Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 420: Phẩm Vô Sở Hữu 03, Phẩm Tùy Thuận, Phẩm Vô Biên Tế 01

21/07/201509:35(Xem: 14242)
Quyển 420: Phẩm Vô Sở Hữu 03, Phẩm Tùy Thuận, Phẩm Vô Biên Tế 01

Tập 08

 Quyển 420

Phẩm Vô Sở Hữu 03

Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí


 

 

 

Lại nữa, này Thiện Hiện! Bố thí Ba-la-mật-đa quá khứ, không của bố thí Ba-la-mật-đa quá khứ; bố thí Ba-la-mật-đa vị lai, hiện tại, không của bố thí Ba-la-mật-đa vị lai, hiện tại. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa quá khứ; không của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa quá khứ. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa vị lai, hiện tại; không của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa vị lai, hiện tại.

Này Thiện Hiện! Bố thí Ba-la-mật-đa quá khứ trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa quá khứ tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có bố thí Ba-la-mật-đa quá khứ trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Bố thí Ba-la-mật-đa vị lai, hiện tại trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa vị lai, hiện tại tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có bố thí Ba-la-mật-đa vị lai, hiện tại có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa quá khứ trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa quá khứ tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa quá khứ trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa vị lai, hiện tại trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa vị lai, hiện tại tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa vị lai, hiện tại trong không có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Bốn niệm trụ quá khứ, không của bốn niệm trụ quá khứ; bốn niệm trụ vị lai, hiện tại, không của bốn niệm trụ vị lai, hiện tại. Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo quá khứ, không của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo quá khứ; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo vị lai, hiện tại, không của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo vị lai, hiện tại.

Này Thiện Hiện! Bốn niệm trụ quá khứ trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì bốn niệm trụ quá khứ tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có bốn niệm trụ quá khứ trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Bốn niệm trụ vị lai, hiện tại trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì bốn niệm trụ vị lai, hiện tại tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có bốn niệm trụ vị lai, hiện tại trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo quá khứ trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo quá khứ tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo quá khứ trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo vị lai, hiện tại trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo vị lai, hiện tại tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo vị lai, hiện tại trong không có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Như vậy, cho đến mười lực của Phật quá khứ, không của mười lực của Phật quá khứ; mười lực của Phật vị lai, hiện tại, không của mười lực của Phật vị lai, hiện tại. Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng quá khứ, không của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng quá khứ; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vị lai, hiện tại. Không của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vị lai, hiện tại.

Này Thiện Hiện! Mười lực của Phật quá khứ trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì mười lực của Phật quá khứ tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có mười lực của Phật quá khứ trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Mười lực của Phật vị lai, hiện tại trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì mười lực của Phật vị lai, hiện tại tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có mười lực của Phật vị lai, hiện tại trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng quá khứ trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng quá khứ tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng quá khứ trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vị lai, hiện tại trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vị lai, hiện tại tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vị lai, hiện tại trong không có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Phàm phu quá khứ, không của phàm phu quá khứ; phàm phu vị lai, hiện tại, không của phàm phu vị lai, hiện tại. Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai quá khứ; không của Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai quá khứ.

