Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 344: Phẩm Khen Tánh Chắc Thật 03

15/07/201519:19(Xem: 14456)
Quyển 344: Phẩm Khen Tánh Chắc Thật 03

Tập 07

Quyển 344

Phẩm Khen Tánh Chắc Thật 03

Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm

Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí

 

 

- Này các Thiên tử! Vì lìa địa giới nên lìa pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; vì lìa thủy, hỏa, phong, không, thức giới nên lìa pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện.

Này các Thiên tử! Vì lìa địa giới nên lìa bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; vì lìa thủy, hỏa, phong, không, thức giới nên lìa bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân.

Này các Thiên tử! Vì lìa địa giới nên lìa năm loại mắt, sáu phép thần thông; vì lìa thủy, hỏa, phong, không, thức giới nên lìa năm loại mắt, sáu phép thần thông.

Này các Thiên tử! Vì lìa địa giới nên lìa mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; vì lìa thủy, hỏa, phong, không, thức giới nên lìa mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Này các Thiên tử! Vì lìa địa giới nên lìa pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; vì lìa thủy, hỏa, phong, không, thức giới nên lìa pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.

Này các Thiên tử! Vì lìa địa giới nên lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; vì lìa thủy, hỏa, phong, không, thức giới nên lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Này các Thiên tử! Vì lìa địa giới nên lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa; vì lìa thủy, hỏa, phong, không, thức giới nên lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa.

Này các Thiên tử! Vì lìa địa giới nên lìa quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; vì lìa thủy, hỏa, phong, không, thức giới nên lìa quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán.

Này các Thiên tử! Vì lìa địa giới nên lìa quả vị Độc giác; vì lìa thủy, hỏa, phong, không, thức giới nên lìa quả vị Độc giác.

Này các Thiên tử! Vì lìa địa giới nên lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát; vì lìa thủy, hỏa, phong, không, thức giới nên lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát.

Này các Thiên tử! Vì lìa địa giới nên lìa quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật; vì lìa thủy, hỏa, phong, không, thức giới nên lìa quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Này các Thiên tử! Vì lìa địa giới nên lìa trí nhất thiết trí; vì lìa thủy, hỏa, phong, không, thức giới nên lìa trí nhất thiết trí.

Lại nữa, các Thiên tử! Vì lìa vô minh nên lìa bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì lìa hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử nên lìa bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này các Thiên tử! Vì lìa vô minh nên lìa pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; vì lìa hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử nên lìa pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh.

Này các Thiên tử! Vì lìa vô minh nên lìa chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; vì lìa hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử nên lìa chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Này các Thiên tử! Vì lìa vô minh nên lìa Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; vì lìa hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử nên lìa Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo.

Này các Thiên tử! Vì lìa vô minh nên lìa bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; vì lìa hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử nên lìa bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Này các Thiên tử! Vì lìa vô minh nên lìa tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; vì lìa hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử nên lìa tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Này các Thiên tử! Vì lìa vô minh nên lìa bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; vì lìa hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử nên lìa bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo.

Này các Thiên tử! Vì lìa vô minh nên lìa pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; vì lìa hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử nên lìa pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện.

Này các Thiên tử! Vì lìa vô minh nên lìa bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; vì lìa hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử nên lìa bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân.

Này các Thiên tử! Vì lìa vô minh nên lìa năm loại mắt, sáu phép thần thông; vì lìa hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử nên lìa năm loại mắt, sáu phép thần thông.

Này các Thiên tử! Vì lìa vô minh nên lìa mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; vì lìa hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử nên lìa mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Này các Thiên tử! Vì lìa vô minh nên lìa pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; vì lìa hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử nên lìa pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.

Này các Thiên tử! Vì lìa vô minh nên lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; vì lìa hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử nên lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Này các Thiên tử! Vì lìa vô minh nên lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa; vì lìa hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử nên lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa.

Này các Thiên tử! Vì lìa vô minh nên lìa quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; vì lìa hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử nên lìa quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán.

Này các Thiên tử! Vì lìa vô minh nên lìa quả vị Độc giác; vì lìa hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử nên lìa quả vị Độc giác.

Này các Thiên tử! Vì lìa vô minh nên lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát; vì lìa hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử nên lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát.

