Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Rèn luyện tâm

15/03/201407:13(Xem: 5784)
Rèn luyện tâm

Dalai_Lama (3)
RÈN LUYỆN TÂM
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Chuyển ngữ : Tuệ Uyển

Thật cần yếu để học hỏi và thành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc. Trong phạm vi Phật Giáo, việc làm quen thuộc, hay thiền tập, liên hệ đến sự chuyển hóa tích cực tâm, đấy là, sự loại trừ những phẩm chất khiếm khuyết và việc trau dồi những phẩm chất tích cực của nó.

Qua thiền tập, chúng ta có thể rèn luyện tâm chúng ta trong một cách như vậy mà những phẩm chất tiêu cực bị từ bỏ và những phẩm chất tích cực được phát sinh và nâng cao. Trong tổng quát, chúng ta nói về hai loại thiền tập: phân tích (quán) và nhất niệm (chỉ). Thứ nhất, đối tượng của thiền tập được đưa qua một tiến trình phân tích mà trong ấy chúng ta cố gắng để lập đi lập lại để đạt được sự quen thuộc với vấn đề đối tượng.

Khi hành giả đã đạt được một sự đối phó tốt đẹp nào đó về đối tượng thiền tập, tâm được làm cho tập trung trên nó mà không phân tích xa hơn nữa. Sự phối hợp của thiền phân tích và tập trung là một kỷ năng hiệu quả để làm quen thuộc với đối tượng của thiền tập, và vì thế giúp để rèn luyện tâm một cách thích đáng.

Chúng ta phải nhận ra tầm quan trọng của việc rèn luyện tâm. Nó sinh khởi từ sự kiện nền tảng rằng mỗi một người chúng ta bẩm sinh khát vọng hạnh phúc và không muốn khốn cùng. Đây là những đặc trưng tự nhiên của con người mà không cần phải được sáng tạo. Khát vọng này không sai. Câu hỏi là, chúng ta đạt được mục tiêu thân chứng hạnh phúc và lìa xa khốn khổ như thế nào?

Thí dụ, mục tiêu căn bản của rèn luyện là để đạt hạnh phúc và tránh khổ đau. Sự cố gắng cá nhân qua tiến trình rèn luyện để chúng ta có thể hưởng thụ một đời sống thành công và đầy đủ ý nghĩa. Với việc rèn luyện, chúng ta có thể tăng cường hạnh phúc và giảm thiểu khổ đau. Tuy nhiên, rèn luyện có nhiều phương pháp, và tất cả đều được hướng một cách căn bản đến việc rèn luyện và uốn nắn tâm. Tâm có năng lực đối với thân thể và lời nói, do thế, bất cứ sự rèn luyện nào về thân thể và lời nói phải bắt đầu với tâm ý. Nhưng trong một phương pháp khác, đối với bất cứ sự rèn luyện thân thể và lời nói xảy ra, trước nhất phải có một động cơ. Tâm thấy những thuận lợi của một sự rèn luyện như vậy và phát sinh sự thích thú trong ấy.

Mục tiêu của việc rèn luyện tâm là để làm cho cuộc sống của chúng ta hữu ích và đầy đủ ý nghĩa. Qua tiến trình rèn luyện tâm, chúng ta học hỏi nhiều thứ mới, và chúng ta cũng có thể nhận ra và xác định vô số nhược điểm hay những thứ có thể được tiêu trừ hay điều chỉnh. Bây giờ nhiệm vụ chúng ta là để khám phá những phương tiện và phương pháp có thể cho phép chúng ta loại trừ những gì sai lạc và tích lũy những điều kiện thuận lợi cho việc chuyển hóa tâm. Điều này là thiết yếu.

Trong đời sống hằng ngày của chúng ta, việc rèn luyện, tu tập, giúp chúng ta tìm ra những nhân tố cần thiết và có ích cho phép tăng tiến hạnh phúc. Trong tiến trình, chúng ta cũng có thể từ bỏ những nhân tố làm chúng ta khốn khổ. Vì vậy, qua rèn luyện, chúng ta hướng đến việc làm cho đời sống chúng ta hạnh phúc và đầy đủ ý nghĩa. Khi chúng ta nhìn vào đời sống chúng ta trong phạm vi xã hội, thì giáo dục có một vai trò sinh động để thực hiện.

