Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

8. Phật giáo và môi trường - Thích Tâm Pháp

16/05/201317:14(Xem: 2723)
8. Phật giáo và môi trường - Thích Tâm Pháp


Tuyển tập

Phật Thành Đạo

Nhiều tác giả
--- o0o --- 

Phần III

Phật giáo và các vấn đề thời đại

--- o0o ---

PHẬT GIÁO VÀ MÔI TRƯỜNG

Thích Tâm Pháp

Thực hiện lời Phật dạy, người Phật tử chúng ta nên bắt tay vào việc trồng cây xanh tạo thêm bóng mát để kích thích xã hội làm sạch môi trường. Mỗi người một tay, mỗi người một cây, mỗi chùa một khuôn viên xanh nhỏ thì lo gì không có những vườn cây xanh tươi mát cho thế hệ ngày mai!

Thế giới ngày nay đang nói nhiều về tình trạng khủng hoảng tiền tệ, khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng đạo đức và nghiêm trọng hơn là khủng hoảng môi trường. Những cơn mưa acid, hiệu ứng nhà kính, lũ lụt liên miên, đất canh tác dần dần bị sa mạc hóa và tầng ozone bảo vệ bầu khí quyển hầu như mất tác dụng là những mối hiểm họa đang đe dọa sự sinh tồn của quả đất và con người. Một trong những nguyên nhân chủ yếu gây nên hiểm họa này là việc khai phá rừng và tận dụng quá mức nguồn tài nguyên thiên nhiên.

Rừng là nơi cộng trú của nhiều loài động, thực vật khác nhau. Các loài động vật thường sống hài hòa và phụ thuộc vào thiên nhiên theo chu trình sinh thái. Giống như động vật, loài người cũng tùy thuộc vào môi trường sống và trở thành một yếu tố môi trường đối với những thành viên khác trong một hệ thống cân bằng sinh thái.

Vào thời tiền sử, loài người sống cộng sinh và hòa hợp với thiên nhiên. Họ cư trú trong rừng, hang động và những nơi có nguồn nước tự nhiên. Thiên nhiên cung cấp cho họ những nhu cầ? cần thiết về thức ăn, chỗ ở, y phục và thuốc men. Hầu hết những dụng cụ của họ đều làm bằng đá và gỗ rất thô sơ. Họ không có máy móc và thiết bị hiện đại để tiện nghi cuộc sống như chúng ta ngày nay, nên rừng vẫn còn giữ được trạng thái nguyên sinh. Dần dần con người khám phá ra lửa và biết sử dụng đồ kim khí. Họ bắt đầu chăn nuôi gia súc, trồng trọt hoa mầu, xây dựng nhà cửa và sống tụ tập thành những cộng đồng nho nhỏ. Khi nền văn minh thiết lập, con người biết tận dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên chế tạo ra nhiều vật dụng để đáp ứng và phục vụ cho đời sống mới. Cuộc sống văn minh bao nhiêu, nhu cầu tiện nghi đòi hỏi càng nhiều, khoa học kỹ thuật phát triển càng nhanh, thì các nguồn tài nguyên thiên nhiên bị tận dụng và khai thác cho đến cạn kiệt.

Trong lịch sử nhân loại, chưa bao giờ con người thành công rực rỡ trong việc chinh phục thiên nhiên, nhưng cũng chưa bao giờ con người gánh chịu nhiều thiên tai, hiểm họa như ngày nay, bằng chứng là gần đây nhứt, tại miền Nam Việt Nam , thiên tai lũ lụt đã gây vô lượng, vô số thiệt hại về người và của cải. Đây là một tiến trình xảy ra tương ứng theo lý duyên khởi của Phật giáo phù hợp với khoa học tự nhiên về môi trường sinh thái. Vì ở vùng Tây Tạng, tình trạng rừng không được bảo vệ một cách kỹ lưởng và triệt để nên lượng nước băng mặc tình chảy xuống đồng bằng một cách trọn vẹn. Chính vì vậy mà các nước phụ cận, lệ thuộc vào khu vực dãy Hi-mã-lạp Sơn như Việt Nam, Lào, Campuchia v.v. . . đã bị ảnh hưởng lũ lụt trầm trọng. Thiên nhiên, đặc biệt là rừng cung cấp cho con người nhiều nguồn sống cần thiết, nhưng khi bị tận dụng quá mức, rừng mất khả năng phục hồi đưa đến tình trạng mất cân bằng sinh thái, và tạo nên những thảm họa không lường được!.

