Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

17. Tạn mạn về nhân bản trong Phật giáo - Thích Đức Trường

16/05/201317:16(Xem: 2771)
17. Tạn mạn về nhân bản trong Phật giáo - Thích Đức Trường


Tuyển tập

Phật Thành Đạo

Nhiều tác giả
--- o0o --- 

Phần III

Phật giáo và các vấn đề hiện tại

--- o0o ---

TẢN MẠN VỀ NHÂN BẢN TRONG PHẬT GIÁO

Thích Đức Trường

Chủ nghĩa nhân bản Phật giáo có phải chăng là hồi chuông thức tỉnh trầm lắng sâu vào nguồn tâm kêu gọi con người hãy nhận rõ những gì ảo vọng, tạm bợ, chóng tàn, tự mở ra cánh cửa bất tử vượt thoát khỏi sanh, già, bệnh, chếT, tìm đến con đường an vui hạnh phúc.

Chủ nghĩa nhân bản ở phương Tây ra đời trong thời kỳ được gọi là phục hưng và phát triển mạnh mẽ cùng với thời đại khoa học nhằm giải quyết vấn đề đời sống con người và những giá trị liên quan các hiện tượng trên hành tinh.

Trong khi đo,?ách đây hơn 2500 năm chủ nghĩa nhân bản Phật giáo đã xuất hiện ở Ấn Độ và lan truyền rộng khắp phương Đông, khác hẳn với các tôn giáo như Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo, Hindu Giáo, Lão Giáo…. Phật giáo không chủ trương tin tưởng vào thần quyền hay đấng sáng tạo nào làm chủ điều khiển con người và vũ trụ; cũng không tin vào một truyền thống hay một tập tục lâu đời nào.

Phật giáo thuyết phục con người nên tin vào chính mình bằng sự xem xét của nội tâm, không tin tưởng một cách mù quáng vào lời tuyên bố của ai khác.

Trong Aơ guttara Nik ya, Đức Phật đã cho lời khuyên đến K l ma: Này K l ma, đừng chấp nhận chỉ vì nó được đồn đãi, bởi vì nó được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, bởi vì nó phù hợp với kinh Thánh, với luân lý, bởi điều đó thú vị để nghe, hoặc người nói có trách nhiệm, có nhân cách, hoặc người đó đáng kính trọng. Bản thân ông bằng kinh nghiệm của chính mình, xét xem điều đó có phải là điều thiện (kusala) không lỗi lầm , có thể chấp nhận và khâm phục bởi người trí, có cách cư xử và thái độ phù hợp mang lại điều hạnh phúc. Này K l ma, ông nên theo những điều đó".

Những dòng kệ từ Jn nas ra Samuchchaya, Đức Phật dạy:

Như người thợ thử vàng
Đốt mài trong lửa đỏ
Cũng vậy lời của ta
Nên hướng thượng chấp nhận
Bằng tư duy quán chiếu.

Đức Phật Gotama (563-483), vị Thầy vĩ đại trong số các nhà thành lập tôn giáo, được tuyên bố là nhà thực chứng đạt được quả Bồ-đề, giải thoát, ra khỏi ba cõi. Ngài thôi thúc và mong mỏi những người theo Ngài bước lên con đường tu tập tâm linh và giới hạnh đạo đức đã được khám phá trong quá trình kinh nghiệm tinh thần của Ngài.

Trong ba minh mà Đức phật đã chứng đạt, hai minh đầu phản ánh các phương diện nghiệp báo, luân hồi và tái sanh. Minh thứ ba hình thành bản chất của đạo phật, sự vắng mặt các phiền não lậu hoặc; sự thành tựu giác ngộ và giải thoát. Điều chú ý ở đây, con đường giải thoát và chứng ngộ của Đức Phật mang tính siêu việt vượt thoát qua những giới hạn của luật nghiệp báo, luân hồi.

