- Thư Ngỏ
- Nội Dung
- I. Phần thứ I Tổng luận ( Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)
- II. Phần thứ II Tổng luận:
- III. Phần Thứ III: Tánh Không Bát Nhã
- Tán thán công đức quý Phật tử đã đóng góp (đợt 2) tịnh tài để ấn tống Tổng Luận Đại Bát Nhã 🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼
- Hình ảnh tạ lễ công đức phiên dịch Kinh Bát Nhã của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm và chúc mừng Lão Cư Sĩ Thiện Bửu (80 tuổi ở San Jose, California, Hoa Kỳ) đã hoàn thành luận bản chiết giải bộ Kinh khổng lồ này sau 10 năm ròng rã
- Link thỉnh sách Tổng Luận Đại Bát Nhã qua Amazon
- Tập 01_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 1) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 02_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 2) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 03_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 3) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 04_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 4) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 05_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 5) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 06_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 6) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 07_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 7) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 08_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 8) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
TỔNG LUẬN
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT
Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu
Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022
PHẨM “BỒ TÁT PHÁP DŨNG"
Phần cuối quyển 399 đến phần đầu quyển 400, Hội thứ I, ĐBN.
(Tương đương với phẩm “Đàm Vô Kiệt”, MHBNBLM)
Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước
Gợi ý:
Phẩm trên miêu tả người cầu Bát Nhã là Bồ Tát Thường đề. Phẩm này nói về người thuyết Bát Nhã là Bồ Tát Pháp Dũng, cũng là người ôn tập lại tất cả những gì được gọi là yếu chỉ Bát nhã Ba la mật ở Hội thứ I mà Phật đã thuyết tại đỉnh Linh Thứu, núi Kỳ Xà Quật, thuộc thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Đà.
Tóm lược:
(Như Lai tức pháp giới, pháp giới tức Như Lai).
Đại Bồ Tát Pháp Dũng nói với Thường Đề:
- Này thiện nam tử! Pháp thân của tất cả Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến tri, Minh Hạnh túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn hay Bạc già phạm không từ đâu đến, cũng chẳng đi đâu. Vì sao? Này thiện nam tử! Vì thật tánh các pháp đều bất động.
Này thiện nam tử! Chơn như của các pháp không đến, không đi, chẳng thể phô bày; chơn như như thế tức là Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến tri v.v... cho đến Phật Thế Tôn hay Bạc già phạm.
Này thiện nam tử! Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, tánh chẳng đổi khác, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, tánh vô sanh, tánh vô diệt, tánh như thật, tánh viễn ly, tánh tịch tịnh, tánh giới thanh tịnh vô nhiễm, tánh không của các pháp không đến, không đi, chẳng thể phô bày; pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, bình đẳng tánh, tất cả… cho đến tánh không, như thế tức là Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến tri… cho đến Phật Thế Tôn hay Bạc già phạm.
Này thiện nam tử! Tất cả Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến tri, Minh Hạnh túc… cho đến Phật Thế Tôn hay Bạc già phạm chẳng phải các pháp, chẳng lìa các pháp.
Này thiện nam tử! Pháp như, Như Lai như là một như, chứ chẳng phải hai. Pháp như chẳng hợp, chẳng tan, chỉ là nhất tướng, chỗ gọi là vô tướng.
Này thiện nam tử! Pháp như chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải ba, chẳng phải bốn cho đến chẳng phải trăm ngàn v.v... Vì sao? Này thiện nam tử! Vì pháp như lìa số lượng, chẳng phải có tánh.
Lại nữa, thiện nam tử! Thí như có người vào mùa nắng gắt, đi trong đồng vắng, khát nước, thấy nắng dợn động, tưởng là nước. Nghĩ như vậy rồi, đi thắng tới chỗ đó, càng đi càng chẳng thấy nước, càng đuổi càng thấy nước xa hơn.
Này thiện nam tử! Ý ông nghĩ sao? Nước trong ánh nắng ấy từ hốc núi, suối ao nào đến, nay lại đi đâu? Có phải từ biển Đông, có phải từ biển Tây, biển Nam, biển Bắc đến chăng?
Thường Đề đáp:
- Nước trong nắng dợn còn chẳng có, huống có thể nói là từ đâu đến và có chỗ đi.
Bồ Tát Pháp Dũng nói với Thường Đề:
- Đúng vậy! Đúng như lời ông nói, như người khát kia, ngu si vô trí, bị nóng bức bách thấy nắng lay động trong chỗ không có nước, vọng sanh có nước; nếu bảo Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến tri có đến, có đi, cũng giống như thế. Nên biết người ấy ngu si vô trí. Vì sao? Này thiện nam tử! Vì tất cả Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến tri chẳng thể dựa vào sắc thân mà thấy. Như Lai tức là pháp thân.
Này thiện nam tử! Pháp thân Như Lai tức là chơn như, pháp giới, pháp tánh… của các pháp; chơn như, pháp giới, pháp tánh… đã chẳng thể nói có đến có đi, thì pháp thân của Như Lai cũng giống như thế không đến, không đi.