Theo tài liệu nghiên cứu của các nhà sinh thái, ngoài khả năng tự phục hồi và tái tạo, rừng còn có chức năng điều hòa khí hậu, làm màu mỡ đất đai, ngăn ngừa lũ lụt, lưu giữ và cung cấp những lượng nước cần thiết cho mọi loài. Cây xanh qua quá trình quang hợp trao đổi diệp lục tố, nhả ra những lượng oxy cần thiết, tẩy sạch khí độc carbon và thường thoát ra hơi nước làm cho bầu không khi tươi mát trong lành. Những khu đất rộng lớn ít cây xanh bao phủ thường là những môi trường sống khô cằn không lành mạnh. Do đó, bảo vệ rừng và trồng nhiều cây xanh là vấn đề cần thiết nhất, để giữ môi trường trong sạch và cân bằng sinh thái. Nếu rừng bị khai phá quá mức, sẽ đưa đến những hậu quả tai hại như đất đai bị xói mòn, lũ lụt và hạn hán thường xuyên xảy ra. Một khi rừng được bảo vệ, nó trở thành nguồn tài nguyên thiên nhiên thiết yếu cho chúng hữu tình, có khả năng ngăn chặn những cơn gió lốc thổi mạnh, và làm dịu bớt khí hậu nóng, hay lạnh. Khi mùa mưa đến, những giọt mưa đầu tiên thường rơi trên những tán lá, rồi mới chảy xuống mặt đất, ngấm dần qua lớp lá mới rơi, đến lớp rác rưởi mục nát, lớp đất mùn và thấm sâu xuống lòng đất tạo thành những mạch nước ngầm. Trái lại ở những vùng rừng bị đốn phá trơ trọi, nước mưa rơi thẳng vào mặt đất tạo thành những dòng chảy xiết, cuốn phăng tất cả những lớp đất mùn màu mỡ được hình thành cả hàng trăm năm. Những dòng chảy xiết này tạo thành lũ lụt phá hủy đời sống và mùa màng ở những khu vực hạ lưu. Dòng nước chảy mạnh còn gây ra nạn sụt lỡ đất đai và những tai họa khác ở bất cứ nơi nào nó chảy qua. Hơn thế nữa, khi tất cả nước mưa đều trôi theo dòng lũ, mặt đất mất đi tính đàn hồi, khô cằn nhanh chóng sau cơn mưa, và nạn hạn hán tất yếu sẽ xảy ra đúng theo lý duyên sanh của Phật giáo: "cái này có?thì cái kia có; cái này sanh, thì cái kia sanh."

Đức Phật ra đời và thành đạo không gì hơn là vì lòng thương tưởng đến chúng sanh đang khổ đau do ba độc tham, sân, si hoành hành. Do lòng tham muốn thỏa mãn nhu cầu vật chất, con người phải chịu nhiều thảm họa khổ đau. Muốn chấm dứt đau khổ, con người phải sống đúng theo chánh pháp, tức sống theo qui luật tự nhiên hay luật nhân duyên sanh khởi. Theo qui luật này, con người, loài vật, cỏ cây cùng tồn tại trong mối liên hệ hỗ tương và tùy thuộc lẫn nhau. Thiên nhiên cung cấp môi trường sống cho loài người và động vật. Ngược lại loài người phải có ý thức bảo vệ thiên nhiên để giữ môi trường trong sạch và cân bằng sinh thái.

