Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 410: Phẩm Hành Tướng 02, Phẩm Huyễn Dụ

20/07/201521:51(Xem: 13889)
Quyển 410: Phẩm Hành Tướng 02, Phẩm Huyễn Dụ

Tập 08

 Quyển 410

 Phẩm Hành Tướng 02

Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí


 

 

 

Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Nếu Tam-ma-địa không khác Đại Bồ-tát, Đại Bồ-tát không khác Tam-ma-địa. Tam-ma-địa tức là Đại Bồ-tát, Đại Bồ-tát tức là Tam-ma-địa. Hoặc Tam-ma-địa, hoặc Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng như vậy thì các Đại Bồ-tát làm thế nào đối với tất cả pháp như thật hiểu biết nhập Tam-ma-địa?

Thiện Hiện đáp:

- Nếu Đại Bồ-tát khi nhập các định, không nghĩ: Ta nương vào tánh bình đẳng của tất cả pháp mà chứng nhập các đẳng trì như vậy thì do nhân duyên này các Đại Bồ-tát tuy nương vào tánh bình đẳng của tất cả pháp mà chứng nhập các đẳng trì như vậy, như vậy, nhưng đối với tánh bình đẳng của tất cả pháp và các đẳng trì không phát sanh nghĩ tưởng, hiểu biết. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì tất cả pháp và các đẳng trì, hoặc Đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã Ba-la-mật-đa đều vô sở hữu. Trong vô sở hữu, sự phân biệt, nghĩ tưởng, hiểu biết không thể phát sanh.

Khi ấy, Thế Tôn khen Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Đúng như lời ông nói. Ta nói ông là người đứng đầu trụ định Vô tránh trong chúng Thanh văn. Do đó tương ưng với nghĩa Ta nói vì trong tánh bình đẳng không có sự chống trái nhau.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát muốn học Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên học như vậy. Muốn học tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa nên học như vậy. Muốn học bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo nên học như vậy. Như vậy, cho đến muốn học mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng nên học như vậy.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

- Đại Bồ-tát nào học như vậy chính là học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cho đến chính là học mười tám pháp Phật bất cộng phải không?

Phật dạy:

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát nào học như vậy chính là học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, vì lấy vô sở đắc làm phương tiện, cho đến chính là học mười tám pháp Phật bất cộng, vì lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Khi ấy, Xá-lợi Tử lại bạch Phật:

- Đại Bồ-tát nào khi học như vậy đều đem vô sở đắc làm phương tiện để học Bát-nhã Ba-la-mật-đa? Cho đến đều đem vô sở đắc làm phương tiện để học mười tám pháp Phật bất cộng phải không?

Phật dạy:

- Này Xá-lợi Tử: Đại Bồ-tát khi học như vậy đều đem vô sở đắc làm phương tiện để học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cho đến đều đem vô sở đắc làm phương tiện để học mười tám pháp Phật bất cộng.

Xá-lợi Tử thưa:

- Vô sở đắc là nói những gì bất khả đắc phải không?

Phật dạy:

- Này Xá-lợi Tử! Ngã bất khả đắc cho đến người thấy bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh. Uẩn, xứ, giới bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh. Vô minh bất khả đắc cho đến lão tử bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh. Bốn Thánh đế bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh. Dục, Sắc, Vô sắc giới bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh. Bốn niệm trụ bất khả đắc cho đến tám chi thánh đạo bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh. Mười lực của Phật bất khả đắc cho đến mười tám pháp Phật bất cộng bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh. Bố thí Ba-la-mật-đa bất khả đắc cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh. Dự lưu bất khả đắc cho đến A-la-hán bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh. Độc giác bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh. Bồ-tát bất khả đắc, Như Lai bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh.

Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Nghĩa rốt ráo thanh tịnh là như thế nào?

Phật đáp:

- Này Xá-lợi Tử! Tất cả pháp không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, không xuất hiện, không ẩn mất, vô đắc, vô vi. Như vậy, là nghĩa rốt ráo thanh tịnh.

Khi ấy, Xá-lợi Tử lại thưa hỏi Phật:

- Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy là học pháp gì?

Phật dạy:

- Này Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy, thì đối với tất cả pháp đều không học điều gì. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì không thể trong tất cả pháp như vậy, mà có các hàng phàm phu ngu muội, chấp trước có thể học ở trong đó.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Các pháp như vậy làm sao mà có?

Phật dạy:

- Các pháp Vô sở hữu như vậy mà có. Nếu đối với pháp vô sở hữu như vậy không thể hiểu rõ thì gọi là vô minh.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Những pháp gì không sở hữu hoặc không hiểu biết được gọi là vô minh?

Phật dạy:

- Này Xá-lợi Tử! Sắc vô sở hữu, thọ, tưởng, hành, thức vô sở hữu, vì pháp không nội cho đến pháp không vô tánh tự tánh. Như vậy, cho đến bốn niệm trụ vô sở hữu cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vô sở hữu. Vì pháp không nội cho đến pháp không vô tánh tự tánh.

