà hợp mà giả danh có chúng sanh, nhưng chúng sanh là chẳng thật có. Chúng sanh cũng như hư không đều chẳng thật có, chẳng phải là định pháp. Ma Ha Diễn cũng như vậy.

Nếu chẳng có chúng sanh thì cũng chẳng có Bồ Tát, chẳng có Phật, dẫn đến chẳng có Ma Ha Diễn.

Bởi nhân duyên vậy, nên nói Ma Ha Diễn dung thọ vô lượng vô biên chúng sanh. Vì sao? Vì nếu Ma Ha Diễn là hữu pháp thì chẳng thể dung thọ vô lượng vô biên chúng sanh được. Do vì Ma Ha Diễn là vô pháp, là phi pháp nên mới dung thọ vô lượng vô biên chúng sanh.

Hỏi: Nếu hư không là chẳng thật có, thì làm sao có thể lấy hư không làm dụ, làm sao có thể ví Ma Ha Diễn với hư không dung thọ vô lượng vô biên chúng sanh được?

Đáp: Phật nói “Ma Ha Diễn là tánh không, vô lượng vô biên chúng sanh là tánh không, hết thảy các pháp cũng là tánh không”.

Bởi nhân duyên như vậy, nên Ma Ha Diễn có thể dung thọ vô lượng vô biên chúng sanh. Vì sao? Vì hư không, Ma Ha Diễn, dẫn đến hết thảy chúng sanh đều là bất khả đắc cả”.

Nhưng nói đi phải nói lại, có thuận mới có nghịch hay ngược lại. Nhưng Thuận nghịch chỏi nhau thì sanh bệnh. Nếu thuận nghịch không chỏi nhau thì thấy đạo. Nên, Đại Trí Độ Luận nói rằng:

“Lại cũng nên biết Sự và Tướng chẳng rời nhau. Nếu chẳng có chúng sanh thì chẳng có pháp, và ngược lại, nếu chẳng có pháp thì cũng chẳng có chúng sanh.

Trước nói về tổng tướng là nói hết thảy pháp đều không, sau nói về biệt tướng là nói về pháp không, pháp như, pháp tánh, thật tế…

Như vậy là trước sau đều trình bày “diệu pháp”. Vì sao? Vì nói các pháp là không, có nghĩa nói hết thảy các pháp, ở nơi bất khả tư nghì tánh đều là diệu pháp cả. Dẫn đến Vô Dư Niết Bàn tánh cũng như vậy”./.

Đây là một đoạn luận hết sức quan trọng để hiểu về Đại thừa, Bát Nhã và Hư không. Trong HỮU có VÔ, trong VÔ có HỮU, khi nào siêu vượt CÓ KHÔNG thì mới thấy Đạo. Cũng vậy, trong LÝ có SỰ, trong SỰ có LÝ. LÝ SỰ viên dung vô ngại là thấy Đạo. Đó là cái thấy trùng trùng duyên khởi của “Hoa nghiêm”.

Thích nghĩa cho phần lược giải:

(1). Kinh Lăng Nghiêm.

(2). Đại Trí Độ Luận.

 