Bằng kinh nghiệm tinh thần của nội tâm, Ngài đả phá những hình thức nghi lễ, tôn thờ, cúng tế và ngay cả sự suy xét vô ích của tư tưởng siêu hình truyền thống.

Lời tuyên bố cô đọng mang khuynh hướng chống đối siêu hình gắn liền với bốn sự thật tối thượng của Đức Phật. Sự thật về khổ, về nguyên nhân của khổ, sự thật về sự chấm dứt khổ và sự thật về con đường dẫn đến sự diệt tận của khổ. Con đường dẫn đến sự diệt tận của khổ là con đường Thánh đạo tám nghành hướng đến trạng thái giải thoát Niết-bàn. Những lời dạy đơn giản này được Đức Phật trình bày trong nhiều dịp trước các thiện nam, tín nữ và đại chúng Tỳ-kheo nhằm mang lại những lợi ích thiết thực.

Đức Phật từ chối trả lời những câu hỏi siêu hình và những cặp phạm trù đưa đến sự nhầm lẫn, không nhổ hết gốc rễ khổ đau trong đời sống con người và tâm linh. Như thế giới thường hằng hay thế giới không thường hằng, thân thể và linh hồn là một hay thân thể và linh hồn là khác; Như Lai tồn tại sau khi chết hay Như Lai không tồn tại sau khi chết; Như Lai tồn tại và không tồn tại sau khi chết hay Như Lai không tồn tại và cũng không không tồn tại sau khi chết. (Trung Bộ kinh)

Tuy thế, không có nghĩa là trong Phật giáo không có những quan điểm siêu hình. Hai quan điểm căn bản siêu hình Phật giáo là học thuyết vô ngã (anatt ) và duyên khởi (prat? tya-Samutp da). Quan điểm vô ngã nhấn mạnh mọi sự vật hiện tượng giới thì không có "ngã" hoặc "linh hồn" mà mọi sự tồn tại chỉ là sự tạm bợ , có thể bị diệt vong và chứa đựng đầy đau khổ hoặc sầu muộn. Các hiện tượng giới đều theo quan niệm duyên khởi được hình thành đều do nhân, do duyên. Sự vận động của nhân duyên này dẫn đến sự sanh khởi của các nhân duyên khác.

Phật giáo tuyên bố rằng không có những sự vật thật sự. Sự vật mà ta gọi đơn thuần chỉ là sự kết hợp của các nguyên tử tạm thời. Không có cái "ngã" vĩnh cữu trong chủ thể "tâm vật lý" được biết như con người. Chủ thể con người nếu được phân tích sẽ không có gì còn lại trong thân năm uẩn (skandha). Mọi sự chấp thủ vào năm uẩn này được coi là gốc rễ của sự luân hồi (saị s ra) mà bản thân chúng xuất phát từ vô minh (avidya). Đó là đặc điểm triết học Phật giáo của các trường phái Thượng Toạ Bộ, Nhứt Thiết Hữu Bộ, Phân Tích Bộ.

Các nhà tư tưởng Mah y nacũng nhằm mục đích thanh lọc bản thân hướng đến sự giải thoát khỏi các lậu hoặc. Đặc biệt hơn, trường phái Trung Quán (M dhyamika) của Mah y nathiết lập học thuyết Tánh không (Ư unyat ) mà khái niệm căn bản của nó thì không chỉ dựa trên chuỗi nguyên nhân mà còn trên tính tương đối. Các sự vật mà chúng đang hiện hữu có những đặc tính dường như phô bày trong mối quan hệ với các sự vật khác. Sự vận động bên trong các hiện tượng mang tính tạm bợ vô thường.

Điều quan trọng hơn hết là Phật giáo đã xây dựng con người nhân bản xuyên qua giới luật và đức hạnh Phật giáo. Đó cũng là mục đích tối thượng của đời sống để chứng đạt Niết-bàn. Bên cạnh đó, Đức Phật cũng quan tâm đến những nguyên tắc, những lời dạy đức hạnh cho hàng cận sự nam, cận sự nữ. Những nguyên tắc chính được chứa đựng trong sự phác hoạ của con đường thánh đạo tám nghành (ashỉ n ơ ga-m rga).