Cách đây trên 2.500 năm, thấm nhuần tiến trình nhân duyên sanh diệt, người Phật tử đã ý thức được nhu cầu cần thiết trong việc gìn giữ và bảo vệ thiên nhiên. Đấng đạo sư của tăng đoàn Phật giáo là bậc được sanh ra và trưởng thành trong cung vàng điện ngọc, nhưng ngài đã từ bỏ vật chất giàu sang và tiện nghi tạm bợ nơi hoàng cung để tìm kiếm một cuộc sống cao thượng có ý nghĩa hơn. Trên con đường tìm chân lý, Ngài sống và tu tập trong những khu rừng. Cuối cùng ngài chọn cây Bồ-đề làm nơi cư trú để phát triển tâm linh và chính nơi đây ngài đã chứng đạt đạo quả vô thượng chánh đẳng, chánh giác. Sau khi chứng ngộ, Đức phật cùng chư đệ tử vẫn thích sống nơi núi non rừng rậm, hang động, và cư trú dưới những cội cây. Ngài khuyên chư đệ tử không nên đốn phá cây cối, cho dù là chặt cành hay bẻ lá. Điều này được chứng minh rất rõ trong một đoạn kinh như sau: "Cây xanh cho chúng ta bóng mát trong lành, giúp chúng ta có nơi ngủ nghỉ qua đêm hay ngồi thiền định. Chặt cành hay bẻ lá của cây đều là hành vi phi đạo đức." Đức Phật còn chế giới không được ném bỏ rác rưởi hay khạc nhổ trên nước, vì sẽ làm ô nhiễm môi trường. Điểm nổi bật này được dạy chu đáo trong Hai Mươi Bốn Oai Nghi và được nói rõ trong Oai Nghi Thứ 9 của một vị Sa-di theo truyền thống Đại thừa của Trung Quốc và Việt Nam. Điểm nổi bật và vô cùng quan trọng nữa nhằm nói lên tính nhân đạo của Đức Phật là vào mùa mưa, Ngài dạy tăng đoàn tìm chỗ an cư thích hợp để tránh việc đi ra đường dẫm đạp lên cỏ non và giết hại côn trùng. Điều này, chẳng những chứng tỏ thái độ tôn trọng sự sống muôn loài vạn vật của Đức Phật mà còn biểu hiện lòng từ mẫn vô biên của Ngài đối với tất cả chúng hữu tình!!!

Thực hiện lời Phật dạy, người Phật tử chúng ta nên bắt tay vào việc trồng cây xanh tạo thêm bóng mát đễ kích thích xã hội làm sạch môi trường. Mỗi người một tay, mỗi người một cây, mỗi chùa một khuôn viên xanh nhỏ thì lo gì không có những vườn cây xanh tươi mát cho thế hệ ngày mai!

Phỏng viết theo tài liệu "Môi Trường và Phật giáo" trong Bộ Bách Khoa Tự Điển về Sinh Thái, Môi Trường và Ô Nhiễm Môi Trường, tập 3, do M. C. Chitakara chủ bút, nhà xuất bản APH Publishing Corporation, năm 1998.

--- o0o ---


Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi tặng phiên bản điện tử tuyển tập này.