Này các Thiên tử! Vì lìa vô minh nên lìa quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật; vì lìa hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử nên lìa quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Này các Thiên tử! Vì lìa vô minh nên lìa trí nhất thiết trí; vì lìa hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử nên lìa trí nhất thiết trí.

Lại nữa, các Thiên tử! Vì lìa bố thí Ba-la-mật-đa nên lìa pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; vì lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên lìa pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh.

Này các Thiên tử! Vì lìa bố thí Ba-la-mật-đa nên lìa chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; vì lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên lìa chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Này các Thiên tử! Vì lìa bố thí Ba-la-mật-đa nên lìa Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; vì lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên lìa Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo.

Này các Thiên tử! Vì lìa bố thí Ba-la-mật-đa nên lìa bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; vì lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên lìa bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Này các Thiên tử! Vì lìa bố thí Ba-la-mật-đa nên lìa tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; vì lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên lìa tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Này các Thiên tử! Vì lìa bố thí Ba-la-mật-đa nên lìa bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; vì lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên lìa bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo.

Này các Thiên tử! Vì lìa bố thí Ba-la-mật-đa nên lìa pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; vì lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên lìa pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện.

Này các Thiên tử! Vì lìa bố thí Ba-la-mật-đa nên lìa bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; vì lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên lìa bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân.

Này các Thiên tử! Vì lìa bố thí Ba-la-mật-đa nên lìa năm loại mắt, sáu phép thần thông; vì lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên lìa năm loại mắt, sáu phép thần thông.

Này các Thiên tử! Vì lìa bố thí Ba-la-mật-đa nên lìa mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; vì lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên lìa mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Này các Thiên tử! Vì lìa bố thí Ba-la-mật-đa nên lìa pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; vì lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên lìa pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.

Này các Thiên tử! Vì lìa bố thí Ba-la-mật-đa nên lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; vì lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Này các Thiên tử! Vì lìa bố thí Ba-la-mật-đa nên lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa; vì lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa.

Này các Thiên tử! Vì lìa bố thí Ba-la-mật-đa nên lìa quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; vì lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên lìa quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán.

Này các Thiên tử! Vì lìa bố thí Ba-la-mật-đa nên lìa quả vị Độc giác; vì lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên lìa quả vị Độc giác.

Này các Thiên tử! Vì lìa bố thí Ba-la-mật-đa nên lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát; vì lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát.

Này các Thiên tử! Vì lìa bố thí Ba-la-mật-đa nên lìa quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật; vì lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên lìa quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Này các Thiên tử! Vì lìa bố thí Ba-la-mật-đa nên lìa trí nhất thiết trí; vì lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên lìa trí nhất thiết trí.

Lại nữa, các Thiên tử! Vì lìa pháp không nội nên lìa bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì lìa pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh nên lìa bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này các Thiên tử! Vì lìa pháp không nội nên lìa chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; vì lìa pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh nên lìa chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Này các Thiên tử! Vì lìa pháp không nội nên lìa Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; vì lìa pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh nên lìa Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo.

Này các Thiên tử! Vì lìa pháp không nội nên lìa bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; vì lìa pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh nên lìa bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Này các Thiên tử! Vì lìa pháp không nội nên lìa tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; vì lìa pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh nên lìa tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Này các Thiên tử! Vì lìa pháp không nội nên lìa bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; vì lìa pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh nên lìa bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo.

Này các Thiên tử! Vì lìa pháp không nội nên lìa pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; vì lìa pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh nên lìa pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện.

Này các Thiên tử! Vì lìa pháp không nội nên lìa bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; vì lìa pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh nên lìa bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân.

Này các Thiên tử! Vì lìa pháp không nội nên lìa năm loại mắt, sáu phép thần thông; vì lìa pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh nên lìa năm loại mắt, sáu phép thần thông.

Này các Thiên tử! Vì lìa pháp không nội nên lìa mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; vì lìa pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh nên lìa mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Này các Thiên tử! Vì lìa pháp không nội nên lìa pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; vì lìa pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh nên lìa pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.