Chúng ta hoạt động ra sao trong bất cứ một hoàn cảnh nào đấy lệ thuộc trên sự điều khiển thân thể, lời nói, và tâm ý của chúng ta? Vì tâm là thủ lĩnh, một tâm đạo đức nguyên tắc là cần yếu. Hạnh phúc hay sầu khổ trong đời sống phụ thuộc trên năng lực hay sự thông minh của tâm. Và những điều này tác động đời sống chúng ta thế nào thì cũng lệ thuộc trên tâm. Sự điểu khiển của thân thể, lời nói, tâm ý của chúng ta bây giờ cũng quyết định thể trạng của chúng ta trong tương lai. Điều này hóa ra cũng tùy thuộc trên thiên hướng của tâm.

Khi chúng ta sử dụng sai năng lực tinh thần, chúng ta làm nên những lỗi lầm và những hậu quả đau khổ bất toại. Trái lại, khi khả năng của tâm được khai thác một cách thiện nghệ, chúng ta tìm thấy những kết quả tích cực và hài lòng. Thể trạng tâm của chúng ta và tâm nhận thức những thứ khác nhau như thế nào ảnh hưởng đến chúng ta một cách rộng lớn. Do bởi sự kiểm soát mà họ có đối với tâm của họ, một số người nào đó có một ít phiền hà bởi những tình thế thất bại hay bất lợi. Đây là một thí dụ rõ ràng của vấn đề tại sao việc thuần hóa, hay rèn luyện tâm là rất quan trọng.

Đã lưu ý đến tầm quan trọng của việc rèn luyện tâm, chúng ta có thể tự hỏi tâm là gì? Nếu chúng ta hỏi họ, hầu hết mọi người sẽ trả lời bằng việc xoa đầu họ và rồi chỉ vào não bộ của họ. Điều này đúng một phần, bởi vì chúng ta đang nói một cách đặc biệt về tâm con người. Tâm con người không có bất cứ sự tồn tại độc lập nào đối với thân thể con người. Thức có một mối liên hệ đặc thù với thân thể loài người được liên hệ đến như ý thức con người. Và thức có mối liên hệ với một thân thể con thú được liên hệ như ý thức của con thú.

Tâm con người, hay thức, chúng ta đang nói đến thật sự bao gồm một số lượng rộng lớn các tâm, một số vi tế và một số thô thiển. Nhiều loại thô được nối kết đến một cơ quan cảm giác như mắt, và nhiều thứ trong chúng được nối kết rạch ròi với não bộ. Rõ ràng rằng những căn cứ ngoại tại này, hay những nhân tố, là thiết yếu cho một thức sinh khởi. Nhưng nguyên nhân chính của bất cứ tâm nào là thời khắc trước của thức, bản chất của nó là rõ ràng và tỉnh thức. Điều này được liên hệ tới như điều kiện tức thời (duyên lập tức).

Trong Bốn Trăm Thi Kệ của Thánh Thiên đề cập yêu cầu hợp lý đấy là một nguyên nhân gốc rể của thức phải có khả năng để chuyển hóa và có một bản chất sáng suốt và tỉnh thức. Bằng khác đi, thức sẽ hoặc là không bao giờ được sản sinh, hay nó sẽ được sản sinh trong mọi lúc, là điều rõ ràng không thể chấp nhận được. Tác động của một hành vi được lưu lại trên thức tinh thần, và như một kết quả chúng ta có thể gợi lại kinh nghiệm sau một tháng hay một năm, hay ngay cả sau một thập niên hay hơn nữa.
Điều này là những gì được biết như sự tỉnh thức của một năng lực tiềm tàng. Năng lực này được lưu truyền qua sự tương tục của tâm thức, và khi những điều kiện cần thiết hội tụ đầy đủ, dấu ấn tiềm tàng quá khứ sẽ trồi lên bề mặt [của ý thức].