Ở đây chúng ta chỉ nêu một vài đặc điểm nổi bật trong lời dạy của Đức Phật. Đối thoại với vị trưởng làng ở Nalanda, Đức Phật đã hỏi: Ông có nghĩ một người thích thú trong việc giết những con thú vô tội, trộm cắp, tà hạnh, nói dối... và nói những lời lỗ mãng gay gắt hoặc những câu chuyện tầm phào vô bổ, người như thế có thể đến cõi trời qua cầu nguyện không? Đức Phật kết luận rằng con người đạt đến cõi trời bởi hành động tạo tác (karma) mà không do sự cầu nguyện. (Kinh Tập)

Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật dạy rằng:

"Chỉ tội lỗi đã tạo
Mới làm nhơ uế người
Thanh tịnh và nhơ uế
Do hành động cá nhân
Chẳng phải ngoài ai khác
Làm thanh tịnh con người."

Đó cũng là điều mà tại sao Đức Phật không chấp nhận bốn đẳng cấp xã hội Ấn Độ đương thời. Ngài thiết lập mối quan hệ con người với con người trong xã hội xuyên qua sự nhấn mạnh một vài đức hạnh về sự thân thiện, lòng khoan dung và tình thương.

Kinh điển Phật giáo đề cập đến bốn đức hạnh hay bốn tâm vô lượng con người sẽ đạt năng lực tinh thần cao nhất khi thực tập những điều này. Bốn đức hạnh Từ (Maitri), Bi (KaruϠ ), Hỷ (Mudit ), Xả (Upeksh ) có ý nghĩa đặc biệt trong trái tim nhân hậu của vị Bồ-tát trong Phật giáo Mah y na, những vị thực hành hoàn mỹ sáu đức hạnh Ba-la-mật (Paramit ): Bố thí (d na), trì giới (S? la), Nhẫn nhục (ksh nti), tinh tấn (v? rya), thiền định (dhy na) và trí tuệ (Praj–  ).

Đời sống đức hạnh và giới luật hoàn hảo đã làm giảm đi dục tham, sân hận, cuồng si trong mỗi cá nhân. Điều này dẫn đến việc xây dựng một xã hội an vui, một quốc gia hoà hợp, một thế giới hoà bình.

Chủ nghĩa nhân bản Phật giáo có phải chăng là hồi chuông thức tỉnh trầm lắng sâu vào nguồn tâm kêu gọi con người hãy nhận rõ những gì ảo vọng, tạm bợ, chóng tàn, tự mở ra cánh cửa bất tử vượt thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, tìm đến con đường an vui hạnh phúc.

Phật giáo đứng ngoài 62 tà kiến với cái nhìn tri kiến siêu thoát về hiện tượng giới và con người. Phật giáo có thể nói là đạo chân thật, đạo trí tuệ như nhà bác học Einstein từng tuyên bố: "Nếu trên thế giới này có một tôn giáo để tin tưởng thì tôn giáo đó chính là Phật giáo."

--- o0o ---


Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi tặng phiên bản điện tử tuyển tập này.