Này Xá-lợi Tử! Phàm phu ngu muội nếu đối với pháp vô sở hữu như vậy không thể hiểu rõ được thì gọi là vô minh. Do vô minh và thế lực ái, người ấy chấp trước phân biệt hai bên đoạn, thường. Do đó không biết, không thấy tánh các pháp vô sở hữu phân biệt các pháp. Do phân biệt nên liền chấp trước sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cho đến chấp trước mười tám pháp Phật bất cộng. Do chấp trước nên phân biệt tánh của các pháp vô sở hữu. Do đó đối với pháp không biết được, không thấy được.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Đối với những pháp nào không biết, không thấy?

Phật dạy:

- Đối với sắc không biết, không thấy; đối với thọ, tưởng, hành, thức không biết, không thấy. Cho đến đối với mười tám pháp Phật bất cộng không biết, không thấy. Do đối với các pháp không biết, không thấy nên rơi vào hạng phàm phu ngu muội không thể ra khỏi.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Người ấy không thể ra khỏi nơi nào?

Phật bảo:

- Người ấy không thể ra khỏi Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Do không thể ra khỏi ba cõi nên đối với pháp Thanh văn không thể thành tựu, đối với pháp Độc giác không thể thành tựu, đối với pháp Bồ-tát không thể thành tựu, đối với pháp chư Phật không thể thành tựu. Do đối với ba thừa không thể thành tựu, nên đối với các pháp không thể tin nhận.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Đối với pháp nào người ấy không thể tin nhận?

Phật dạy:

- Đối với không của sắc người ấy không thể tin nhận. Đối với không của thọ, tưởng, hành, thức không thể tin nhận, cho đến đối với không của mười tám pháp Phật bất cộng không thể tin nhận. Do không tin nhận nên không thể trụ.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Đối với pháp nào người ấy không thể trụ?

Phật dạy:

- Này Xá-lợi Tử! Đối với bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa, người ấy không thể an trụ. Đối với địa vị Bất thối chuyển cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, người ấy không thể an trụ. Do đó nên gọi là phàm phu ngu muội, vì đối với các pháp chấp trước có tánh.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Người kia đối với pháp nào chấp trước có tánh?

Phật dạy:

- Người kia đối với sắc chấp trước có tánh, đối với thọ, tưởng, hành, thức chấp trước có tánh. Đối với nhãn xứ chấp trước có tánh, cho đến đối với ý xứ chấp trước có tánh. Đối với sắc xứ chấp trước có tánh, cho đến đối với pháp xứ chấp trước có tánh. Đối với nhãn giới chấp trước có tánh, cho đến đối với ý thức giới chấp trước có tánh. Đối với tham, sân, si chấp trước có tánh. Đối với các kiến thú chấp trước có tánh. Đối với bốn niệm trụ chấp trước có tánh, cho đến đối với mười tám pháp Phật bất cộng chấp trước có tánh.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Vả lại có Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng học Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì không thể thành tựu trí nhất thiết trí phải không?

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Có Đại Bồ-tát làm học như vậy, không học Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì không thể thành tựu trí nhất thiết trí.

Xá-lợi Tử thưa:

- Điều này nghĩa là như thế nào?

Phật dạy:

- Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát nào không có phương tiện thiện xảo, đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa phân biệt chấp trước. Đối với tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa, phân biệt chấp trước. Đối với bốn niệm trụ phân biệt chấp trước, cho đến đối với mười tám pháp Phật bất cộng phân biệt chấp trước. Do chấp trước những pháp này nên đối với trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chấp trước. Do nhân duyên này, có Đại Bồ-tát học như vậy, không học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thể thành tựu trí nhất thiết trí.

Xá-lợi Tử thưa:

- Đại Bồ-tát này khi học như vậy quyết định không học Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì không thể thành tựu trí nhất thiết trí phải không?

Phật dạy:

- Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này không học như vậy quyết định không học Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì không thể thành tựu trí nhất thiết trí.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! tại sao Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa là học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Khi học như vậy liền có thể thành tựu trí nhất thiết trí?

Phật dạy:

- Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát nào tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cho đến không thấy trí nhất thiết tướng. Như vậy, Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa là học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Khi học như vậy liền có thể thành tựu trí nhất thiết trí. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá-lợi Tử thưa:

- Đại Bồ-tát này lấy vô sở đắc pháp nào làm phương tiện?

Phật dạy:

- Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này khi tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc đối với bố thí Ba-la-mật-đa làm phương tiện, cho đến khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc của Bát-nhã Ba-la-mật-đa làm phương tiện, cho đến khi cầu Bồ-đề, lấy vô sở đắc của Bồ-đề làm phương tiện, cho đến khi cầu trí nhất thiết tướng, lấy vô sở đắc của trí nhất thiết tướng làm phương tiện.

Này Xá-lợi Tử! Như vậy, Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa là học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Khi học như vậy liền có thể thành tựu trí nhất thiết trí.

Xá-lợi Tử thưa:

- Đại Bồ-tát này khi tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đem vô sở đắc của những pháp nào làm phương tiện?