Vì vậy, chúng ta nói về sự thức dậy của những dấu ấn tiềm tàng từ những kiếp sống trước. Tuy nhiên, sự liên hệ của tâm đến não bộ không thể được diễn tả một cách đầy đủ những khía cạnh vi tế của một năng lực tiềm tàng. Sự thấu hiểu quan điểm về năng lực tiềm tàng này có thể giúp chúng ta đạt đến sự đánh giá đúng đắn cho đời sống và sự hình thành cùng suy tàn của vũ trụ. Nó cũng trả lời những nghi ngờ nào đó liên hệ đến tư tưởng con người, sự mê tín , và những hoạt hóa vọng tưởng khác của tâm.

Triết lý Đạo Phật diễn tả rất rõ ràng những hướng dẫn và phương pháp qua đó có thể đạt đến tâm toàn tri toàn giác, phẩm chất tối thượng của tâm trình bày sự hoàn hảo trọn vẹn năng lực tiềm tàng của nó. Nhằm để nhận ra hoa trái tận cùng của tâm toàn tri toàn giác, chúng ta cần rèn luyện trong những nguyên nhân hoàn toàn đúng đắn của nó. Chúng ta cũng phải bảo đảm rằng chúng ta duy trì trong lộ trình thích đáng của việc rèn luyện. Đây là tại sao mà luận điển nói rằng:

Cũng từ những nguyên nhân và điều kiện này, chúng ta phải trau dồi những nguyên nhân đúng đắn và hoàn toàn. Nếu chúng ta đưa những nguyên nhân sai lạc vào thực tập, ngay cả nếu chúng ta hành động chuyên cần trong một thời gian dài, mục tiêu khao khát cũng không thể đạt được. Giống như thế, kết quả sẽ không thể phát sinh khi tất cả những nguyên nhân không được đặt vào trong mục tiêu. Nó giống như vắt sửa ở sừng [bò]. Thí dụ, nếu hạt giống hay bất cứ nguyên nhân nào khác khiếm khuyết, thế thì kết quả , một cái mầm, v.v... sẽ không thể sản sinh được. Do vậy, những ai khao khát một kết quả đặc thù phải trau dồi những nguyên nhân và điều kiện hoàn toàn và không lầm lẫn.

Bên cạnh việc tích lũy những nguyên nhân hoàn toàn và đúng đắn, thật thiết yếu để rèn luyện trong một lộ trình đúng đắn của nguyên nhân cho tâm để mở rộng và trở thành toàn tri toàn giác. Thí dụ, nhằm để chuẩn bị một bửa ăn thịnh soạn, chỉ đơn thuần thu thập tất cả những thành phần cần thiết là không đủ. Chúng ta cần biết tích lũy những thành phần khác nhau như dầu, chất cay, v.v... ra sao, nhằm để có được hương vị mong muốn: 

Nếu chúng ta hỏi, "Nguyên nhân và điều kiện nào của hoa trái cuối cùng của toàn tri toàn giác?" Tôi như người mù, có thể không ở trong vị trí để giải thích [bởi chính tôi], nhưng tôi sẽ sử dụng những lời của chính Đức Phật giống như Ngài đã nói với những đệ tử của ngài sau khi ngài giác ngộ. Ngài nói rằng, "Này Kim Cang Thủ, Bí Mật Chủ, trí huệ siêu việt của toàn giác có gốc rể trong bi mẫn, và sinh khởi từ một nguyên nhân - tư tưởng vị tha, sự tỉnh thức của tâm bồ đề, và sự hoàn thiện của phương tiện thiện xảo." Do vậy, nếu chúng ta thích thú trong việc đạt đến toàn giác, chúng ta cần thực hành ba thứ này: bi mẫn, sự thức tỉnh của tâm bồ đề, và phương tiện thiện xảo.