Này các Thiên tử! Vì lìa pháp không nội nên lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; vì lìa pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh nên lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Này các Thiên tử! Vì lìa pháp không nội nên lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa; vì lìa pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh nên lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa.

Này các Thiên tử! Vì lìa pháp không nội nên lìa quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; vì lìa pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh nên lìa quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán.

Này các Thiên tử! Vì lìa pháp không nội nên lìa quả vị Độc giác; vì lìa pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh nên lìa quả vị Độc giác.

Này các Thiên tử! Vì lìa pháp không nội nên lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát; vì lìa pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh nên lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát.

Này các Thiên tử! Vì lìa pháp không nội nên lìa quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật; vì lìa pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh nên lìa quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Này các Thiên tử! Vì lìa pháp không nội nên lìa trí nhất thiết trí; vì lìa pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh nên lìa trí nhất thiết trí.

Lại nữa, các Thiên tử! Vì lìa chơn như nên lìa bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì lìa pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì nên lìa bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này các Thiên tử! Vì lìa chơn như nên lìa pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; vì lìa pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì nên lìa pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh.

Này các Thiên tử! Vì lìa chơn như nên lìa Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; vì lìa pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì nên lìa Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo.

Này các Thiên tử! Vì lìa chơn như nên lìa bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; vì lìa pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì nên lìa bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Này các Thiên tử! Vì lìa chơn như nên lìa tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; vì lìa pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì nên lìa tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Này các Thiên tử! Vì lìa chơn như nên lìa bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; vì lìa pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì nên lìa bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo.

Này các Thiên tử! Vì lìa chơn như nên lìa pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; vì lìa pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì nên lìa pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện.

Này các Thiên tử! Vì lìa chơn như nên lìa bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; vì lìa pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì nên lìa bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân.

Này các Thiên tử! Vì lìa chơn như nên lìa năm loại mắt, sáu phép thần thông; vì lìa pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì nên lìa năm loại mắt, sáu phép thần thông.

Này các Thiên tử! Vì lìa chơn như nên lìa mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; vì lìa pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì nên lìa mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Này các Thiên tử! Vì lìa chơn như nên lìa pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; vì lìa pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì nên lìa pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.

Này các Thiên tử! Vì lìa chơn như nên lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; vì lìa pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì nên lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Này các Thiên tử! Vì lìa chơn như nên lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa; vì lìa pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì nên lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa.

Này các Thiên tử! Vì lìa chơn như nên lìa quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; vì lìa pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì nên lìa quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán.

Này các Thiên tử! Vì lìa chơn như nên lìa quả vị Độc giác; vì lìa pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì nên lìa quả vị Độc giác.

Này các Thiên tử! Vì lìa chơn như nên lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát; vì lìa pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì nên lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát.

Này các Thiên tử! Vì lìa chơn như nên lìa quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật; vì lìa pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì nên lìa quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Này các Thiên tử! Vì lìa chơn như nên lìa trí nhất thiết trí; vì lìa pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì nên lìa trí nhất thiết trí.

Lại nữa, các Thiên tử! Vì lìa Thánh đế khổ nên lìa bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì lìa Thánh đế tập, diệt, đạo nên lìa bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này các Thiên tử! Vì lìa Thánh đế khổ nên lìa pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; vì lìa Thánh đế tập, diệt, đạo nên lìa pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh.

Này các Thiên tử! Vì lìa Thánh đế khổ nên lìa chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; vì lìa Thánh đế tập, diệt, đạo nên lìa chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Này các Thiên tử! Vì lìa Thánh đế khổ nên lìa bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; vì lìa Thánh đế tập, diệt, đạo nên lìa bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Này các Thiên tử! Vì lìa Thánh đế khổ nên lìa tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; vì lìa Thánh đế tập, diệt, đạo nên lìa tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Này các Thiên tử! Vì lìa Thánh đế khổ nên lìa bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; vì lìa Thánh đế tập, diệt, đạo nên lìa bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo.

Này các Thiên tử! Vì lìa Thánh đế khổ nên lìa pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; vì lìa Thánh đế tập, diệt, đạo nên lìa pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện.

Này các Thiên tử! Vì lìa Thánh đế khổ nên lìa bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; vì lìa Thánh đế tập, diệt, đạo nên lìa bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân.