Phật dạy:

- Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này khi tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa đem vô sở đắc của pháp không nội làm phương tiện, cho đến đem vô sở đắc của pháp không vô tánh tự tánh làm phương tiện. Do nhân duyên này có thể mau thành tựu trí nhất thiết trí.

 

Tập 08

Quyển 410

Phẩm Huyễn Dụ

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Giả sử có người hỏi: Nếu có nhà ảo thuật có thể học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cho đến có thể học bố thí Ba-la-mật-đa thì người ấy có thể thành tựu trí nhất thiết trí không? Nếu có nhà ảo thuật có thể học bốn niệm trụ cho đến có thể học mười tám pháp Phật bất cộng thì người ấy có thể thành tựu trí nhất thiết trí không? nếu được hỏi như vậy, con sẽ trả lời như thế nào?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ta hỏi lại ông, tùy theo ý ông mà đáp. Này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Sắc cùng với huyễn có khác không? Thọ, tưởng, hành, thức cùng với huyễn có khác nhau không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không khác!

Này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Nhãn xứ cùng với huyễn có khác nhau không? Cho đến ý xứ cùng với huyễn có khác nhau không? Sắc xứ cùng với huyễn có khác nhau không? Cho đến pháp xứ cùng với huyễn có khác nhau không?

Thiện Hiện đáp:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Nhãn giới cùng với huyễn có khác nhau không? Cho đến ý giới cùng với huyễn có khác nhau không? Sắc giới cùng với huyễn có khác nhau không? Cho đến pháp giới cùng với huyễn có khác nhau không? Nhãn thức giới cùng với huyễn có khác nhau không? Cho đến ý thức giới cùng với huyễn có khác nhau không? Nhãn xúc cùng với huyễn có khác nhau không? Cho đến ý xúc cùng với huyễn có khác nhau không? Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cùng với huyễn có khác nhau không? Cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cùng với huyễn có khác nhau không?

Thiện Hiện đáp:  

- Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Bốn niệm trụ cùng với huyễn có khác nhau không? Cho đến tám chi thánh đạo cùng với huyễn có khác nhau không?

Thiện Hiện đáp:  

- Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Pháp môn giải thoát không cùng với huyễn có khác nhau không? Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cùng với huyễn có khác nhau không?

Thiện Hiện thưa:  

- Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Bố thí Ba-la-mật-đa cùng với huyễn có khác nhau không? Cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cùng với huyễn có khác nhau không?

Thiện Hiện thưa:  

- Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của chư Phật cùng với huyễn có khác nhau không?

Thiện Hiện thưa:  

- Bạch Thế Tôn! Không! Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì sắc không khác huyễn, huyễn chẳng khác sắc. Sắc tức là huyễn, huyễn tức là sắc. Như vậy, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của chư Phật không khác huyễn, huyễn không khác Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của chư Phật. Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của chư Phật tức là huyễn, huyễn tức là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của chư Phật.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Huyễn có tạp nhiễm, có thanh tịnh không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Huyễn có sanh, có diệt không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Nếu pháp nào không tạp nhiễm, không thanh tịnh, không sanh, không diệt, thì pháp đó có thể học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thành tựu trí nhất thiết trí không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Ở trong năm uẩn phát sanh ra các tưởng, từ tưởng có ra lời nói, giả gọi là Đại Bồ-tát phải không?

Thiện Hiện thưa: Bạch Thế Tôn! Đúng như vậy!

Này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Ở trong năm uẩn phát sanh ra các tưởng, từ tưởng có ra lời nói, giả lập có sanh, có diệt, có tạp nhiễm, có thanh tịnh không?

Thiện Hiện thưa: - Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Nếu pháp vô tưởng hay vô đẳng tưởng, không thiết lập, không lời nói, không giả danh, không thân, không nghiệp của thân, không ngữ, không nghiệp của ngữ, không ý, không nghiệp của ý, không tạp nhiễm, không thanh tịnh, không sanh, không diệt thì pháp này có thể học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thành tựu trí nhất thiết trí không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào đem vô sở đắc làm phương tiện tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy, sẽ mau có thể thành tựu trí nhất thiết trí.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát nào muốn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nên như nhà ảo thuật thường học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Nên biết nhà ảo thuật tức là năm uẩn.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Năm uẩn như huyễn có thể học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, sẽ được thành tựu trí nhất thiết trí không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không! Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì năm uẩn như huyễn, lấy vô tánh làm tự tánh, vô tánh tự tánh bất khả đắc.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Năm uẩn như mộng có thể học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, sẽ được thành tựu trí nhất thiết trí không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không! Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì năm uẩn như mộng, lấy vô tánh làm tự tánh, vô tánh tự tánh bất khả đắc.

Phật bảo:

- Này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Năm uẩn như tiếng vang, như ảnh ảo, như bóng dáng, như sóng nắng, như hoa đốm trên không, như biến hóa, như thành Càn-thát-bà có thể học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, sẽ được thành tựu trí nhất thiết trí không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không! Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì năm uẩn như tiếng vang cho đến như thành Càn-thát-bà lấy vô tánh làm tự tánh, vô tánh tự tánh bất khả đắc.