--- o0o ---

Vi tính: Hải Hạnh - Giác Định

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/01/2025(Xem: 769)
Kính lạy bậc kỳ vĩ xuất hiện, từ ngàn năm trong thế giới (1) Gây âm vang chấn động, mở ra một kỷ nguyên Mang ánh sáng đi vào đời, với phương pháp tịnh Thiền Giúp người người tìm về Chánh Pháp mầu nhiệm
22/06/2024(Xem: 2018)
Bộ hành là bước đi của chân. Nơi đây, trong bài này, chỉ có ý nói rằng xin mời gọi bước đi của tâm: khuyến tấn cả nước cùng nhau bộ hành theo dòng Kinh Phật, cùng tập thói quen đọc kinh, suy nghĩ về kinh, để tâm hướng theo lời kinh dạy, và hàng ngày hãy làm như thế trong những điều kiện có thể của từng Phật tử, từng ngôi chùa. Nói theo chữ cổ, hàng ngày hãy tự xem hành động đọc, nghĩ, và làm theo lời Phật dạy cũng là một hạnh đầu đà. Nếu chúng ta đi bộ bằng chân, độ dài chỉ có thể đo bằng kilômét trong lãnh thổ Việt Nam. Trong khi, nếu chúng ta bước đi bằng tâm, hàng ngày mở trang kinh ra, để đọc, để nghĩ và để làm – thì độ dài của kinh và luận sẽ là nhiều ngàn năm, trải rộng cả Ấn Độ, Tích Lan, Trung Hoa, Việt Nam, Hoa Kỳ, Úc châu… Và sẽ không làm cản trở giao thông của bất cứ ai, bất cứ nơi nào.
19/06/2024(Xem: 3017)
Khi nói tới chuyện trao truyền y bát, chỉ là sử dụng một kiểu ngôn ngữ ước lệ. Nơi đây, chúng ta muốn nói tới một thẩm quyền sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn. Nghĩa là, một thẩm quyền tối hậu để nương tựa. Khi dò lại kinh, chúng ta sẽ thấy câu chuyện phức tạp hơn. Vì có nơi Đức Phật nói rằng sau khi ngài nhập Niết Bàn, tứ chúng hãy chỉ dựa vào Chánh pháp. Kinh lại nói rằng tứ chúng chỉ nên dựa vào Kinh và Luật. Mặt khác, Đức Phật nói rằng có những kinh cần giải nghĩa (tức là, hãy nhìn mặt trăng, chứ đừng chấp vào ngón tay, và từ đây mở đường cho các bộ Luận và Kinh Đại Thừa). Có lúc Đức Phật chia đôi chỗ ngồi và trao y cho ngài Ca Diếp. Có kinh ghi lời Đức Phật trao pháp kế thừa cho ngài A Nan. Và có kinh ghi lời Đức Phật ủy thác quyền lãnh đạo cho Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Thế rồi, một hình ảnh thơ mộng từng được kể qua truyện tích Niêm Hoa Vi Tiếu, rằng Đức Phật lặng lẽ, cầm hoa lên, và ngài Ca Diếp mỉm cười. Tích này kể lời Đức Phật nói rằng ngài có một pháp môn vi diệu, không dự
06/06/2024(Xem: 1299)
Trong nhà Phật, lời nguyện là một phần có thể gặp ở bất kỳ kinh sách nào. Hầu hết các lời nguyện đều lớn vô cùng, và trải dài vô cùng tận. Trong các chùa Thiền Tông, chúng ta thường nghe tới Tứ hoằng thệ nguyện, nơi câu đầu "Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ" (Nguyện giải thoát vô số chúng sinh) đã mang tâm lượng vô biên, vô cùng tận. Trong các chùa Tịnh Độ, các bộ Kinh A Di Đà, Kinh Dược Sư đều ghi những lời nguyện lớn của các vị Phật tương ưng. Tới đây, chúng ta có thể gặp một câu hỏi, rằng có lời nguyện nào sẽ thích hợp cho kiếp này thôi. Bởi vì, có những vị tuổi thọ chỉ còn chừng vài năm nữa là sẽ qua kiếp khác. Và Đức Phật đã dạy những gì cho lời nguyện trong một kiếp ngắn hạn này?
04/06/2024(Xem: 4487)
