Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 374: Phẩm Vô Tướng Vô Đắc 02

15/07/201520:18(Xem: 13329)
Quyển 374: Phẩm Vô Tướng Vô Đắc 02

Tập 07

Quyển 374

 Phẩm Vô Tướng Vô Đắc 02
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí


 

 

Việc an trụ pháp không nội, chẳng lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa là đều do Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, việc an trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, chẳng lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa là đều do Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ; việc an trụ chơn như, chẳng lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa là đều do Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, việc an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, chẳng lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa là đều do Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ; việc tu năm loại mắt, chẳng lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa là đều do Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, việc tu sáu phép thần thông, chẳng lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa là đều do Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ; việc tu mười lực Phật, chẳng lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa là đều do Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, việc tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa là đều do Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ; việc tu đại từ, chẳng lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa là đều do Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, việc tu đại bi, đại hỷ, đại xả, chẳng lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa là đều do Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ; việc tu pháp không quên mất, chẳng lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa là đều do Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, việc tu tánh luôn luôn xả, chẳng lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa là đều do Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ; việc tu trí nhất thiết, chẳng lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa là đều do Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, việc tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chẳng lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa là đều do Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ; việc tu ba mươi hai tướng đại sĩ, chẳng lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa là đều do Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, việc tu tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, chẳng lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa là đều do Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ.

Này Thiện Hiện! Như vậy, Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa trong khoảng một sát-na, tâm có thể nhiếp thọ đầy đủ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ ba mươi hai tướng đại sĩ và tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tại sao Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, các việc đã làm chẳng lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thường được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên trong khoảng một sát-na, tâm có thể nhiếp thọ đầy đủ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đà-la-ni; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ ba mươi hai tướng đại sĩ và tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, việc hành bố thí Ba-la-mật-đa vì được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng, việc hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, vì được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng; việc tu bốn tịnh lự, vì được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng, việc tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc, vì được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng; việc tu bốn niệm trụ, vì được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng, việc tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, vì được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng; việc tu pháp môn giải thoát không, vì được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng, việc tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, vì được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng; việc an trụ Thánh đế khổ, vì được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng, việc an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo, vì được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng; việc tu tám giải thoát, vì được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng, việc tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, vì được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng; việc tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa, vì được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng, việc tu tất cả pháp môn Đà-la-ni, vì được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng; việc an trụ pháp không nội, vì được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng, việc an trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, vì được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng; việc an trụ chơn như, vì được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng, việc an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, vì được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng; việc tu năm loại mắt, vì được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng, việc tu sáu phép thần thông, vì được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng; việc tu mười lực Phật, vì được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng, việc tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, vì được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng; việc tu đại từ, vì được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng, việc tu đại bi, đại hỷ, đại xả, vì được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng; việc tu pháp không quên mất, vì được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng, việc tu tánh luôn luôn xả, vì được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng; việc tu trí nhất thiết, vì được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng, việc tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, vì được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng; việc dẫn phát ba mươi hai tướng đại sĩ, vì được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng, việc dẫn phát tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, vì được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tại sao Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tuy hành bố thí Ba-la-mật-đa mà không có hai tưởng, tuy hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà không có hai tưởng; tuy tu bốn tịnh lự mà không có hai tưởng, tuy tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà không có hai tưởng; tuy tu bốn niệm trụ mà không có hai tưởng, tuy tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà không có hai tưởng; tuy tu pháp môn giải thoát không mà không có hai tưởng, tuy tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mà không có hai tưởng; tuy an trụ Thánh đế khổ mà không có hai tưởng, tuy an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo mà không có hai tưởng; tuy tu tám giải thoát mà không có hai tưởng, tuy tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà không có hai tưởng; tuy tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà không có hai tưởng, tuy tu tất cả pháp môn Đà-la-ni mà không có hai tưởng; tuy an trụ pháp không nội mà không có hai tưởng, tuy an trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà không có hai tưởng; tuy an trụ chơn như mà không có hai tưởng, tuy an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mà không có hai tưởng; tuy tu năm loại mắt mà không có hai tưởng, tuy tu sáu phép thần thông mà không có hai tưởng; tuy tu mười lực Phật mà không có hai tưởng, tuy tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà không có hai tưởng; tuy tu đại từ mà không có hai tưởng, tuy tu đại bi, đại hỷ, đại xả mà không có hai tưởng; tuy tu pháp không quên mất mà không có hai tưởng, tuy tu tánh luôn luôn xả mà không có hai tưởng; tuy tu trí nhất thiết mà không có hai tưởng, tuy tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà không có hai tưởng; việc dẫn phát ba mươi hai tướng đại sĩ mà không có hai tưởng, việc dẫn phát tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà không có hai tưởng.