Phật bảo:

- Này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Năm uẩn như huyễn v.v... đều có tánh khác không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không! Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức như huyễn v.v... tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức như mộng. Năm uẩn như huyễn v.v... tức là sáu căn như huyễn v.v.... Sáu căn như huyễn v.v... tức là năm uẩn như huyễn v.v.... Như vậy, tất cả đều do pháp không nội nên bất khả đắc, cho đến pháp không vô tánh tự tánh nên bất khả đắc.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát mới hướng đến Đại-thừa, nghe nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy, tâm họ sẽ không kinh khiếp, không e ngại, không sợ hãi phải không?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các Đại Bồ-tát mới hướng đến Đại-thừa, khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nếu không có phương tiện thiện xảo thì chẳng được bạn lành hộ trì, nghe nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy, thì tâm họ kinh khiếp, e ngại, sợ hãi.

Tôn giả Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Các Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa có phương tiện thiện xảo, nghe nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy, tâm họ không kinh khiếp, không e ngại, không sợ hãi?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đem tâm tương ưng với trí nhất thiết trí quán tướng vô thường của sắc cũng bất khả đắc, quán tướng vô thường của thọ, tưởng, hành, thức cũng bất khả đắc. Quán tướng khổ của sắc cũng bất khả đắc, quán tướng khổ của thọ, tưởng, hành, thức cũng bất khả đắc. Quán tướng vô ngã của sắc cũng bất khả đắc, quán tướng vô ngã của thọ, tưởng, hành, thức cũng bất khả đắc. Quán tướng bất tịnh của sắc cũng bất khả đắc, quán tướng bất tịnh của thọ, tưởng, hành, thức cũng bất khả đắc. Quán tướng không của sắc cũng bất khả đắc, quán tướng không của thọ, tưởng, hành, thức cũng bất khả đắc. Quán tướng vô tướng của sắc cũng bất khả đắc, quán tướng vô tướng của thọ, tưởng, hành, thức cũng bất khả đắc. Quán tướng vô nguyện của sắc cũng bất khả đắc, quán tướng vô nguyện của thọ, tưởng, hành, thức cũng bất khả đắc. Quán tướng tịch tịnh của sắc cũng bất khả đắc, quán tướng tịch tịnh của thọ, tưởng, hành, thức cũng bất khả đắc. Quán tướng viễn ly của sắc cũng bất khả đắc, quán tướng viễn ly của thọ, tưởng, hành, thức cũng bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa vì có phương tiện thiện xảo, nên nghe nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy, tâm họ không kinh khiếp, không e ngại, không sợ hãi.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào quán như vậy rồi, lại nghĩ: Ta sẽ đem vô sở đắc làm phương tiện vì tất cả hữu tình nói tướng vô thường của năm uẩn như vậy cũng bất khả đắc; tướng khổ, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng không, tướng vô tướng, tướng vô nguyện, tướng tịch tịnh, tướng viễn ly cũng bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa không chấp bố thí Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, xa lìa tác ý tương ưng với Thanh văn, Độc giác, mà tư duy tướng vô thường của năm uẩn cũng bất khả đắc; tướng khổ, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng không, tướng vô tướng, tướng vô nguyện, tướng tịch tịnh, tướng viễn ly cũng bất khả đắc, vì đem vô sở đắc làm phương tiện.

Này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa không chấp tịnh giới Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đem vô sở đắc làm phương tiện, quán pháp như vậy, tướng vô thường cũng bất khả đắc; tướng khổ, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng không, tướng vô tướng, tướng vô nguyện, tướng tịch tịnh, tướng viễn ly cũng bất khả đắc. Có thể ở trong đó an nhẫn vui thích, không kinh khiếp, không e ngại, không sợ hãi.