Ở đây Liên Hoa Giới liên hệ đến những ngôn từ của Đức Phật và thiết lập những nguyên nhân cùng phương tiện đúng đắn để đạt đến toàn giác. Ngài nói rằng bất cứ người nào hấp dẫn trong toàn giác phải thực tập tâm bồ đề tỉnh thức, là điều căn cứ trên bi mẫn. Sự thực tập phải được hổ trợ bởi sáu toàn thiện, với sự nhấn mạnh đặc biệt trên sự hợp nhất của thiền tịch tĩnh bất biến (chỉ) và tuệ giác nội quán (quán). Do vậy, khía cạnh thực tập được biết như phương pháp và trí huệ phải được thấy như bổ sung cho nhau mà chúng được xem như không thể tách rời. Điều này cũng hàm ý rằng bi mẫn là gốc rể của giáo lý Đạo Phật, và rằng toàn bộ giáo huấn chứa đựng trong cả tiểu thừa và đại thừa được căn cứ trên bi mẫn.

Trích từ Chương "Training the Mind" của quyển "Những Giai Tầng Thiền Tập"

Ẩn Tâm Lộ ngày 29-3-2012

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/12/2022(Xem: 2073)
Được sự thương tưởng và hỗ trợ của chư Tôn đức và quí vị thiện hữu hảo tâm, chúng con, chúng tôi vừa thực hiện xong 9 giếng cần giục (Well hand-pump) cho những ngôi làng nghèo lân cận vùng núi Khổ Hạnh Lâm & các làng ven quốc lộ từ Bodhgaya đi Varanasi, tiểu bang Bihar India .
10/12/2022(Xem: 4104)
Kính chia sẻ cùng chư Tôn Đức, chư pháp lữ, và quí thiện hữu một số hình ảnh trong mùa Tipitaka (Đại Tạng Kinh PaLi) khai hội tại Bồ Đề Đạo Tràng. Đây là lần thứ 17 trùng tụng Tipitaka theo thông lệ hàng năm. Lễ hội quan trọng năm 2022 này do Phật Giáo Việt Nam đăng cai tổ chức nên tất cả mọi trần thiết, trang hoàng đều do Ban tổ chức Hội trùng tụng Kinh tạng Pali VN thực hiện, nổi bật nhất là cổng chào với hình ảnh hoa tươi rực rỡ “Lưỡng Long chầu Pháp Luân” rất đẹp mắt, khiến ai ai cũng trầm trồ ngợi khen và tán dương công đức. Lễ hội trùng tụng Tipitaka năm nay có các nước Phật Giáo tham gia trùng tụng Đại Tạng như: Nepal, Sri-Lanka, Lao, Campuchia, ThaiLand, Myanmar, Việt Nam, Bangladesh, India, International...Chương trình được khai mạc trang trọng vào ngày 2 tháng 12 cho đến ngày 12/12/2022 là bế mạc, với gần 5000 người tham dự . Nguyện cầu tiếng kinh này vang vọng đến ba ngàn thế giới khiến chúng sanh vạn loài thảy đều nghe ba nghiệp từ đó được thanh tịnh. Và xin nguyện
03/12/2022(Xem: 1316)
Loạt bài "Tiếng Việt từ TK 17" đã đề cập đến một số cách dùng Hán Việt đặc biệt như sinh thì (~qua đời, chết), Kinh Tại Thiên, Kinh Tin Kính, Kinh Thiên Chúa, lịch sự, thượng hoà hạ mục, thượng phụ, trung phụ, hạ phụ, thượng đế, thiên chủ/chúa2 ...v.v…Phần 37 này bàn thêm về cách dùng một số từ Hán Việt thời LM de Rhodes đến truyền đạo: sự (~thờ) 事, thửa (~ sở) 所, kì 其, giao cảm 交感, tinh thần 星晨, đang/đương thì 當時, củ thủ 糾手, thiểu ngữ 少語. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ). Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&
25/11/2022(Xem: 1657)
