Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 293: Phẩm Nói Tướng Bát-Nhã 02

12/07/201511:20(Xem: 14310)
Quyển 293: Phẩm Nói Tướng Bát-Nhã 02

Tập 06

 Quyển 293

 Phẩm Nói Tướng Bát-Nhã 02
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí



 

Chứng pháp bố thí Ba-la-mật-đa rốt ráo thanh tịnh và nói pháp bố thí Ba-la-mật-đa rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa rốt ráo thanh tịnh và nói pháp tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp không nội rốt ráo thanh tịnh và nói pháp không nội rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh rốt ráo thanh tịnh và nói pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp chơn như rốt ráo thanh tịnh và nói pháp chơn như rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì rốt ráo thanh tịnh và nói pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp Thánh đế khổ rốt ráo thanh tịnh và nói pháp Thánh đế khổ rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp Thánh đế tập, diệt, đạo rốt ráo thanh tịnh và nói pháp Thánh đế tập, diệt, đạo rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp bốn tịnh lự rốt ráo thanh tịnh và nói pháp bốn tịnh lự rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp bốn vô lượng, bốn định vô sắc rốt ráo thanh tịnh và nói pháp bốn vô lượng, bốn định vô sắc rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp tám giải thoát rốt ráo thanh tịnh và nói pháp tám giải thoát rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ rốt ráo thanh tịnh và nói pháp tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp bốn niệm trụ rốt ráo thanh tịnh và nói pháp bốn niệm trụ rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo rốt ráo thanh tịnh và nói pháp bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp môn giải thoát không rốt ráo thanh tịnh và nói pháp môn giải thoát không rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện rốt ráo thanh tịnh và nói pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp mười địa Bồ-tát rốt ráo thanh tịnh và nói pháp mười địa Bồ-tát rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp năm loại mắt rốt ráo thanh tịnh và nói pháp năm loại mắt rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp sáu phép thần thông rốt ráo thanh tịnh và nói pháp sáu phép thần thông rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp mười lực Phật rốt ráo thanh tịnh và nói pháp mười lực Phật rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng rốt ráo thanh tịnh và nói pháp bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp không quên mất rốt ráo thanh tịnh và nói pháp không quên mất rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp tánh luôn luôn xả rốt ráo thanh tịnh và nói pháp tánh luôn luôn xả rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp trí nhất thiết rốt ráo thanh tịnh và nói pháp trí nhất thiết rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng rốt ráo thanh tịnh và nói pháp trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng rốt ráo thanh tịnh; chứng tất cả pháp môn Đà-la-ni rốt ráo thanh tịnh và nói tất cả pháp môn Đà-la-ni rốt ráo thanh tịnh; chứng tất cả pháp môn Tam-ma-địa rốt ráo thanh tịnh và nói tất cả pháp môn Tam-ma-địa rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp quả Dự-lưu rốt ráo thanh tịnh và nói pháp quả Dự-lưu rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán rốt ráo thanh tịnh và nói pháp quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp quả vị Độc-giác rốt ráo thanh tịnh và nói pháp quả vị Độc-giác rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp tất cả hạnh đại Bồ-tát rốt ráo thanh tịnh và nói pháp tất cả hạnh đại Bồ-tát rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật rốt ráo thanh tịnh và nói pháp quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật rốt ráo thanh tịnh.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế thanh tịnh như thế nào?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì sắc thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì sắc thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì sắc không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì sắc thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thọ, tưởng, hành, thức không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì nhãn xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì nhãn xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì nhãn xứ không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì nhãn xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì sắc xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì sắc xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì sắc xứ không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì sắc xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì nhãn giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì nhãn giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì nhãn giới không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì nhãn giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì nhĩ giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì nhĩ giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì nhĩ giới không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì nhĩ giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì tỷ giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì tỷ giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì tỷ giới không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì tỷ giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì thiệt giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì thiệt giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì thiệt giới không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì thiệt giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì thân giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì thân giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì thân giới không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì thân giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì ý giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì ý giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì ý giới không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì ý giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì địa giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì địa giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì địa giới không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì địa giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì vô minh thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì vô minh thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì vô minh không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì vô minh thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì bố thí Ba-la-mật-đa không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì pháp không nội thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì pháp không nội thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì pháp không nội không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì pháp không nội thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì chơn như thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì chơn như thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì chơn như không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì chơn như thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì Thánh đế khổ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì Thánh đế tập, diệt, đạo thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì Thánh đế khổ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì Thánh đế tập, diệt, đạo thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì Thánh đế khổ không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì Thánh đế khổ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì Thánh đế tập, diệt, đạo không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì Thánh đế tập, diệt, đạo thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì bốn tịnh lự thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì bốn tịnh lự thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì bốn tịnh lự không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì bốn tịnh lự thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì tám giải thoát thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì tám giải thoát thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì tám giải thoát không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì tám giải thoát thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì bốn niệm trụ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì bốn niệm trụ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì bốn niệm trụ không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì bốn niệm trụ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì pháp môn giải thoát không thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì pháp môn giải thoát không thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì pháp môn giải thoát không không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì pháp môn giải thoát không thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì mười địa Bồ-tát thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì mười địa Bồ-tát thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì mười địa Bồ-tát không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì mười địa Bồ-tát thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì năm loại mắt thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì sáu phép thần thông thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì năm loại mắt thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì sáu phép thần thông thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì năm loại mắt không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì năm loại mắt thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì sáu phép thần thông không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì sáu phép thần thông thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì mười lực Phật thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì mười lực Phật thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng  thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì mười lực Phật không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì mười lực Phật thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng  không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng  thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì pháp không quên mất thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tánh luôn luôn xả thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì pháp không quên mất thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì tánh luôn luôn xả thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì pháp không quên mất không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì pháp không quên mất thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tánh luôn luôn xả không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì tánh luôn luôn xả thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì trí nhất thiết thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì trí nhất thiết thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì tất cả pháp môn Đà-la-ni thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì tất cả pháp môn Đà-la-ni thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì quả Dự-lưu thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì quả Dự-lưu thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì quả Dự-lưu không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì quả Dự-lưu thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì quả vị Độc-giácthanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì quả vị Độc-giácthanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì quả vị Độc-giáckhông sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì quả vị Độc-giácthanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì tất cả hạnh đại Bồ-tát thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì tất cả hạnh đại Bồ-tát thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì tất cả hạnh đại Bồ-tát không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì tất cả hạnh đại Bồ-tát thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Vì hư không thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì hư không thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì hư không không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh; vì hư không thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Vì sắc không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thọ, tưởng, hành, thức không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì sắc không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thọ, tưởng, hành, thức không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì sắc chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì sắc không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì thọ, tưởng, hành, thức không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì nhãn xứ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì nhãn xứ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì nhãn xứ chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì nhãn xứ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì sắc xứ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì sắc xứ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì sắc xứ chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì sắc xứ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì nhãn giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì nhãn giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì nhãn giới chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì nhãn giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì nhĩ giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì nhĩ giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì nhĩ giới chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì nhĩ giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì tỷ giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì tỷ giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì tỷ giới chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì tỷ giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì thiệt giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì thiệt giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì thiệt giới chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì thiệt giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì thân giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì thân giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì thân giới chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì thân giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì ý giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì ý giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì ý giới chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì ý giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì địa giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì địa giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì địa giới chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì địa giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì vô minh không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì vô minh không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì vô minh chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì vô minh không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì bố thí Ba-la-mật-đa không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì bố thí Ba-la-mật-đa không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì bố thí Ba-la-mật-đa không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì pháp không nội không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì pháp không nội không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì pháp không nội chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì pháp không nội không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì chơn như không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì chơn như không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì chơn như chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì chơn như không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì Thánh đế khổ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì Thánh đế tập, diệt, đạo không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì Thánh đế khổ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì Thánh đế tập, diệt, đạo không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì Thánh đế khổ chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì Thánh đế khổ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì Thánh đế tập, diệt, đạo không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì bốn tịnh lự không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì bốn tịnh lự không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì bốn tịnh lự chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì bốn tịnh lự không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

 

Quyển thứ 293

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/05/2012(Xem: 8729)
Tín Nghĩa tôi đến định cư Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 09 năm 1979, do nhị vị Hòa thượng Thích Thiên Ân và Hòa thượng Thích Mãn Giác bảo lãnh từ trại tỵ nạn Hongkong. Ngồi tính sổ thời gian thì cũng đã gỡ gần ba chục cuốn lịch. Giá như thời gian này mà ở trong tù thì cũng mục xương và chẳng bao giờ được thấy ánh sáng của thiên nhiên.
27/05/2012(Xem: 20404)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 6240)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 8626)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 5697)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 19234)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 9579)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 6063)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 6853)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
23/03/2012(Xem: 6326)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa Thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa Thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]