Này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa không chấp trước an nhẫn Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa đem tâm tương ưng với trí nhất thiết trí, thường quán tướng vô thường của năm uẩn cũng bất khả đắc; tướng khổ, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng không, tướng vô tướng, tướng vô nguyện, tướng tịch tịnh, tướng viễn ly cũng bất khả đắc. Tuy đem vô sở đắc làm phương tiện nhưng thường không bỏ tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, thường tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa không chấp trước tinh tấn Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không đem tác ý tương ưng với Thanh văn, Độc giác mà tư duy tướng vô thường của năm uẩn cũng bất khả đắc; tướng khổ, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng không, tướng vô tướng, tướng vô nguyện, tướng tịch tịnh, tướng viễn ly cũng bất khả đắc. Vì đem vô sở đắc làm phương tiện, ở trong đó không phát sanh tác ý tương ưng với Thanh văn, Độc giác và tâm tán loạn, bất thiện khác làm chướng ngại Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa không chấp trước tịnh lự Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, như thật quán sát chẳng phải sắc thuộc không nên không thuộc sắc mà là sắc tức là không, không tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Chẳng phải nhãn xứ thuộc không, nên không thuộc nhãn xứ mà là nhãn xứ tức là không, không tức là nhãn xứ, cho đến ý xứ cũng như vậy. Chẳng phải sắc xứ thuộc không, nên không thuộc sắc xứ mà là sắc xứ tức là không, không tức là sắc xứ, cho đến pháp xứ cũng như vậy. Chẳng phải nhãn giới thuộc không, nên không thuộc nhãn giới mà là nhãn giới tức là không, không tức là nhãn giới, cho đến ý giới cũng như vậy. Chẳng phải sắc giới thuộc không, nên không thuộc sắc giới mà là sắc giới tức là không, không tức là sắc giới, cho đến pháp giới cũng như vậy. Chẳng phải nhãn thức giới thuộc không, nên không thuộc nhãn thức giới mà là nhãn thức giới tức là không, không tức là nhãn thức giới, cho đến ý thức giới cũng như vậy. Chẳng phải nhãn xúc thuộc không, nên không thuộc nhãn xúc mà là nhãn xúc tức là không, không tức là nhãn xúc, cho đến ý xúc cũng như vậy. Chẳng phải các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra thuộc không, nên không thuộc các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra mà là các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra tức là không, không tức là các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cũng như vậy. Chẳng phải bốn niệm trụ thuộc không, nên không thuộc bốn niệm trụ mà là bốn niệm trụ tức là không, không tức là bốn niệm trụ. Như vậy, cho đến chẳng phải mười tám pháp Phật bất cộng thuộc không, nên không thuộc mười tám pháp Phật bất cộng mà là mười tám pháp Phật bất cộng tức là không, không tức là mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát không chấp trước Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Như vậy, Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa vì có phương tiện thiện xảo nên nghe nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy, tâm không kinh khiếp, không e ngại, không sợ hãi.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa được các bạn lành như thế nào nên nghe nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy mà tâm họ không kinh khiếp, không e ngại, không sợ hãi?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các bạn lành của Đại Bồ-tát hoặc có thể đem vô sở đắc làm phương tiện nói tướng vô thường của sắc cũng bất khả đắc, nói tướng vô thường của thọ, tưởng, hành, thức cũng bất khả đắc. Nói tướng khổ của sắc cũng bất khả đắc, nói tướng khổ của thọ, tưởng, hành, thức cũng bất khả đắc. Nói tướng vô ngã của sắc cũng bất khả đắc, nói tướng vô ngã của thọ, tưởng, hành, thức cũng bất khả đắc. Nói tướng bất tịnh của sắc cũng bất khả đắc, nói tướng bất tịnh của thọ, tưởng, hành, thức cũng bất khả đắc. Nói tướng không của sắc cũng bất khả đắc, nói tướng không của thọ, tưởng, hành, thức cũng bất khả đắc. Nói tướng vô tướng của sắc cũng bất khả đắc, nói tướng vô tướng của thọ, tưởng, hành, thức cũng bất khả đắc. Nói tướng vô nguyện của sắc cũng bất khả đắc, nói tướng vô nguyện của thọ, tưởng, hành, thức cũng bất khả đắc. Nói tướng tịch tịnh của sắc cũng bất khả đắc, nói tướng tịch tịnh của thọ, tưởng, hành, thức cũng bất khả đắc. Nói tướng viễn ly của sắc cũng bất khả đắc, nói tướng viễn ly của thọ, tưởng, hành, thức cũng bất khả đắc. Và khuyên nương vào đó siêng năng tu tập thiện căn, không để hồi hướng quả Thanh văn, Độc giác, chỉ để cầu được trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Đó là bạn lành của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Bạn lành của các Đại Bồ-tát hoặc có thể đem vô sở đắc làm phương tiện, nói tướng vô thường của nhãn xứ cho đến ý xứ cũng bất khả đắc; tướng khổ, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng không, tướng vô tướng, tướng vô nguyện, tướng tịch tịnh, tướng viễn ly cũng bất khả đắc. Nói tướng vô thường của sắc xứ cho đến pháp xứ cũng bất khả đắc; tướng khổ, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng không, tướng vô tướng, tướng vô nguyện, tướng tịch tịnh, tướng viễn ly cũng bất khả đắc. Và khuyên nương vào đó siêng năng tu tập thiện căn, không để hồi hướng quả Thanh văn, Độc giác, chỉ để cầu được trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Đó là bạn lành của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Bạn lành các Đại Bồ-tát hoặc có thể đem vô sở đắc làm phương tiện, nói tướng vô thường của nhãn giới cho đến ý giới cũng bất khả đắc; tướng khổ, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng không, tướng vô tướng, tướng vô nguyện, tướng tịch tịnh, tướng viễn ly cũng bất khả đắc. Nói tướng vô thường của sắc giới cho đến pháp giới cũng bất khả đắc; tướng khổ, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng không, tướng vô tướng, tướng vô nguyện, tướng tịch tịnh, tướng viễn ly cũng bất khả đắc. Nói tướng vô thường của nhãn thức giới cho đến ý thức giới cũng bất khả đắc; tướng khổ, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng không, tướng vô tướng, tướng vô nguyện, tướng tịch tịnh, tướng viễn ly cũng bất khả đắc. Nói tướng vô thường của nhãn xúc cho đến ý xúc cũng bất khả đắc; tướng khổ, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng không, tướng vô tướng, tướng vô nguyện, tướng tịch tịnh, tướng viễn ly cũng bất khả đắc. Nói tướng vô thường của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cũng bất khả đắc; tướng khổ, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng không, tướng vô tướng, tướng vô nguyện, tướng tịch tịnh, tướng viễn ly cũng bất khả đắc. Và khuyên nương vào đó siêng năng tu tập thiện căn, không để hồi hướng quả Thanh văn, Độc giác, mà chỉ để cầu được trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Đó là bạn lành của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Bạn lành các Đại Bồ-tát hoặc có thể đem vô sở đắc làm phương tiện, tuy nói tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo nhưng bất khả đắc; tuy nói tu ba môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện nhưng bất khả đắc; tuy nói tu mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng nhưng bất khả đắc; tuy nói tu trí nhất thiết cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nhưng bất khả đắc, nhưng khuyên nương vào đó siêng tu tập thiện căn, không để cho hướng đến Thanh văn, Độc giác, chỉ để cầu được trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Đó là bạn lành của Đại Bồ-tát.

Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa được bạn lành này hộ trì thì nghe nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy, tâm không kinh khiếp, không e ngại, không sợ hãi.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo, nên nghe nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy, tâm họ có kinh khiếp, e ngại, sợ hãi?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đem có đắc làm phương tiện, xa lìa tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Đối với tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa có chứng đắc, có ỷ lại, do đem có sở đắc làm phương tiện nên xa lìa tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, tu hành tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa. Đối với tu tịnh lự cho đến bố thí Ba-la-mật-đa có chứng đắc, có ỷ lại, do đem có sở đắc làm phương tiện, nên xa lìa tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí quán sắc, thọ, tưởng, hành, thức, pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tán vô tán, pháp không bổn tánh, pháp không tự cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh. Đối với sự quán sắc, thọ, tưởng, hành, thức không có chứng đắc, ỷ lại, do đem có sở đắc làm phương tiện, nên xa lìa tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, quán nhãn xứ cho đến ý xứ, pháp không nội cho đến pháp không vô tánh tự tánh. Đối với quán không của nhãn xứ cho đến ý xứ có chứng đắc, có ỷ lại, do đem có sở đắc làm phương tiện, nên xa lìa tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí. Quán sắc xứ, pháp xứ không nội cho đến pháp không vô tánh tự tánh; đối với quán sắc xứ cho đến không của pháp xứ có chứng đắc, có ỷ lại, do đem có sở đắc làm phương tiện, nên xa lìa tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí. Quán nhãn giới không nội của ý giới cho đến pháp không vô tánh tự tánh, đối với quán nhãn giới cho đến không của ý giới có chứng đắc, có ỷ lại, do đem có sở đắc làm phương tiện, nên xa lìa tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí. Quán sắc giới không nội của pháp giới cho đến pháp không vô tánh tự tánh; đối với quán sắc giới cho đến không của pháp giới có chứng đắc, có ỷ lại, do đem có sở đắc làm phương tiện, nên xa lìa tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí. Quán nhãn thức giới không nội của ý thức giới cho đến pháp không vô tánh tự tánh; đối với quán nhãn thức giới cho đến không của ý thức giới có chứng đắc, có ỷ lại; do đem có sở đắc làm phương tiện, nên xa lìa tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí. Quán nhãn xúc không nội của ý xúc cho đến pháp không vô tánh tự tánh; Đối với quán nhãn xúc cho đến không của ý xúc có chứng đắc, có ỷ lại; do đem có sở đắc làm phương tiện, nên xa lìa tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí. Quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, không nội của các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, cho đến pháp không vô tánh tự tánh. Đối với quán nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến không của các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra có chứng đắc, có ỷ lại, do đem có sở đắc làm phương tiện, nên xa lìa tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí. Tu hành bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Đối với việc tu bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng có chứng đắc, có ỷ lại (do đem có sở đắc làm phương tiện nên xa lìa tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí).

Này Thiện Hiện! Như vậy, Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo, nên nghe nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy, tâm họ có kinh khiếp, có e ngại, có sợ hãi.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa bị các bạn ác khống chế như thế nào nên nghe nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy, tâm họ bị kinh khiếp, có e ngại, có sợ hãi?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các bạn ác của Đại Bồ-tát hoặc bảo họ nhàm chán xa lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa, hoặc bảo nhàm chán, xa lìa tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa. Nghĩa là nói như vầy: Than ôi! Nam tử! Các ông không nên tu học điều này. Vì sao? Vì sáu pháp Ba-la-mật-đa như vậy không phải do Phật nói mà do những người làm văn kệ hư dối tạo ra. Vì vậy các ông không nên nghe theo, không nên thọ trì, không nên đọc tụng, không nên tư duy, không nên nghiên cứu, không nên giảng nói khai thị cho người khác.

Này Thiện Hiện! Đó là bạn ác của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Bạn ác của các Đại Bồ-tát hoặc không nói việc ma, lỗi ma cho người khác, nghĩa là không nói có ác ma trá hình tướng Phật đến bảo Bồ-tát nhàm chán xa lìa sáu pháp Ba-la-mật-đa. Thiện nam tử! Các ông cần gì tu sáu pháp Ba-la-mật-đa này?