Này các Thiên tử! Vì lìa Thánh đế khổ nên lìa năm loại mắt, sáu phép thần thông; vì lìa Thánh đế tập, diệt, đạo nên lìa năm loại mắt, sáu phép thần thông.

Này các Thiên tử! Vì lìa Thánh đế khổ nên lìa mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; vì lìa Thánh đế tập, diệt, đạo nên lìa mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Này các Thiên tử! Vì lìa Thánh đế khổ nên lìa pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; vì lìa Thánh đế tập, diệt, đạo nên lìa pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.

Này các Thiên tử! Vì lìa Thánh đế khổ nên lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; vì lìa Thánh đế tập, diệt, đạo nên lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Này các Thiên tử! Vì lìa Thánh đế khổ nên lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa; vì lìa Thánh đế tập, diệt, đạo nên lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa.

Này các Thiên tử! Vì lìa Thánh đế khổ nên lìa quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; vì lìa Thánh đế tập, diệt, đạo nên lìa quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán.

Này các Thiên tử! Vì lìa Thánh đế khổ nên lìa quả vị Độc giác; vì lìa Thánh đế tập, diệt, đạo nên lìa quả vị Độc giác.

Này các Thiên tử! Vì lìa Thánh đế khổ nên lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát; vì lìa Thánh đế tập, diệt, đạo nên lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát.

Này các Thiên tử! Vì lìa Thánh đế khổ nên lìa quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật; vì lìa Thánh đế tập, diệt, đạo nên lìa quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Này các Thiên tử! Vì lìa Thánh đế khổ nên lìa trí nhất thiết trí; vì lìa Thánh đế tập, diệt, đạo nên lìa trí nhất thiết trí.

Lại nữa, các Thiên tử! Vì lìa bốn tịnh lự nên lìa bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì lìa bốn vô lượng, bốn định vô sắc nên lìa bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này các Thiên tử! Vì lìa bốn tịnh lự nên lìa pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; vì lìa bốn vô lượng, bốn định vô sắc nên lìa pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh.

Này các Thiên tử! Vì lìa bốn tịnh lự nên lìa chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; vì lìa bốn vô lượng, bốn định vô sắc nên lìa chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Này các Thiên tử! Vì lìa bốn tịnh lự nên lìa Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; vì lìa bốn vô lượng, bốn định vô sắc nên lìa Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo.

Này các Thiên tử! Vì lìa bốn tịnh lự nên lìa tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; vì lìa bốn vô lượng, bốn định vô sắc nên lìa tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Này các Thiên tử! Vì lìa bốn tịnh lự nên lìa bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; vì lìa bốn vô lượng, bốn định vô sắc nên lìa bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo.

Này các Thiên tử! Vì lìa bốn tịnh lự nên lìa pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; vì lìa bốn vô lượng, bốn định vô sắc nên lìa pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện.

Này các Thiên tử! Vì lìa bốn tịnh lự nên lìa bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; vì lìa bốn vô lượng, bốn định vô sắc nên lìa bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân.

Này các Thiên tử! Vì lìa bốn tịnh lự nên lìa năm loại mắt, sáu phép thần thông; vì lìa bốn vô lượng, bốn định vô sắc nên lìa năm loại mắt, sáu phép thần thông.

Này các Thiên tử! Vì lìa bốn tịnh lự nên lìa mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; vì lìa bốn vô lượng, bốn định vô sắc nên lìa mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Này các Thiên tử! Vì lìa bốn tịnh lự nên lìa pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; vì lìa bốn vô lượng, bốn định vô sắc nên lìa pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.

Này các Thiên tử! Vì lìa bốn tịnh lự nên lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; vì lìa bốn vô lượng, bốn định vô sắc nên lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Này các Thiên tử! Vì lìa bốn tịnh lự nên lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa; vì lìa bốn vô lượng, bốn định vô sắc nên lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa.

Này các Thiên tử! Vì lìa bốn tịnh lự nên lìa quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; vì lìa bốn vô lượng, bốn định vô sắc nên lìa quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán.

Này các Thiên tử! Vì lìa bốn tịnh lự nên lìa quả vị Độc giác; vì lìa bốn vô lượng, bốn định vô sắc nên lìa quả vị Độc giác.

