Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 247: Phẩm Khó Tin Hiểu 66

09/07/201521:16(Xem: 13415)
Quyển 247: Phẩm Khó Tin Hiểu 66

Tập 05

 Quyển 247

 Phẩm Khó Tin Hiểu 66
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí



 

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên sắc xứ thanh tịnh; vì sắc xứ thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc sắc xứ thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thanh tịnh; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên nhãn giới thanh tịnh; vì nhãn giới thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc nhãn giới thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên nhĩ giới thanh tịnh; vì nhĩ giới thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc nhĩ giới thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên tỷ giới thanh tịnh; vì tỷ giới thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc tỷ giới thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên thiệt giới thanh tịnh; vì thiệt giới thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc thiệt giới thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên thân giới thanh tịnh; vì thân giới thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc thân giới thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên ý giới thanh tịnh; vì ý giới thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc ý giới thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên địa giới thanh tịnh; vì địa giới thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc địa giới thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên thủy, hoả, phong, không, thức giới thanh tịnh; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc thủy, hỏa, phong, không, thức giới thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên vô minh thanh tịnh; vì vô minh thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc vô minh thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não thanh tịnh; vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì an nhẫn cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc an nhẫn cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên pháp không nội thanh tịnh; vì pháp không nội thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc pháp không nội thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bổn tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh thanh tịnh; vì pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên chơn như thanh tịnh; vì chơn như thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc chơn như thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì thanh tịnh; vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên Thánh đế khổ thanh tịnh; vì Thánh đế khổ thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc Thánh đế khổ thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên Thánh đế tập, diệt, đạo thanh tịnh; vì Thánh đế tập, diệt, đạo thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc Thánh đế tập, diệt, đạo thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên bốn tịnh lự thanh tịnh; vì bốn tịnh lự thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc bốn tịnh lự thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên bốn vô lượng, bốn định vô sắc thanh tịnh; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc bốn vô lượng, bốn định vô sắc thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên tám giải thoát thanh tịnh; vì tám giải thoát thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc tám giải thoát thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ thanh tịnh; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên bốn niệm trụ thanh tịnh; vì bốn niệm trụ thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc bốn niệm trụ thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo thanh tịnh; vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên pháp môn giải thoát không thanh tịnh; vì pháp môn giải thoát không thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc pháp môn giải thoát không thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên mười địa Bồ-tát thanh tịnh; vì mười địa Bồ-tát thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc mười địa Bồ-tát thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên năm loại mắt thanh tịnh; vì năm loại mắt thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc năm loại mắt thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên sáu phép thần thông thanh tịnh; vì sáu phép thần thông thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc sáu phép thần thông thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên mười lực Phật thanh tịnh; vì mười lực Phật thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc mười lực Phật thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng thanh tịnh; vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên pháp không quên mất thanh tịnh; vì pháp không quên mất thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc pháp không quên mất thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên tánh luôn luôn xả thanh tịnh; vì tánh luôn luôn xả thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc tánh luôn luôn xả thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiên! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên trí nhất thiết thanh tịnh; vì trí nhất thiết thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc trí nhất thiết thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thanh tịnh; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên tất cả pháp môn Đà-la-ni thanh tịnh; vì tất cả pháp môn Đà-la-ni thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc tất cả pháp môn Đà-la-ni thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên tất cả pháp môn Tam-ma-địa thanh tịnh; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc tất cả pháp môn Tam-ma-địa thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên Dự-lưu quả thanh tịnh; vì Dự-lưu quả thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc Dự-lưu quả thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán quả thanh tịnh; vì Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán quả thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán quả thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên quả vị Độc-giác thanh tịnh; vì quả vị Độc-giác thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc quả vị Độc-giác thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên tất cả hạnh đại Bồ-tát thanh tịnh; vì tất cả hạnh đại Bồ-tát thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc tất cả hạnh đại Bồ-tát thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thanh tịnh; vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Lại nữa, Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên sắc thanh tịnh; vì sắc thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc sắc thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh; vì thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên nhãn xứ thanh tịnh; vì nhãn xứ thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc nhãn xứ thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thanh tịnh; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên sắc xứ thanh tịnh; vì sắc xứ thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc sắc xứ thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thanh tịnh; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên nhãn giới thanh tịnh; vì nhãn giới thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc nhãn