Này Thiện Hiện! Phàm phu quá khứ trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì phàm phu quá khứ tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có phàm phu quá khứ trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Phàm phu vị lai, hiện tại trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì phàm phu vị lai, hiện tại tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có phàm phu vị lai, hiện tại trong không có thể đắc. Vì ngã hữu tình cho đến người biết, người thấy đều vô sở hữu bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai quá khứ trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai quá khứ tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai quá khứ trong không có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai vị lai, hiện tại trong không bất khả đắc. Vì sao? Vì Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai vị lai, hiện tại tức là không, tánh không cũng không. Không trong không còn bất khả đắc, huống là có Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai vị lai, hiện tại trong không có thể đắc. Vì ngã hữu tình cho đến người biết, người thấy đều vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Sắc quá khứ bất khả đắc, sắc vị lai, hiện tại bất khả đắc, sắc trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì sắc quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có sắc quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Thọ, tưởng, hành, thức quá khứ bất khả đắc, thọ, tưởng, hành, thức đời vị lai, đời hiện tại bất khả đắc, thọ, tưởng, hành, thức trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì thọ, tưởng, hành, thức quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có thọ, tưởng, hành, thức quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nhãn xứ quá khứ bất khả đắc, nhãn xứ vị lai, hiện tại bất khả đắc, nhãn xứ trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nhãn xứ quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có nhãn xứ quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ quá khứ bất khả đắc, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vị lai, hiện tại bất khả đắc, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Sắc xứ quá khứ bất khả đắc, sắc xứ vị lai, hiện tại bất khả đắc, sắc xứ trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì sắc xứ quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có sắc xứ quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ quá khứ bất khả đắc; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vị lai, hiện tại bất khả đắc; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nhãn giới quá khứ bất khả đắc; nhãn giới vị lai, hiện tại bất khả đắc; nhãn giới trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nhãn giới quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có nhãn giới quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới quá khứ bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới vị lai, hiện tại bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Sắc giới quá khứ bất khả đắc; sắc giới vị lai, hiện tại bất khả đắc; sắc giới trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì sắc giới quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có sắc giới quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới quá khứ bất khả đắc; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới vị lai, hiện tại bất khả đắc; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì thanh, hương, vị, xúc, pháp giới quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có thanh, hương, vị, xúc, pháp giới quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nhãn thức giới quá khứ bất khả đắc; nhãn thức giới vị lai, hiện tại bất khả đắc; nhãn thức giới trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nhãn thức giới quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có nhãn thức giới quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới quá khứ bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới vị lai, hiện tại bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nhãn xúc quá khứ bất khả đắc; nhãn xúc vị lai, hiện tại bất khả đắc; nhãn xúc trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nhãn xúc quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có nhãn xúc quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc quá khứ bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc vị lai, hiện tại bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra quá khứ bất khả đắc; các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra vị lai, hiện tại bất khả đắc; các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra quá khứ bất khả đắc, các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra vị lai, hiện tại bất khả đắc; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Bố thí Ba-la-mật-đa quá khứ bất khả đắc; Bố thí Ba-la-mật-đa vị lai, hiện tại bất khả đắc; Bố thí Ba-la-mật-đa trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì bố thí Ba-la-mật-đa quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có bố thí Ba-la-mật-đa quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa quá khứ bất khả đắc, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa vị lai, hiện tại bất khả đắc, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Bốn niệm trụ quá khứ bất khả đắc; Bốn niệm trụ vị lai, hiện tại bất khả đắc; Bốn niệm trụ trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì bốn niệm trụ quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có bốn niệm trụ quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo quá khứ bất khả đắc; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo vị lai, hiện tại bất khả đắc; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Như vậy, cho đến mười lực của Phật quá khứ bất khả đắc; mười lực của Phật vị lai, hiện tại bất khả đắc; mười lực của Phật trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì mười lực của Phật quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có mười lực của Phật quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Này Thiện Hiện! Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng quá khứ bất khả đắc; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vị lai, hiện tại bất khả đắc; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Phàm phu quá khứ bất khả đắc; phàm phu vị lai, hiện tại bất khả đắc, phàm phu trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì phàm phu quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có phàm phu quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc. Vì ngã chúng sanh cho đến người biết, người thấy đều là vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai quá khứ bất khả đắc; Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai vị lai, hiện tại bất khả đắc; Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai trong ba đời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh bình đẳng trong bình đẳng còn bất khả đắc, huống là có Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai quá khứ, vị lai, hiện tại trong bình đẳng có thể đắc. Vì ngã chúng sanh cho đến người biết, người thấy đều là vô sở hữu bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ trong tánh ba đời bình đẳng này siêng năng tu học trí nhất thiết tướng, không chấp trước nên mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Đó gọi là Đại thừa ba đời bình đẳng của Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát nào an trụ trong Đại thừa như vậy, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian, có thể mau chứng đắc trí nhất thiết tướng, làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa:

Bạch Thế Tôn! Lành thay! Lành thay! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khéo thuyết giảng pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát.