Này các Thiên tử! Vì lìa bốn tịnh lự nên lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát; vì lìa bốn vô lượng, bốn định vô sắc nên lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát.

Này các Thiên tử! Vì lìa bốn tịnh lự nên lìa quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật; vì lìa bốn vô lượng, bốn định vô sắc nên lìa quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Này các Thiên tử! Vì lìa bốn tịnh lự nên lìa trí nhất thiết trí; vì lìa bốn vô lượng, bốn định vô sắc nên lìa trí nhất thiết trí.

Lại nữa, các Thiên tử! Vì lìa tám giải thoát nên lìa bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì lìa tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ nên lìa bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này các Thiên tử! Vì lìa tám giải thoát nên lìa pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; vì lìa tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ nên lìa pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh.

Này các Thiên tử! Vì lìa tám giải thoát nên lìa chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; vì lìa tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ nên lìa chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Này các Thiên tử! Vì lìa tám giải thoát nên lìa Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; vì lìa tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ nên lìa Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo.

Này các Thiên tử! Vì lìa tám giải thoát nên lìa bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; vì lìa tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ nên lìa bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Này các Thiên tử! Vì lìa tám giải thoát nên lìa bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; vì lìa tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ nên lìa bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo.

Này các Thiên tử! Vì lìa tám giải thoát nên lìa pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; vì lìa tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ nên lìa pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện.

Này các Thiên tử! Vì lìa tám giải thoát nên lìa bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; vì lìa tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ nên lìa bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân.

Này các Thiên tử! Vì lìa tám giải thoát nên lìa năm loại mắt, sáu phép thần thông; vì lìa tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ nên lìa năm loại mắt, sáu phép thần thông.

Này các Thiên tử! Vì lìa tám giải thoát nên lìa mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; vì lìa tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ nên lìa mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Này các Thiên tử! Vì lìa tám giải thoát nên lìa pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; vì lìa tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ nên lìa pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.

Này các Thiên tử! Vì lìa tám giải thoát nên lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; vì lìa tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ nên lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Này các Thiên tử! Vì lìa tám giải thoát nên lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa; vì lìa tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ nên lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa.

Này các Thiên tử! Vì lìa tám giải thoát nên lìa quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; vì lìa tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ nên lìa quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán.

Này các Thiên tử! Vì lìa tám giải thoát nên lìa quả vị Độc giác; vì lìa tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ nên lìa quả vị Độc giác.

Này các Thiên tử! Vì lìa tám giải thoát nên lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát; vì lìa tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ nên lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát.

Này các Thiên tử! Vì lìa tám giải thoát nên lìa quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật; vì lìa tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ nên lìa quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Này các Thiên tử! Vì lìa tám giải thoát nên lìa trí nhất thiết trí; vì lìa tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ nên lìa trí nhất thiết trí.

Lại nữa, các Thiên tử! Vì lìa bốn niệm trụ nên lìa bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì lìa bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo nên lìa bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này các Thiên tử! Vì lìa bốn niệm trụ nên lìa pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; vì lìa bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo nên lìa pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh.

Này các Thiên tử! Vì lìa bốn niệm trụ nên lìa chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; vì lìa bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo nên lìa chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Này các Thiên tử! Vì lìa bốn niệm trụ nên lìa Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; vì lìa bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo nên lìa Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo.

Này các Thiên tử! Vì lìa bốn niệm trụ nên lìa bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; vì lìa bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo nên lìa bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Này các Thiên tử! Vì lìa bốn niệm trụ nên lìa tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; vì lìa bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo nên lìa tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Này các Thiên tử! Vì lìa bốn niệm trụ nên lìa pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; vì lìa bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo nên lìa pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện.

Này các Thiên tử! Vì lìa bốn niệm trụ nên lìa bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; vì lìa bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo nên lìa bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân.

Này các Thiên tử! Vì lìa bốn niệm trụ nên lìa năm loại mắt, sáu phép thần thông; vì lìa bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo nên lìa năm loại mắt, sáu phép thần thông.

Này các Thiên tử! Vì lìa bốn niệm trụ nên lìa mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; vì lìa bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo nên lìa mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Này các Thiên tử! Vì lìa bốn niệm trụ nên lìa pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; vì lìa bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo nên lìa pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.