Cùng toàn thể giới tử thọ trì Bát quan trai giới một ngày một đêm tại trú xứ Tăng già-lam Phước duyên, thành phố Huế, hiện diện quý mến. Một ngày một đêm quý vị ở trong Tịnh giới với niềm tin thanh tịnh, kiên cố, bất hoại đối với Tam bảo. Nhờ niềm tin này mà quý vị không để cho Giới pháp của mình bị sứt mẻ ở trong đi, ở trong đứng, ở trong nằm, ở trong ngồi, ở trong sự nói năng, giao tiếp. Quý vị có được niềm tin này là nhờ quý vị nuôi lớn sáu tính chất của Tam bảo, khiến cho ba nghiệp của quý vị được an tịnh, an tịnh về thân hành, an tịnh về ngữ hành, an tịnh về ý hành. Sáu tính chất của Tam bảo, quý vị phải thường quán chiếu sâu sắc, để thể nhập và tạo ra chất liệu cho chính mình, ngay đời này và đời sau. Sáu tính chất của Tam bảo gồm:
23/05/2024(Xem: 678)
Một người con khi xa gia đình, xa quê hương, đã thổn thức mong chờ một chuyến về thăm nhà như thế nào thì người con phật cũng khát khao được về thăm xứ Phật một cách thiết tha như thế ấy!
04/05/2024(Xem: 1096)
Sen vàng tháp cổ quyện trầm hương Thị hiện Như Lai giữa nẻo thường Cõi mộng nhân gian Thầy xua lối (*) Cơ duyên chánh đạo pháp soi đường Triêm ân chỉ hướng nguyền xin tỏ Rõ lý qui nguồn xả hết vương Bát Nhã đèn thiền luôn sáng rạng Mê lầm hóa giải thoát tai ương.
16/04/2024(Xem: 993)
Thông thường chúng ta tổ chức kỷ niệm ngày đản sanh hay những ngày lễ khác trong Phật giáo rất long trọng tưng bừng, riêng ngày Phật thành đạo thì có vẻ im lìm và số Phật tử biết hay nhớ ngày này cũng rất ít. Thật sự thì ngày đức Phật thành đạo rất quan trọng, thậm chí có thể quan trọng hơn cả ngày nhập niết bàn. Vì ngày Phật thành đạo là một sự kiện có một không hai trong lịch sử loài người, đây là cái dấu mốc quan trọng mở ra con đường giải thoát cho loài người và cho cả chư thiên, phi nhân…
14/04/2024(Xem: 597)
Có một bạn trẻ, trí thức, mặt mũi sáng sủa mộ đạo tới hỏi một thiền sư như thế này: -Thưa thầy, con đọc kinh điển thấy Đức Phật nói, “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành” như vậy chúng sinh có thể tu thành Phật. Con rất muốn tu thành Phật. Xin thầy chỉ cho làm thế nào để thành Phật? Sư đáp: -Nếu tu để ngộ được tâm Phật, an nhiên tự tại như chư Tổ và các thánh tăng thì khác. Còn muốn trở thành một vị Phật lại khác. Về hình dáng: Phải cao. dung mạo phải đẹp đẽ, oai nghi, không khiếm khuyết bất cứ một bộ phận nào trên cơ thể. Về thân thế: Phải là vua, hoặc thái tử, hoàng tử của một vương quốc. Nếu là các nước cộng hòa thì phải là tổng thống, thủ tướng. Phải có chức vụ cao tột đỉnh như vậy để sau này không còn ham mê danh vọng nữa. Phải là con của một tỷ phú thừa kế một tài sản khổng lồ để sau này không còn ham mê tiền bạc. Một vị Phật không thể xuất thân từ một gia đình thấp kém, bần hàn, là con mồ côi hay con của một gia đ
24/03/2024(Xem: 2959)
Thành Kính Tưởng Niệm…. “Ngày Đức Phật nhập Đại Niết Bàn lúc 80 tuổi” Toàn bộ lời thuyết pháp lần cuối được ghi lại trong kinh Vừa căn dặn đệ tử tự là hòn đảo và tự thắp sáng chính mình, Vừa cô đọng, những điểm căn bản chính yếu trong giáo lý ! Phải luôn đi theo Chánh Đạo với BI, DŨNG, TRÍ !
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]