Bạch Thế Tôn! Đại thừa như vậy là tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu. Các Đại Bồ-tát đời quá khứ học pháp này đã có khả năng chứng đắc trí nhất thiết tướng, làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình. Các Đại Bồ-tát đời vị lai sẽ học pháp này, có khả năng chứng đắc trí nhất thiết tướng, làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình. Các Đại Bồ-tát trong vô lượng, vô số, vô biên thế giới khắp mười phương ở hiện tại đang học pháp này, có khả năng chứng đắc trí nhất thiết tướng, làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình. Vì thế, Đại thừa là tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu, có thể làm chỗ nương tựa tối thắng chơn thật cho tất cả Đại Bồ-tát, và làm cho Đại Bồ-tát có thể mau chứng đắc trí nhất thiết tướng, làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát đời quá khứ, vị lai, hiện tại đều nương vào Đại thừa siêng năng tu học mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, làm lợi ích an lạc cho các loại hữu tình. Vì thế, Đại thừa là tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu, vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian.

Tập 08

Quyển 420

Phẩm Tùy Thuận

Bấy giờ, Cụ thọ Mãn Từ Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Trước đây, Như Lai bảo Tôn giả Thiện Hiện thuyết giảng Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các đại Bồ-tát mà hôm nay sao lại giảng Đại thừa?

Cụ thọ Thiện Hiện liền thưa:

- Bạch Thế Tôn! Trước đây con đã nói các nghĩa của Đại thừa sẽ không trái vượt với Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Trước đây ông đã nói các nghĩa của Đại thừa tất cả đều thuỳ thuận, không trái vượt với Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp thiện, pháp Bồ-đề phần, hoặc pháp Thanh văn, hoặc pháp Độc giác, hoặc pháp Bồ-tát, hoặc pháp Như Lai. Như vậy, tất cả không có pháp nào là không thâu nhiếp vào trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu.

Bấy giờ, Thiện Hiện lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Tại sao tất cả pháp thiện, pháp Bồ-đề phần, hoặc pháp Thanh văn, hoặc pháp Độc giác, hoặc pháp Bồ-tát, hoặc pháp Như Lai đều thâu nhiếp vào trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Hoặc bố thí Ba-la-mật-đa, hoặc tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Hoặc bốn niệm trụ, hoặc bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Hoặc pháp môn giải thoát không, hoặc pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Hoặc mười lực của Phật, hoặc bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Hoặc trí nhất thiết, hoặc trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Hoặc pháp không quên mất, hoặc tánh luôn luôn trụ xả.

Này Thiện Hiện! Tất cả các pháp thiện như vậy, pháp Bồ-đề phần, hoặc pháp Thanh văn, hoặc pháp Độc giác, hoặc pháp Bồ-tát, hoặc pháp Như Lai. Như vậy, tất cả đều thâu nhiếp vào Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Hoặc Đại thừa. Hoặc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, hoặc tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa. Hoặc sắc, hoặc thọ, tưởng, hành, thức. Hoặc nhãn xứ; hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Hoặc sắc xứ, hoặc thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Hoặc nhãn giới, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Hoặc sắc giới, hoặc thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Hoặc nhãn thức giới, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Hoặc nhãn xúc, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Hoặc các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra. Hoặc bốn tịnh lự, hoặc bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Hoặc tám giải thoát, hoặc tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Hoặc bốn niệm trụ, hoặc bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Hoặc pháp môn giải thoát không, hoặc pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Hoặc pháp thiện, hoặc pháp chẳng thiện. Hoặc pháp hữu ký, hoặc pháp vô ký. Hoặc pháp hữu lậu, hoặc pháp vô lậu. Hoặc pháp hữu vi, hoặc pháp vô vi. Hoặc pháp thế gian, hoặc pháp xuất thế gian. Hoặc Thánh đế khổ, hoặc Thánh đế tập, diệt, đạo. Hoặc Dục giới, hoặc Sắc, Vô sắc giới. Hoặc pháp không nội, hoặc pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tán vô tán, pháp không bổn tánh, pháp không tự cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không vô tánh, pháp không tự tánh, pháp không vô tánh tự tánh. Hoặc pháp giới, hoặc chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... Hoặc Đà-la-ni, hoặc Tam-ma-địa. Hoặc mười lực của Phật, hoặc bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Hoặc chư Như Lai, hoặc pháp luật của Phật giác ngộ thuyết ra. Hoặc Bồ-đề, hoặc Niết-bàn. Tất cả pháp như vậy, đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải không tương ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng, nghĩa là vô tướng.

Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này, trước đây ông đã nói các nghĩa của Đại thừa tất cả đều tùy thuận, không trái vượt với Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Đại thừa không khác Bát-nhã Ba-la-mật-đa, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không khác Đại thừa. Đại thừa không khác tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa không khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, hoặc tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa, tánh đó không có hai, không có hai phần.

Này Thiện Hiện! Đại thừa không khác bốn niệm trụ; bốn niệm trụ không khác Đại thừa. Đại thừa không khác bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc bốn niệm trụ, hoặc bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo, tánh đó không có hai, không có hai phần.

Này Thiện Hiện! Đại thừa không khác cho đến mười lực của Phật; mười lực của Phật không khác Đại thừa. Đại thừa không khác bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc mười lực của Phật, hoặc bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, tánh đó không có hai, không có hai phần.

Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này, trước đây ông đã nói các nghĩa của Đại thừa tất cả đều tùy thuận không trái vượt qua Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu nói Đại thừa tức là nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nếu nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa tức là nói Đại thừa, vì nghĩa hai danh từ này không khác nhau.

 

Tập 08

 Quyển 420

Phẩm Vô Biên Tế 01

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát đời quá khứ đều vô sở hữu bất khả đắc, các Đại Bồ-tát đời vị lai đều vô sở hữu bất khả đắc, các Đại Bồ-tát đời hiện tại đều vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Sắc vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; thọ, tưởng, hành, thức vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế.

Bạch Thế Tôn! Nhãn xứ vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế.

Bạch Thế Tôn! Sắc xứ vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế.

Bạch Thế Tôn! Nhãn giới vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế.

Bạch Thế Tôn! Sắc giới vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế.

Bạch Thế Tôn! Nhãn thức giới vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế.

Bạch Thế Tôn! Nhãn xúc vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế.

Bạch Thế Tôn! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế.

Bạch Thế Tôn! Bố thí Ba-la-mật-đa vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế.

Bạch Thế Tôn! Bốn niệm trụ vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế.

Bạch Thế Tôn! Pháp môn giải thoát không vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế.

Bạch Thế Tôn! Mười lực của Phật vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế.

Bạch Thế Tôn! Pháp không nội vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tán vô tán, pháp không bổn tánh, pháp không tự cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không vô tánh, pháp không tự tánh, pháp không vô tánh tự tánh vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế.

Bạch Thế Tôn! Pháp giới vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế.

Bạch Thế Tôn! Thanh văn thừa vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; Độc giác thừa, Đại thừa vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế.

Bạch Thế Tôn! Ngay nơi sắc Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa sắc Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi thọ, tưởng, hành, thức Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa thọ, tưởng, hành, thức Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Ngay nơi nhãn xứ Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa nhãn xứ Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Ngay nơi sắc xứ Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa sắc xứ Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Ngay nơi nhãn giới Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa nhãn giới Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Ngay nơi sắc giới Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa sắc giới Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp giới Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp giới Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Ngay nơi nhãn thức giới Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa nhãn thức giới Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Ngay nơi nhãn xúc Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa nhãn xúc Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Ngay nơi các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Ngay nơi bố thí Ba-la-mật-đa Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa bố thí Ba-la-mật-đa Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Ngay nơi bốn niệm trụ Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa bốn niệm trụ Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Ngay nơi pháp môn giải thoát không Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa pháp môn giải thoát không Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Ngay nơi mười lực của Phật Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa mười lực của Phật Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Ngay nơi pháp không nội Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa pháp không nội Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tán vô tán, pháp không bổn tánh, pháp không tự cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không vô tánh, pháp không tự tánh, pháp không vô tánh tự tánh Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa pháp không ngoại cho đến pháp không vô tánh tự tánh Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Ngay nơi pháp giới Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa pháp giới Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Ngay nơi Thanh văn thừa Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa Thanh văn thừa Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi Độc giác thừa, Đại thừa Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa Độc giác thừa, Đại thừa Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Đối với tất cả pháp như vậy, đem tất cả mọi thứ, mọi nơi, mọi lúc mong cầu các Đại Bồ-tát mà con hoàn toàn không thể thấy, hoàn toàn không thể được thì làm sao bảo con đem Bát-nhã Ba-la-mật-đa dạy bảo, truyền trao cho các đại Bồ-tát.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát, các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không có tự tánh. Như nói ngã v.v... rốt ráo không sanh, chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh. Các pháp cũng vậy, rốt ráo không sanh, chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là sắc rốt ráo không sanh? Thế nào là thọ, tưởng, hành, thức rốt ráo không sanh?

Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo không sanh thì không có tên là sắc, cũng không có tên là thọ, tưởng, hành, thức.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là nhãn xứ rốt ráo không sanh? Thế nào là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ rốt ráo không sanh?

Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo không sanh thì không có tên nhãn xứ, cũng không có tên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là sắc xứ rốt ráo không sanh? Thế nào là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ rốt ráo không sanh?

Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo không sanh thì không có tên sắc xứ, cũng không có tên thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là nhãn giới rốt ráo không sanh? Thế nào là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới rốt ráo không sanh?

Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo không sanh thì không có tên nhãn giới, cũng không có tên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là sắc giới rốt ráo không sanh? Thế nào là thanh, hương, vị, xúc, pháp giới rốt ráo không sanh?

Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo không sanh thì không có tên sắc giới, cũng không có tên thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là nhãn thức giới rốt ráo không sanh? Thế nào là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới rốt ráo không sanh?

Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo không sanh thì không có tên nhãn thức giới, cũng không có tên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là nhãn xúc rốt ráo không sanh? Thế nào là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc rốt ráo không sanh?

Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo không sanh thì không có tên nhãn xúc, cũng không có tên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra rốt ráo không sanh? Thế nào là các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra rốt ráo không sanh?

Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo không sanh thì không có tên các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng không có tên các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là bố thí Ba-la-mật-đa rốt ráo không sanh; những tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa rốt ráo không sanh?

Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo không sanh thì không có tên bố thí Ba-la-mật-đa; cũng không có tên tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là bốn niệm trụ rốt ráo không sanh? Thế nào là bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo rốt ráo không sanh?

Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo không sanh thì không có tên bốn niệm trụ, cũng không có tên bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là pháp môn giải thoát không rốt ráo không sanh? Thế nào là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện rốt ráo không sanh?

Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo không sanh thì không có tên pháp môn giải thoát không, cũng không có tên pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là mười lực Phật rốt ráo không sanh? Thế nào là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng rốt ráo không sanh?

Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo không sanh thì không có tên mười lực của Phật, cũng không có tên bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là pháp không nội rốt ráo không sanh? Thế nào là pháp không ngoại cho đến pháp không vô tánh tự tánh rốt ráo không sanh?

Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo không sanh thì không có tên pháp không nội, cũng không có tên pháp không ngoại cho đến pháp không vô tánh tự tánh.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là pháp giới rốt ráo không sanh? Thế nào là chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... rốt ráo không sanh?

Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo không sanh thì không có tên pháp giới, cũng không có tên chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Thanh văn thừa rốt ráo không sanh? Thế nào là Độc giác thừa, Đại thừa rốt ráo không sanh?

Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo không sanh thì không có tên Thanh văn thừa, cũng không có tên Độc giác thừa, Đại thừa.

Bạch Thế Tôn! Con đâu có thể đem Bát-nhã Ba-la-mật-đa rốt ráo không sanh dạy bảo, truyền trao cho các Đại Bồ-tát rốt ráo không sanh?

Bạch Thế Tôn! Nếu xa lìa rốt ráo không sanh thì không có Đại Bồ-tát nào có thể hành hạnh Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ-đề.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát nào nghe nói như vậy tâm không chìm đắm, cũng không lo lắng, hối hận, tâm họ không kinh hãi, sợ sệt, nên biết Đại Bồ-tát này có thể hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

 

Quyển thứ 420

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/06/2012(Xem: 14959)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
30/05/2012(Xem: 8829)
Tín Nghĩa tôi đến định cư Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 09 năm 1979, do nhị vị Hòa thượng Thích Thiên Ân và Hòa thượng Thích Mãn Giác bảo lãnh từ trại tỵ nạn Hongkong. Ngồi tính sổ thời gian thì cũng đã gỡ gần ba chục cuốn lịch. Giá như thời gian này mà ở trong tù thì cũng mục xương và chẳng bao giờ được thấy ánh sáng của thiên nhiên.
27/05/2012(Xem: 20710)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 6351)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 8718)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 5805)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 19394)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 9689)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 6131)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 6955)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]