--- o0o ---

Vi tính: Hải Hạnh - Giác Định

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/01/2025(Xem: 787)
Kính lạy bậc kỳ vĩ xuất hiện, từ ngàn năm trong thế giới (1) Gây âm vang chấn động, mở ra một kỷ nguyên Mang ánh sáng đi vào đời, với phương pháp tịnh Thiền Giúp người người tìm về Chánh Pháp mầu nhiệm
22/06/2024(Xem: 2020)
Bộ hành là bước đi của chân. Nơi đây, trong bài này, chỉ có ý nói rằng xin mời gọi bước đi của tâm: khuyến tấn cả nước cùng nhau bộ hành theo dòng Kinh Phật, cùng tập thói quen đọc kinh, suy nghĩ về kinh, để tâm hướng theo lời kinh dạy, và hàng ngày hãy làm như thế trong những điều kiện có thể của từng Phật tử, từng ngôi chùa. Nói theo chữ cổ, hàng ngày hãy tự xem hành động đọc, nghĩ, và làm theo lời Phật dạy cũng là một hạnh đầu đà. Nếu chúng ta đi bộ bằng chân, độ dài chỉ có thể đo bằng kilômét trong lãnh thổ Việt Nam. Trong khi, nếu chúng ta bước đi bằng tâm, hàng ngày mở trang kinh ra, để đọc, để nghĩ và để làm – thì độ dài của kinh và luận sẽ là nhiều ngàn năm, trải rộng cả Ấn Độ, Tích Lan, Trung Hoa, Việt Nam, Hoa Kỳ, Úc châu… Và sẽ không làm cản trở giao thông của bất cứ ai, bất cứ nơi nào.
19/06/2024(Xem: 3033)
Khi nói tới chuyện trao truyền y bát, chỉ là sử dụng một kiểu ngôn ngữ ước lệ. Nơi đây, chúng ta muốn nói tới một thẩm quyền sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn. Nghĩa là, một thẩm quyền tối hậu để nương tựa. Khi dò lại kinh, chúng ta sẽ thấy câu chuyện phức tạp hơn. Vì có nơi Đức Phật nói rằng sau khi ngài nhập Niết Bàn, tứ chúng hãy chỉ dựa vào Chánh pháp. Kinh lại nói rằng tứ chúng chỉ nên dựa vào Kinh và Luật. Mặt khác, Đức Phật nói rằng có những kinh cần giải nghĩa (tức là, hãy nhìn mặt trăng, chứ đừng chấp vào ngón tay, và từ đây mở đường cho các bộ Luận và Kinh Đại Thừa). Có lúc Đức Phật chia đôi chỗ ngồi và trao y cho ngài Ca Diếp. Có kinh ghi lời Đức Phật trao pháp kế thừa cho ngài A Nan. Và có kinh ghi lời Đức Phật ủy thác quyền lãnh đạo cho Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Thế rồi, một hình ảnh thơ mộng từng được kể qua truyện tích Niêm Hoa Vi Tiếu, rằng Đức Phật lặng lẽ, cầm hoa lên, và ngài Ca Diếp mỉm cười. Tích này kể lời Đức Phật nói rằng ngài có một pháp môn vi diệu, không dự
06/06/2024(Xem: 1302)
Trong nhà Phật, lời nguyện là một phần có thể gặp ở bất kỳ kinh sách nào. Hầu hết các lời nguyện đều lớn vô cùng, và trải dài vô cùng tận. Trong các chùa Thiền Tông, chúng ta thường nghe tới Tứ hoằng thệ nguyện, nơi câu đầu "Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ" (Nguyện giải thoát vô số chúng sinh) đã mang tâm lượng vô biên, vô cùng tận. Trong các chùa Tịnh Độ, các bộ Kinh A Di Đà, Kinh Dược Sư đều ghi những lời nguyện lớn của các vị Phật tương ưng. Tới đây, chúng ta có thể gặp một câu hỏi, rằng có lời nguyện nào sẽ thích hợp cho kiếp này thôi. Bởi vì, có những vị tuổi thọ chỉ còn chừng vài năm nữa là sẽ qua kiếp khác. Và Đức Phật đã dạy những gì cho lời nguyện trong một kiếp ngắn hạn này?
04/06/2024(Xem: 4513)