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa vì muốn viên mãn bố thí Ba-la-mật-đa nên ngay trong bố thí Ba-la-mật-đa, nhiếp thọ tất cả bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà hành bố thí; nhiếp thọ tất cả bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà hành bố thí; nhiếp thọ tất cả bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà hành bố thí; nhiếp thọ tất cả pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện mà hành bố thí; nhiếp thọ tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà hành bố thí; nhiếp thọ tất cả tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà hành bố thí; nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa, pháp môn Đà-la-ni mà hành bố thí; nhiếp thọ tất cả pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà hành bố thí; nhiếp thọ tất cả chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mà hành bố thí; nhiếp thọ tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà hành bố thí; nhiếp thọ tất cả mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà hành bố thí; nhiếp thọ tất cả đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả mà hành bố thí; nhiếp thọ tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà hành bố thí; nhiếp thọ tất cả trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà hành bố thí; nhiếp thọ tất cả ba mươi hai tướng đại sĩ và tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà hành bố thí. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, vì muốn viên mãn tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên ngay trong tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nhiếp thọ tất cả bố thí cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà hành tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa; nhiếp thọ tất cả bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà hành tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa; nhiếp thọ tất cả bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà hành tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa; nhiếp thọ tất cả pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện mà hành tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa; nhiếp thọ tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà hành tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa; nhiếp thọ tất cả tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà hành tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa; nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa, pháp môn Đà-la-ni mà hành tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa; nhiếp thọ tất cả pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà hành tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa; nhiếp thọ tất cả chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mà hành tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa; nhiếp thọ tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà hành tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa; nhiếp thọ tất cả mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà hành tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa; nhiếp thọ tất cả đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả mà hành tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa; nhiếp thọ tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà hành tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa; nhiếp thọ tất cả trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà hành tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa; nhiếp thọ tất cả ba mươi hai tướng đại sĩ và tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà hành tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, vì muốn viên mãn bốn tịnh lự nên ngay trong bốn tịnh lự nhiếp thọ tất cả bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà tu bốn tịnh lự; nhiếp thọ tất cả bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà tu bốn tịnh lự; nhiếp thọ tất cả bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà tu bốn tịnh lự; nhiếp thọ tất cả pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện mà tu bốn tịnh lự; nhiếp thọ tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà tu bốn tịnh lự; nhiếp thọ tất cả tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà tu bốn tịnh lự; nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa, pháp môn Đà-la-ni mà tu bốn tịnh lự; nhiếp thọ tất cả pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà tu bốn tịnh lự; nhiếp thọ tất cả chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mà tu bốn tịnh lự; nhiếp thọ tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà tu bốn tịnh lự; nhiếp thọ tất cả mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà tu bốn tịnh lự; nhiếp thọ tất cả đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả mà tu bốn tịnh lự; nhiếp thọ tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà tu bốn tịnh lự; nhiếp thọ tất cả trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà tu bốn tịnh lự; nhiếp thọ tất cả ba mươi hai tướng đại sĩ và tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà tu bốn tịnh lự. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, vì muốn viên mãn bốn vô lượng, bốn định vô sắc nên ngay trong bốn vô lượng, bốn định vô sắc nhiếp thọ tất cả bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc; nhiếp thọ tất cả bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc; nhiếp thọ tất cả bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc; nhiếp thọ tất cả pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện mà tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc; nhiếp thọ tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc; nhiếp thọ tất cả tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc; nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa, pháp môn Đà-la-ni mà tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc; nhiếp thọ tất cả pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc; nhiếp thọ tất cả chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mà tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc; nhiếp thọ tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc; nhiếp thọ tất cả mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc; nhiếp thọ tất cả đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả mà tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc; nhiếp thọ tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc; nhiếp thọ tất cả trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc; nhiếp thọ tất cả ba mươi hai tướng đại sĩ và tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, vì