Này Thiện Hiện! Nếu không nói các việc như vậy cho người biết rõ thì nên biết đó là bạn ác của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Bạn ác của Đại Bồ-tát hoặc không nói việc ma, lỗi ma cho người, nghĩa là không nói có ác ma trá hình tướng Phật đến giảng nói khai bày pháp tương ưng với Thanh văn, Độc giác cho Bồ-tát, nghĩa là Khế Kinh cho đến Luận Nghị, phân biệt hiểu rõ làm cho chuyên tu học.

Này Thiện Hiện! Nếu không nói các việc như vậy cho người biết rõ thì nên biết đó là bạn ác của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Bạn ác của Đại Bồ-tát hoặc không nói việc ma, lỗi ma cho người, nghĩa là không nói có ác ma trá hình tướng Phật đến chỗ Bồ-tát nói như vầy: Các ông chẳng phải là Bồ-tát, không có tâm Bồ-đề, không thể an trụ địa vị Bất thối chuyển, không thể chứng đắc quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đã mong cầu.

Này Thiện Hiện! Nếu không nói các việc như vậy cho người biết rõ thì nên biết đó là bạn ác của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Bạn ác của Đại Bồ-tát hoặc không nói việc ma, lỗi ma cho người, nghĩa là không nói có ác ma trá hình tướng Phật đến bảo Đại Bồ-tát: Các ông nên biết: Sắc không, vô ngã, ngã sở; thọ, tưởng, hành, thức không, vô ngã, ngã sở. Nhãn xứ không, vô ngã, ngã sở, cho đến ý xứ không, vô ngã, ngã sở. Sắc xứ không, vô ngã, ngã sở, cho đến pháp xứ không, vô ngã, ngã sở. Nhãn giới không, vô ngã, ngã sở, cho đến ý giới không, vô ngã, ngã sở. Sắc giới không, vô ngã, ngã sở, cho đến pháp giới không, vô ngã, ngã sở. Nhãn thức giới không, vô ngã, ngã sở, cho đến ý thức giới không, vô ngã, ngã sở. Nhãn xúc không, vô ngã, ngã sở, cho đến ý xúc không, vô ngã, ngã sở. Không các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, vô ngã, ngã sở, cho đến không các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, vô ngã, ngã sở. Không bốn niệm trụ, vô ngã, ngã sở, cho đến không của tám chi thánh đạo, vô ngã, ngã sở. Không của bố thí Ba-la-mật-đa, vô ngã, ngã sở, cho đến không Bát-nhã Ba-la-mật-đa, vô ngã, ngã sở. Không của pháp môn không giải thoát, vô ngã, ngã sở; không của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, vô ngã, ngã sở. Không của mười lực của Phật, vô ngã, ngã sở, cho đến không của mười tám pháp Phật bất cộng, vô ngã, ngã sở thì cần gì quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác?

Này Thiện Hiện! Nếu không nói các việc như vậy cho người biết rõ thì nên biết đó là bạn ác của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Bạn ác của Đại Bồ-tát hoặc không nói việc ma, lỗi ma cho người, nghĩa là không nói có ác ma trá hình tượng Độc giác đến chỗ Bồ-tát nói như vầy: Ôi, thiện nam tử! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Thanh văn, Bồ-tát trong mười phương thế giới Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn góc, trên, dưới đều vô sở hữu. Đối với việc này ông nên tin nhận kỹ, chớ tự mình siêng năng khổ nhọc mong cầu, cúng dường, nghe giảng Chánh pháp như lời dạy mà tu hành.

Này Thiện Hiện! Nếu không nói các việc như vậy cho người biết rõ thì nên biết đó là bạn ác của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Bạn ác của Đại Bồ-tát hoặc không nói việc ma, lỗi ma cho người, nghĩa là có ác ma trá hình tướng Thanh văn đến chỗ Bồ-tát, làm cho càng nhàm chán xa lìa tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, làm cho rất vui thích tác ý tương ưng với Thanh văn, Độc giác.

Này Thiện Hiện! Nếu không nói các việc như vậy cho người biết rõ thì nên biết đó là bạn ác của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Bạn ác của Đại Bồ-tát hoặc không nói việc ma, lỗi ma cho người, nghĩa là không nói có ác ma hoá làm hình tướng thầy thân giáo sư, quỹ phạm sư, đến chỗ Bồ-tát làm cho càng nhàm chán xa lìa thắng hạnh Bồ-tát nghĩa là bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa, và làm cho nhàm chán, xa lìa trí nhất thiết trí, nghĩa là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chỉ bảo tu tập ba môn giải thoát, mau chứng Thanh văn, Độc giác, không hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Này Thiện Hiện! Nếu không nói các việc như vậy cho người biết rõ thì nên biết đó là bạn ác của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Bạn ác của Đại Bồ-tát hoặc không nói việc ma, lỗi ma cho người, nghĩa là không nói có ác ma trá hình tướng cha mẹ đến chỗ Bồ-tát bảo: Con ơi! Con nên siêng năng cầu chứng quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, đủ để được dứt hẳn khổ lớn sanh tử, mau chứng Niết-bàn, cứu cánh an lạc rồi, cần gì phải hướng đến quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của chư Phật xa xôi; mong cầu quả Bồ-đề cần phải trải vô lượng, vô số đại kiếp luân hồi sanh tử, giáo hóa hữu tình; xả bỏ mạng sống, cắt đứt không thể uổng công khổ nhọc, ai mà biết đến ơn con. Sự mong cầu Bồ-đề có khi chứng có khi không chứng?