---o0o---

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/12/2014(Xem: 16249)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
24/11/2014(Xem: 17916)
Tập sách nhỏ “Du-già Tây Tạng, Giáo Lý và Tu Tập” này được dịch từ bản văn tiếng Anh có nhan đề là “Teachings of Tibetan Yoga” do Giáo sư Garma C. C. Chang – giảng sư của Tu viện Kong Ka ở miền Đông Tây Tạng khoảng trước năm 1950 – biên dịch từ Hoa ngữ, do nhà xuất bản Carol Publishing Group ấn hành năm 1993 tại New York, Hoa Kỳ.
18/08/2014(Xem: 26031)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn và đã được in chung với bảng thuật ngữ tra cứu thành một Phụ lục đính kèm theo toàn bộ kinh, xuất bản trong năm 2009.
18/08/2014(Xem: 23090)
Tôi nghe như thế này: Một thuở nọ, đức Phật ngự tại thành Tỳ-da-ly, trong vườn cây Am-la với chúng đại tỳ-kheo là tám ngàn người, Bồ Tát là ba mươi hai ngàn vị mà ai ai cũng đều biết đến, đều đã thành tựu về đại trí và bổn hạnh. Oai thần mà chư Phật đã gầy dựng được, chư Bồ Tát ấy nương vào đó mà hộ vệ thành trì đạo pháp. Các ngài thọ lãnh giữ gìn Chánh pháp, có thể thuyết pháp hùng hồn như tiếng sư tử rống, danh tiếng các ngài bay khắp mười phương. Chẳng đợi sự thỉnh cầu giúp đỡ mà các ngài tự mang sự an ổn đến cho mọi người. Các ngài tiếp nối làm hưng thạnh Tam bảo, khiến cho lưu truyền chẳng dứt.
18/08/2014(Xem: 27020)
Tôi nghe như thế này: Có một lúc đức Phật tại thành Vương Xá, núi Kỳ-xà-quật, cùng với sáu mươi hai ngàn vị đại tỳ-kheo. Các vị đều là những bậc A-la-hán đã dứt sạch lậu hoặc, không còn sinh khởi các phiền não, mọi việc đều được tự tại, tâm được giải thoát, trí huệ được giải thoát, như các bậc đại long tượng khéo điều phục. Các ngài đã làm xong mọi việc cần làm, buông bỏ được gánh nặng, tự thân đã được sự lợi ích, dứt hết mọi chấp hữu, đạt trí huệ chân chánh nên tâm được tự tại. Hết thảy các ngài đều đã được giải thoát, chỉ trừ ngài A-nan. Trong pháp hội có bốn trăm bốn mươi vạn Bồ Tát, đứng đầu là Bồ Tát Di-lặc. Các vị đều đã đạt được các pháp nhẫn nhục, thiền định, đà-la-ni. Các ngài hiểu sâu ý nghĩa các pháp đều là không và hoàn toàn không có tướng nhất định. Các vị đại sĩ như thế đều là những bậc không còn thối chuyển trên đường tu tập.
18/08/2014(Xem: 18567)
Sách Liên Tông Bảo Giám nói rằng: “Tâm thể chính là cõi Cực Lạc trải khắp mười phương. Tự tánh là đức Di-đà tròn đầy trí giác. Mầu nhiệm ứng theo thanh sắc nơi ngoại cảnh, tỏa sáng nơi tự tâm. Bởi vậy, bỏ mê vọng liền về chân thật, thẳng lìa trần ai tức là giác ngộ.” “Thuở trước ngài Pháp Tạng phát lời nguyện lớn, khai mở con đường nhiệm mầu sang Cực Lạc. Cho nên đức Thế Tôn mới chỉ về phương Tây mà dạy cho bà Vi-đề-hy biết rõ cõi diệu huyền. Khi ấy, mười phương chư Phật đều hiện tướng lưỡi rộng dài mà xưng tán. Nên báo trước rằng khi các kinh khác đều đã mất, sẽ chỉ riêng lưu lại bộ kinh A-di-đà.
18/08/2014(Xem: 20361)
Cuốn sách này được biên soạn chủ yếu dựa vào một cuốn sách bằng tiếng Tây Tạng có nhan đề là Bardo Thődol, trước đây được một vị Lạt-ma Tây Tạng là Kazi Dawa Samdup dịch sang tiếng Anh, nhan đề là The Tibetian Book of the Dead, với lời bình giải của Hòa thượng Chőgyam Trungpa. Sau đó đã có thêm bản tiếng Pháp của bà Marguerite La Fuente, dịch lại từ bản tiếng Anh. Chúng tôi đã sử dụng phần lớn bản dịch tiếng Việt của dịch giả Nguyên Châu, cũng được dịch từ bản tiếng Anh.
18/08/2014(Xem: 17428)
Tập sách này là phần tinh yếu của giáo pháp mật truyền thuộc Mật tông Tây Tạng, được Đại sư ORGYEN KUSUM LINGPA giảng giải thật chi tiết và rõ ràng. Sách đề cập đến các giai đoạn tu tập và chuẩn bị cho giai đoạn thân trung ấm (bardo), tức là giai đoạn quyết định sự tái sinh của mỗi chúng sinh.
18/08/2014(Xem: 58372)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay. Thật vậy tư tưởng của Ngài có thể biểu trưng cho toàn thể lòng từ bi và trí tuệ Phật Giáo trên một hành tinh mà con người dường như đã mất hết định hướng. Các sự xung đột không hề chấm dứt, con người bóc lột con người, giết hại muôn thú và tàn phá thiên nhiên. Phật giáo thường được coi như là một tín ngưỡng nhưng những lời khuyên của Đức Đạt-lai Lạt-ma trong quyển sách này vượt lên trên khuôn khổ hạn hẹp của một tôn giáo: - "Mỗi khi phải đề cập đến các vấn đề tâm linh thì không nhất thiết là tôi buộc phải nói đến các vấn đề liên quan đến tôn giáo (câu 87).
17/08/2014(Xem: 21529)
Tập sách này trong nguyên ngữ Tây Tạng được biên soạn từ quyển Truyền thuyết về 84 vị Thánh tăng (Grub thob brgyad bcu tsa bzhi’i lo rgyus) do ngàiMondup Sherab ghi chép từ lời kể của ngài Abhayadatta Sri (thế kỷ 12th) và quyển Tâm chứng của 84 vị Thánh tăng (Grub thob brgyad bcu rtogs pa’i snying po rdo rje’i lu) của ngài Vira Prakash, đã được Keith Dowman và Bhaga Tulku Pema Tenzin dịch sang Anh ngữ. Phần giới thiệu và các chú giải, nhận xét là củaKeith Dowman, hình minh họa là của H. R. Downs. Sách đã được phát hành tại Hoa Kỳ vào năm 1985 (The State University of New York Press, Albany, NY., 1985) với độ dày 454 trang. Sách cũng đã từng được dịch sang tiếng Đức vào năm 1991 với nhan đề Die Meister der Mahamudra (Diederichs, Munchen, 1991). Bản dịch Việt ngữ được giới thiệu lần này là của Nguyên Thạnh Lê Trung Hưng, được dịch từ bản tiếng Anh Masters of Mahamudra of the Eighty-four Buddhist Siddhas của Keith Dowman.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]