muốn viên mãn bốn niệm trụ nên ngay trong bốn niệm trụ nhiếp thọ tất cả bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà tu bốn niệm trụ; nhiếp thọ tất cả bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà tu bốn niệm trụ; nhiếp thọ tất cả bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà tu bốn niệm trụ; nhiếp thọ tất cả pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện mà tu bốn niệm trụ; nhiếp thọ tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà tu bốn niệm trụ; nhiếp thọ tất cả tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà tu bốn niệm trụ; nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa, pháp môn Đà-la-ni mà tu bốn niệm trụ; nhiếp thọ tất cả pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà tu bốn niệm trụ; nhiếp thọ tất cả chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mà tu bốn niệm trụ; nhiếp thọ tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà tu bốn niệm trụ; nhiếp thọ tất cả mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà tu bốn niệm trụ; nhiếp thọ tất cả đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả mà tu bốn niệm trụ; nhiếp thọ tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà tu bốn niệm trụ; nhiếp thọ tất cả trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà tu bốn niệm trụ; nhiếp thọ tất cả ba mươi hai tướng đại sĩ và tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà tu bốn niệm trụ. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, vì muốn viên mãn bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo nên ngay trong bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo, nhiếp thọ tất cả bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà tu bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; nhiếp thọ tất cả bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà tu bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; nhiếp thọ tất cả bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà tu bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; nhiếp thọ tất cả pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện mà tu bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; nhiếp thọ tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà tu bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; nhiếp thọ tất cả tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà tu bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa, pháp môn Đà-la-ni mà tu bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; nhiếp thọ tất cả pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà tu bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; nhiếp thọ tất cả chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mà tu bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; nhiếp thọ tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà tu bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; nhiếp thọ tất cả mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà tu bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; nhiếp thọ tất cả đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả mà tu bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; nhiếp thọ tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà tu bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; nhiếp thọ tất cả trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà tu bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; nhiếp thọ tất cả ba mươi hai tướng đại sĩ và tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà tu bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, vì muốn viên mãn pháp môn giải thoát không nên ngay trong pháp môn giải thoát không, nhiếp thọ tất cả bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà tu pháp môn giải thoát không; nhiếp thọ tất cả bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà tu pháp môn giải thoát không; nhiếp thọ tất cả bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà tu pháp môn giải thoát không; nhiếp thọ tất cả pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện mà tu pháp môn giải thoát không; nhiếp thọ tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà tu pháp môn giải thoát không; nhiếp thọ tất cả tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà tu pháp môn giải thoát không; nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa, pháp môn Đà-la-ni mà tu pháp môn giải thoát không; nhiếp thọ tất cả pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà tu pháp môn giải thoát không; nhiếp thọ tất cả chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mà tu pháp môn giải thoát không; nhiếp thọ tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà tu pháp môn giải thoát không; nhiếp thọ tất cả mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà tu pháp môn giải thoát không; nhiếp thọ tất cả đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả mà tu pháp môn giải thoát không; nhiếp thọ tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà tu pháp môn giải thoát không; nhiếp thọ tất cả trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà tu pháp môn giải thoát không; nhiếp thọ tất cả ba mươi hai tướng đại sĩ và tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà tu pháp môn giải thoát không. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, vì muốn viên mãn pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện nên ngay trong pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, nhiếp thọ tất cả bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; nhiếp thọ tất cả bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; nhiếp thọ tất cả bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; nhiếp thọ tất cả pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện mà tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; nhiếp thọ tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; nhiếp thọ tất cả tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa, pháp môn Đà-la-ni mà tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; nhiếp thọ tất cả pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; nhiếp thọ tất cả chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mà tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; nhiếp thọ tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; nhiếp thọ tất cả mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; nhiếp thọ tất cả đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả mà tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; nhiếp thọ tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; nhiếp thọ tất cả trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; nhiếp thọ tất cả ba mươi hai tướng đại sĩ và tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, vì muốn viên mãn Thánh đế khổ nên ngay trong Thánh đế khổ, nhiếp thọ tất cả bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà an trụ Thánh đế khổ; nhiếp thọ tất cả bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà an trụ Thánh đế khổ; nhiếp thọ tất cả bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà an trụ Thánh đế khổ; nhiếp thọ tất cả pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện mà an trụ Thánh đế khổ; nhiếp thọ tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà an trụ Thánh đế khổ; nhiếp thọ tất cả tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà an trụ Thánh đế khổ; nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa, pháp môn Đà-la-ni mà an trụ Thánh đế khổ; nhiếp thọ tất cả pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà an trụ Thánh đế khổ; nhiếp thọ tất cả chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mà an trụ Thánh đế khổ; nhiếp thọ tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà an trụ Thánh đế khổ; nhiếp thọ tất cả mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà an trụ Thánh đế khổ; nhiếp thọ tất cả đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả mà an trụ Thánh đế khổ; nhiếp thọ tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà an trụ Thánh đế khổ; nhiếp thọ tất cả trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà an trụ Thánh đế khổ; nhiếp thọ tất cả ba mươi hai tướng đại sĩ và tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà an trụ Thánh đế khổ. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, vì muốn viên mãn Thánh đế tập, diệt, đạo nên ngay trong Thánh đế tập, diệt, đạo, nhiếp thọ tất cả bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; nhiếp thọ tất cả bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; nhiếp thọ tất cả bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; nhiếp thọ tất cả pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện mà an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; nhiếp thọ tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; nhiếp thọ tất cả tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa, pháp môn Đà-la-ni mà an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; nhiếp thọ tất cả pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; nhiếp thọ tất cả chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mà an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; nhiếp thọ tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; nhiếp thọ tất cả mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; nhiếp thọ tất cả đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả mà an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; nhiếp thọ tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; nhiếp thọ tất cả trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; nhiếp thọ tất cả ba mươi hai tướng đại sĩ và tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, vì muốn viên mãn tám giải thoát, nên ngay trong tám giải thoát, nhiếp thọ tất cả bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà tu tám giải thoát; nhiếp thọ tất cả bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà tu tám giải thoát; nhiếp thọ tất cả bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà tu tám giải thoát; nhiếp thọ tất cả pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện mà tu tám giải thoát; nhiếp thọ tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà tu tám giải thoát; nhiếp thọ tất cả tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà tu tám giải thoát; nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa, pháp môn Đà-la-ni mà tu tám giải thoát; nhiếp thọ tất cả pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà tu tám giải thoát; nhiếp thọ tất cả chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mà tu tám giải thoát; nhiếp thọ tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà tu tám giải thoát; nhiếp thọ tất cả mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà tu tám giải thoát; nhiếp thọ tất cả đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả mà tu tám giải thoát; nhiếp thọ tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà tu tám giải thoát; nhiếp thọ tất cả trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà tu tám giải thoát; nhiếp thọ tất cả ba mươi hai tướng đại sĩ và tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà tu tám giải thoát. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, vì muốn viên mãn tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, nên ngay trong tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, nhiếp thọ tất cả bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; nhiếp thọ tất cả bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; nhiếp thọ tất cả bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; nhiếp thọ tất cả pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện mà tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; nhiếp thọ tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; nhiếp thọ tất cả tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa, pháp môn Đà-la-ni mà tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; nhiếp thọ tất cả pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; nhiếp thọ tất cả chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mà tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; nhiếp thọ tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; nhiếp thọ tất cả mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; nhiếp thọ tất cả đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả mà tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; nhiếp thọ tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; nhiếp thọ tất cả trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; nhiếp thọ tất cả ba mươi hai tướng đại sĩ và tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, vì muốn viên mãn tất cả pháp môn Tam-ma-địa, nên ngay trong tất cả pháp môn Tam-ma-địa, nhiếp thọ tất cả bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; nhiếp thọ tất cả bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; nhiếp thọ tất cả bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; nhiếp thọ tất cả pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện mà tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; nhiếp thọ tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; nhiếp thọ tất cả tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa, pháp môn Đà-la-ni mà tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; nhiếp thọ tất cả pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; nhiếp thọ tất cả chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mà tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; nhiếp thọ tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông mà tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; nhiếp thọ tất cả mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; nhiếp thọ tất cả đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả mà tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; nhiếp thọ tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; nhiếp thọ tất cả trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; nhiếp thọ tất cả ba mươi hai tướng đại sĩ và tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

 

Quyển thứ 374

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/05/2012(Xem: 8729)
Tín Nghĩa tôi đến định cư Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 09 năm 1979, do nhị vị Hòa thượng Thích Thiên Ân và Hòa thượng Thích Mãn Giác bảo lãnh từ trại tỵ nạn Hongkong. Ngồi tính sổ thời gian thì cũng đã gỡ gần ba chục cuốn lịch. Giá như thời gian này mà ở trong tù thì cũng mục xương và chẳng bao giờ được thấy ánh sáng của thiên nhiên.
27/05/2012(Xem: 20403)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 6240)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 8626)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 5697)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 19234)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 9579)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 6063)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 6851)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
23/03/2012(Xem: 6326)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa Thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa Thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]