Cùng toàn thể giới tử thọ trì Bát quan trai giới một ngày một đêm tại trú xứ Tăng già-lam Phước duyên, thành phố Huế, hiện diện quý mến. Một ngày một đêm quý vị ở trong Tịnh giới với niềm tin thanh tịnh, kiên cố, bất hoại đối với Tam bảo. Nhờ niềm tin này mà quý vị không để cho Giới pháp của mình bị sứt mẻ ở trong đi, ở trong đứng, ở trong nằm, ở trong ngồi, ở trong sự nói năng, giao tiếp. Quý vị có được niềm tin này là nhờ quý vị nuôi lớn sáu tính chất của Tam bảo, khiến cho ba nghiệp của quý vị được an tịnh, an tịnh về thân hành, an tịnh về ngữ hành, an tịnh về ý hành. Sáu tính chất của Tam bảo, quý vị phải thường quán chiếu sâu sắc, để thể nhập và tạo ra chất liệu cho chính mình, ngay đời này và đời sau. Sáu tính chất của Tam bảo gồm:
23/05/2024(Xem: 681)
Một người con khi xa gia đình, xa quê hương, đã thổn thức mong chờ một chuyến về thăm nhà như thế nào thì người con phật cũng khát khao được về thăm xứ Phật một cách thiết tha như thế ấy!
04/05/2024(Xem: 1098)
Sen vàng tháp cổ quyện trầm hương Thị hiện Như Lai giữa nẻo thường Cõi mộng nhân gian Thầy xua lối (*) Cơ duyên chánh đạo pháp soi đường Triêm ân chỉ hướng nguyền xin tỏ Rõ lý qui nguồn xả hết vương Bát Nhã đèn thiền luôn sáng rạng Mê lầm hóa giải thoát tai ương.
16/04/2024(Xem: 993)
Thông thường chúng ta tổ chức kỷ niệm ngày đản sanh hay những ngày lễ khác trong Phật giáo rất long trọng tưng bừng, riêng ngày Phật thành đạo thì có vẻ im lìm và số Phật tử biết hay nhớ ngày này cũng rất ít. Thật sự thì ngày đức Phật thành đạo rất quan trọng, thậm chí có thể quan trọng hơn cả ngày nhập niết bàn. Vì ngày Phật thành đạo là một sự kiện có một không hai trong lịch sử loài người, đây là cái dấu mốc quan trọng mở ra con đường giải thoát cho loài người và cho cả chư thiên, phi nhân…
14/04/2024(Xem: 602)
Có một bạn trẻ, trí thức, mặt mũi sáng sủa mộ đạo tới hỏi một thiền sư như thế này: -Thưa thầy, con đọc kinh điển thấy Đức Phật nói, “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành” như vậy chúng sinh có thể tu thành Phật. Con rất muốn tu thành Phật. Xin thầy chỉ cho làm thế nào để thành Phật? Sư đáp: -Nếu tu để ngộ được tâm Phật, an nhiên tự tại như chư Tổ và các thánh tăng thì khác. Còn muốn trở thành một vị Phật lại khác. Về hình dáng: Phải cao. dung mạo phải đẹp đẽ, oai nghi, không khiếm khuyết bất cứ một bộ phận nào trên cơ thể. Về thân thế: Phải là vua, hoặc thái tử, hoàng tử của một vương quốc. Nếu là các nước cộng hòa thì phải là tổng thống, thủ tướng. Phải có chức vụ cao tột đỉnh như vậy để sau này không còn ham mê danh vọng nữa. Phải là con của một tỷ phú thừa kế một tài sản khổng lồ để sau này không còn ham mê tiền bạc. Một vị Phật không thể xuất thân từ một gia đình thấp kém, bần hàn, là con mồ côi hay con của một gia đ
24/03/2024(Xem: 2969)
Thành Kính Tưởng Niệm…. “Ngày Đức Phật nhập Đại Niết Bàn lúc 80 tuổi” Toàn bộ lời thuyết pháp lần cuối được ghi lại trong kinh Vừa căn dặn đệ tử tự là hòn đảo và tự thắp sáng chính mình, Vừa cô đọng, những điểm căn bản chính yếu trong giáo lý ! Phải luôn đi theo Chánh Đạo với BI, DŨNG, TRÍ !
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]