Này Thiện Hiện! Nếu không nói các việc như vậy cho người biết rõ thì nên biết đó là bạn ác của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Bạn ác của Đại Bồ-tát hoặc không nói việc ma, lỗi ma cho người, nghĩa là không nói có ác ma trá hình tướng Bí-sô đến chỗ Bồ-tát, do đem có sở đắc làm phương tiện, nói tướng vô thường của sắc thật có thể đắc; nói tướng vô thường của thọ, tưởng, hành, thức thật có thể đắc. Nói tướng khổ của sắc, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng không, tướng vô tướng, tướng vô nguyện, tướng tịch tịnh, tướng viễn ly thật có thể đắc. Nói tướng khổ của thọ, tưởng, hành, thức, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng không, tướng vô tướng, tướng vô nguyện, tướng tịch tịnh, tướng viễn ly thật có thể đắc. Do đem có sở đắc làm phương tiện, nói nhãn xứ cho đến ý xứ, tướng vô thường, tướng khổ, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng không, tướng vô tướng, tướng vô nguyện, tướng tịch tịnh, tướng viễn ly thật có thể đắc. Do đem có sở đắc làm phương tiện, nói sắc xứ cho đến pháp xứ, tướng vô thường, tướng khổ, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng không, tướng vô tướng, tướng vô nguyện, tướng tịch tịnh, tướng viễn ly thật có thể đắc. Do đem có sở đắc làm phương tiện, nói nhãn giới cho đến ý giới, tướng vô thường, tướng khổ, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng không, tướng vô tướng, tướng vô nguyện, tướng tịch tịnh, tướng viễn ly thật có thể đắc. Do đem có sở đắc làm phương tiện, nói sắc giới cho đến pháp giới, tướng vô thường, tướng khổ, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng không, tướng vô tướng, tướng vô nguyện, tướng tịch tịnh, tướng viễn ly thật có thể đắc. Do đem có sở đắc làm phương tiện, nói nhãn thức giới cho đến ý thức giới, tướng vô thường, tướng khổ, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng không, tướng vô tướng, tướng vô nguyện, tướng tịch tịnh, tướng viễn ly thật có thể đắc. Do đem có sở đắc làm phương tiện, nói nhãn xúc cho đến ý xúc, tướng vô thường, tướng khổ, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng không, tướng vô tướng, tướng vô nguyện, tướng tịch tịnh, tướng viễn ly thật có thể đắc. Do đem có sở đắc làm phương tiện, nói các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, tướng vô thường, tướng khổ, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng không, tướng vô tướng, tướng vô nguyện, tướng tịch tịnh, tướng viễn ly thật có thể đắc. Do đem có sở đắc làm phương tiện, nói tướng bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo thật có thể đắc, khiến họ tu học. Do đem có sở đắc làm phương tiện nói bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa thật có thể đắc, khiến họ tu học.

Do đem có sở đắc làm phương tiện nói ba môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện thật có thể đắc, khiến họ tu học. Do đem có sở đắc làm phương tiện nói môn Đà-la-ni, môn Tam-ma-địa thật có thể đắc, khiến họ tu học. Do đem có sở đắc làm phương tiện nói năm loại mắt, sáu phép thần thông thật có thể đắc, khiến họ tu học. Do đem có sở đắc làm phương tiện nói mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng thật có thể đắc, khiến họ tu học.

Này Thiện Hiện! Nếu không nói các việc như vậy cho người biết rõ thì nên biết đó là bạn ác của Đại Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa bị bạn ác này khống chế, thì nghe nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy, tâm họ bị kinh khiếp, e ngại và sợ  hãi. Vì thế, Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đối với các bạn ác nên quan sát kỹ, tìm cách xa lìa.

 

Quyển thứ 410

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/06/2012(Xem: 14959)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
30/05/2012(Xem: 8829)
Tín Nghĩa tôi đến định cư Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 09 năm 1979, do nhị vị Hòa thượng Thích Thiên Ân và Hòa thượng Thích Mãn Giác bảo lãnh từ trại tỵ nạn Hongkong. Ngồi tính sổ thời gian thì cũng đã gỡ gần ba chục cuốn lịch. Giá như thời gian này mà ở trong tù thì cũng mục xương và chẳng bao giờ được thấy ánh sáng của thiên nhiên.
27/05/2012(Xem: 20710)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 6351)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 8718)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 5805)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 19394)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 9689)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 6131)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 6955)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]