Này các Thiên tử! Vì lìa bốn niệm trụ nên lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; vì lìa bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo nên lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Này các Thiên tử! Vì lìa bốn niệm trụ nên lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa; vì lìa bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo nên lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa.

Này các Thiên tử! Vì lìa bốn niệm trụ nên lìa quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; vì lìa bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo nên lìa quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán.

Này các Thiên tử! Vì lìa bốn niệm trụ nên lìa quả vị Độc giác; vì lìa bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo nên lìa quả vị Độc giác.

Này các Thiên tử! Vì lìa bốn niệm trụ nên lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát; vì lìa bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo nên lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát.

Này các Thiên tử! Vì lìa bốn niệm trụ nên lìa quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật; vì lìa bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo nên lìa quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Này các Thiên tử! Vì lìa bốn niệm trụ nên lìa trí nhất thiết trí; vì lìa bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo nên lìa trí nhất thiết trí.

Lại nữa, các Thiên tử! Vì lìa pháp môn giải thoát không nên lìa bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì lìa pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện nên lìa bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này các Thiên tử! Vì lìa pháp môn giải thoát không nên lìa pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; vì lìa pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện nên lìa pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh.

Này các Thiên tử! Vì lìa pháp môn giải thoát không nên lìa chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; vì lìa pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện nên lìa chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Này các Thiên tử! Vì lìa pháp môn giải thoát không nên lìa Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; vì lìa pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện nên lìa Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo.

Này các Thiên tử! Vì lìa pháp môn giải thoát không nên lìa bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; vì lìa pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện nên lìa bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Này các Thiên tử! Vì lìa pháp môn giải thoát không nên lìa tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; vì lìa pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện nên lìa tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Này các Thiên tử! Vì lìa pháp môn giải thoát không nên lìa bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; vì lìa pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện nên lìa bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo.

Này các Thiên tử! Vì lìa pháp môn giải thoát không nên lìa bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; vì lìa pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện nên lìa bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân.

Này các Thiên tử! Vì lìa pháp môn giải thoát không nên lìa năm loại mắt, sáu phép thần thông; vì lìa pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện nên lìa năm loại mắt, sáu phép thần thông.

Này các Thiên tử! Vì lìa pháp môn giải thoát không nên lìa mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; vì lìa pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện nên lìa mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Này các Thiên tử! Vì lìa pháp môn giải thoát không nên lìa pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; vì lìa pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện nên lìa pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.

Này các Thiên tử! Vì lìa pháp môn giải thoát không nên lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; vì lìa pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện nên lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Này các Thiên tử! Vì lìa pháp môn giải thoát không nên lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa; vì lìa pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện nên lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa.

Này các Thiên tử! Vì lìa pháp môn giải thoát không nên lìa quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; vì lìa pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện nên lìa quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán.

Này các Thiên tử! Vì lìa pháp môn giải thoát không nên lìa quả vị Độc giác; vì lìa pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện nên lìa quả vị Độc giác.

Này các Thiên tử! Vì lìa pháp môn giải thoát không nên lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát; vì lìa pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện nên lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát.

Này các Thiên tử! Vì lìa pháp môn giải thoát không nên lìa quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật; vì lìa pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện nên lìa quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Này các Thiên tử! Vì lìa pháp môn giải thoát không nên lìa trí nhất thiết trí; vì lìa pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện nên lìa trí nhất thiết trí.

 

Quyển thứ 344

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/05/2012(Xem: 8729)
Tín Nghĩa tôi đến định cư Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 09 năm 1979, do nhị vị Hòa thượng Thích Thiên Ân và Hòa thượng Thích Mãn Giác bảo lãnh từ trại tỵ nạn Hongkong. Ngồi tính sổ thời gian thì cũng đã gỡ gần ba chục cuốn lịch. Giá như thời gian này mà ở trong tù thì cũng mục xương và chẳng bao giờ được thấy ánh sáng của thiên nhiên.
27/05/2012(Xem: 20404)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 6240)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 8626)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 5697)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 19234)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 9579)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 6063)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 6853)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
23/03/2012(Xem: 6326)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa Thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa Thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]