Lời mở đầu của người chuyển ngữ Bài kinh Kevaṭṭa-Sutta là một bài kinh dài giảng cho một người thế tục trẻ tuổi tên là Kevaṭṭa khi người này đến xin Đức Phật chỉ định một vị tỳ-kheo trong Tăng đoàn thực thi các phép lạ để thu phục được nhiều người hơn. Thế nhưng Đức Phật khẳng định là Ngài không hề dạy các tỳ-kheo của mình làm phép lạ, mà chỉ giảng dạy họ phải làm thế nào để biến mình từ một con người bình dị trở thành một con người cao quý hơn, đưa mình đến sự Giải thoát cuối cùng và sự Giác ngộ tối thượng. Sự giảng và học hỏi đó tự nó cũng đã là một phép lạ. Đấy là nội dung của toàn bộ bài kinh, và cũng là "kim chỉ nam" giúp chúng ta theo dõi bài kinh rất phong phú, khúc triết, nhưng cũng rất phức tạp này.
25/11/2022(Xem: 4001)
Hành Hương Thắp Sáng Tâm Đăng và Cảm niệm Thâm Ân Đức Thế Tôn VỊ THẦY VĨ ĐẠI BẬC NHẤT CỦA NHÂN LOẠI. Suốt tuổi vị thành niên ưu tư, trăn trở, đến tuổi lập gia đình thấy mọi niềm vui, khoái lạc đều phù du, trống rỗng; tháng năm dài tìm cách giúp vua, cứu nước, Thái Tử Siddhārtha Gotama luôn cảm thấy mình làm cái việc của con dã tràng xe cát - vì không giải mã được hố thẳm của lòng người (nguyên nhân của khổ uẩn). Với ý chí kiên định, ngài thoát ly gia đình, vợ con, vương vị, quyết tìm ra con đường thoát khổ, giải trình giá trị và ý nghĩa vĩnh cửu cho kiếp nhân sinh.
22/10/2022(Xem: 2695)
Chia sẻ hình ảnh của Khóa tu nhân Lễ Vía Đức Bồ Tát Quan Âm tại Chùa Pháp Hoa Seattle Washington State do Ni Sư Thích Hạnh Nguyện và chư Đạo hữu Tịnh Thanh, Trí Tín tổ chức. Xin thành tâm cảm niệm tất cả chư Tôn Đức Tăng Ni, chư thiện hữu, Phật tử đã nhiệt tâm hỗ trợ cho Khóa tu được thành tựu viên mãn và giai đại hoan hỷ...
12/10/2022(Xem: 1518)
Xin có lời tâm sự, rằng trong lòng tôi vẫn luôn luôn là một đứa trẻ rất mực ngây thơ, nghĩa là, chưa bao giờ lớn cả. Nói cho đúng, tôi đã lớn dậy giữa rừng văn học cổ tích quê nhà, đã say mê đọc truyện cổ về những vị Bụt bay tới khi có ai đó gặp nạn và ngồi than khóc, đã miệt mài với những thần thoại tuyệt vời trong Kinh Phật… Và rồi, tôi tin rằng Đức Phật không bao giờ rời bỏ chúng sinh.
30/09/2022(Xem: 2911)
Nam Mô Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát Kính quý thiện hữu ''Sứ giả Từ Bi'' Đạo Tràng Kim Đài - CA Xin tường trình cùng Đại chúng. Tánh Tuệ vừa hoàn tất 8 giếng nước do quí Thiện hữu bố thí cho dân nghèo xứ Phật và vẫn Continue hoàn tất những giếng nước khác do quí thiện hữu phat tâm.
25/09/2022(Xem: 3450)
Thấm thoát đã đến Giỗ Trăm Ngày Cố Sa Di Ni Bồ Tát Giới Thích Nữ Hoa Khai danh Không Ngại Thân mẫu Trụ Trì tại Quan Âm
21/09/2022(Xem: 2550)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Chân Tâm chính là gia bảo Tâm, chẳng lẽ không quý trọng hơn tiền tài, vật chất sao? Bởi không có tâm thì ai đặt lên vật chất những giá trị? Tâm là bà mẹ sinh ra những đứa con (vật chất), nhưng phần nhiều con người ta thà vì tiền tài danh lợi mà phụ rẫy bản tâm, mà khiến cho tâm tổn thương chảy máu. - Quả báo của tất cả hạnh phúc, xuất phát từ Tâm. Sự trừng phạt của tất cả khổ đau, cũng bắt nguồn từ Tâm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567