giới thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên nhĩ giới thanh tịnh; vì nhĩ giới thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc nhĩ giới thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên tỷ giới thanh tịnh; vì tỷ giới thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc tỷ giới thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên thiệt giới thanh tịnh; vì thiệt giới thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc thiệt giới thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên thân giới thanh tịnh; vì thân giới thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc thân giới thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên ý giới thanh tịnh; vì ý giới thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc ý giới thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên địa giới thanh tịnh; vì địa giới thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc địa giới thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên thủy, hoả, phong, không, thức giới thanh tịnh; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc thủy, hỏa, phong, không, thức giới thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên vô minh thanh tịnh; vì vô minh thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc vô minh thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não thanh tịnh; vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc tịnh giới Ba-la-mật-đa thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì an nhẫn cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc an nhẫn cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên pháp không nội thanh tịnh; vì pháp không nội thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc pháp không nội thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bổn tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh thanh tịnh; vì pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên chơn như thanh tịnh; vì chơn như thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc chơn như thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì thanh tịnh; vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên Thánh đế khổ thanh tịnh; vì Thánh đế khổ thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc Thánh đế khổ thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên Thánh đế tập, diệt, đạo thanh tịnh; vì Thánh đế tập, diệt, đạo thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc Thánh đế tập, diệt, đạo thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên bốn tịnh lự thanh tịnh; vì bốn tịnh lự thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc bốn tịnh lự thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên bốn vô lượng, bốn định vô sắc thanh tịnh; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc bốn vô lượng, bốn định vô sắc thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên tám giải thoát thanh tịnh; vì tám giải thoát thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc tám giải thoát thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ thanh tịnh; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên bốn niệm trụ thanh tịnh; vì bốn niệm trụ thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc bốn niệm trụ thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo thanh tịnh; vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên pháp môn giải thoát không thanh tịnh; vì pháp môn giải thoát không thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc pháp môn giải thoát không thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên mười địa Bồ-tát thanh tịnh; vì mười địa Bồ-tát thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc mười địa Bồ-tát thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên năm loại mắt thanh tịnh; vì năm loại mắt thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc năm loại mắt thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên sáu phép thần thông thanh tịnh; vì sáu phép thần thông thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc sáu phép thần thông thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên mười lực Phật thanh tịnh; vì mười lực Phật thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc mười lực Phật thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng thanh tịnh; vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên pháp không quên mất thanh tịnh; vì pháp không quên mất thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc pháp không quên mất thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên tánh luôn luôn xả thanh tịnh; vì tánh luôn luôn xả thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc tánh luôn luôn xả thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiên! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên trí nhất thiết thanh tịnh; vì trí nhất thiết thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc trí nhất thiết thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thanh tịnh; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên tất cả pháp môn Đà-la-ni thanh tịnh; vì tất cả pháp môn Đà-la-ni thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc tất cả pháp môn Đà-la-ni thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên tất cả pháp môn Tam-ma-địa thanh tịnh; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc tất cả pháp môn Tam-ma-địa thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên Dự-lưu quả thanh tịnh; vì Dự-lưu quả thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc Dự-lưu quả thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán quả thanh tịnh; vì Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán quả thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán quả thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên quả vị Độc-giác thanh tịnh; vì quả vị Độc-giác thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc quả vị Độc-giác thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên tất cả hạnh đại Bồ-tát thanh tịnh; vì tất cả hạnh đại Bồ-tát thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc tất cả hạnh đại Bồ-tát thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh nên quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thanh tịnh; vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thanh tịnh nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thanh tịnh, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

 

Quyển thứ 247

Hết

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/05/2012(Xem: 8729)
Tín Nghĩa tôi đến định cư Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 09 năm 1979, do nhị vị Hòa thượng Thích Thiên Ân và Hòa thượng Thích Mãn Giác bảo lãnh từ trại tỵ nạn Hongkong. Ngồi tính sổ thời gian thì cũng đã gỡ gần ba chục cuốn lịch. Giá như thời gian này mà ở trong tù thì cũng mục xương và chẳng bao giờ được thấy ánh sáng của thiên nhiên.
27/05/2012(Xem: 20404)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 6240)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 8626)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 5697)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 19234)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 9579)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 6063)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 6853)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
23/03/2012(Xem: 6326)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa Thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa Thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]