Lại nữa, thiện nam tử! Như người trong mộng thấy chư Phật, hoặc một vị, hoặc mười vị, hoặc trăm vị, hoặc ngàn vị cho đến vô số. Người ấy khi tỉnh mộng rồi, không thấy gì cả.
Này thiện nam tử! Ý ông nghĩ sao: Phật đã thấy trong mộng từ đâu đến và đi về đâu?
Thường Đề đáp:
- Điều thấy trong mộng đều là hư vọng, hoàn toàn chẳng thật có thì sao có thể nói có chỗ đến đi.
Bồ Tát Pháp Dũng nói với Thường Đề:
- Đúng vậy! Đúng như lời ông nói, người chấp những điều mộng thấy có đến có đi thì nên biết người ấy ngu si vô trí. Nếu gọi Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến tri... có đến có đi thì cũng giống như thế, nên biết người ấy ngu si vô trí. Vì sao? Này thiện nam tử! Vì tất cả Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến tri... chẳng thể nương vào sắc thân mà thấy. Như Lai ấy tức pháp thân.
(Pháp thân Như Lai không đến không đi)
Này thiện nam tử! Pháp thân của Như Lai tức là chơn như, pháp giới, pháp tánh… của các pháp. Chơn như, pháp giới, pháp tánh… đã chẳng có thể nói có đến có đi thì pháp thân của Như Lai cũng giống như thế, không đến, không đi.
Lại nữa, thiện nam tử! Giống như nhà ảo thuật, như ảnh trong gương, như tiếng vang phát ra từ hang động, như bóng rọi lên tường, như tia chớp, như việc biến hóa, như trong ảo thành… các hiện tượng ấy tạm có rồi không.
- Này thiện nam tử! Ý ông nghĩ sao: Tất cả các hiện tượng ấy là từ đâu đến, đi về đâu?
Thường Đề đáp:
- Các hiện tượng ấy chẳng phải thật, như vậy sao có thể nói có đến có đi?
Bồ Tát Pháp Dũng nói với Thường Đề:
- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói: Nếu chấp các hiện tượng có đến đi thì nên biết người ấy ngu si vô trí. Nếu cho là Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến tri có đến có đi, cũng giống như thế, nên biết người ấy ngu si vô trí. Vì sao? Này thiện nam tử! Vì tất cả Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến tri... chẳng thể dựa vào sắc thân để thấy. Như Lai tức là pháp thân.
Này thiện nam tử! Pháp thân của Như Lai tức là chơn như, pháp giới, pháp tánh… của các pháp. Chơn như, pháp giới, pháp tánh… đã chẳng có thể nói có đến có đi thì pháp thân của Như Lai cũng giống như thế, không đến, không đi.
(Tất cả pháp như huyễn, như mộng...)
Lại nữa, thiện nam tử! Tất cả Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến tri... nói tất cả pháp như mộng thấy, như bóng sáng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như trò huyễn, như biến hóa, như ảo thành đều chẳng phải thật có. Nếu đối với pháp nghĩa thậm thâm mà chư Phật đã nói như thế chẳng biết như thật, chấp thân Như Lai là danh là sắc, có đến có đi, thì nên biết kẻ ấy mê muội pháp tánh, ngu si vô trí, lưu chuyển các thú, chịu khổ sanh tử, xa lìa Bát nhã Ba la mật, cũng lại xa lìa tất cả Phật pháp. Nếu đối với pháp nghĩa thậm thâm mà chư Phật đã dạy, có khả năng biết như thật, chẳng chấp các pháp có đến có đi, có sanh có diệt, có nhiễm có tịnh. Do chẳng chấp nên có thể hành Bát Nhã, cũng có thể siêng tu tất cả Phật pháp, như thế là gần gũi sở cầu quả vị Giác ngộ tối cao, cũng gọi là đệ tử chơn tịnh của Như Lai. Xứng đáng nhận của tín thí của người trời trong thế gian.
(Các pháp không ngoài duyên sanh)
Lại nữa, thiện nam tử! Như trong biển lớn có các trân bảo, trân bảo chẳng phải từ mười phương đến, cũng chẳng phải hữu tình ở trong đó tạo ra, cũng chẳng phải các báu này không phải duyên sanh. Nhưng vì sức thiện căn của các hữu tình, nên khiến trong biển có các báu sanh; báu ấy sanh là nương vào nhân duyên hòa hợp mà có, chứ không từ đâu đến; báu ấy diệt cũng không đi về đâu, chỉ vì sức thiện căn của hữu tình đã hết, khiến báu kia diệt mất. Vì sao? Vì các pháp hữu vi, duyên hiệp thì sanh, duyên lìa thì diệt, trong đó hoàn toàn không có ai sanh, ai diệt. Vì vậy, các pháp không đến, không đi; thân của chư Như Lai cũng lại như thế, ở trong mười phương, không từ đâu đến, cũng chẳng phải ở trong đó có người tạo tác, cũng chẳng thể nói không phải duyên sanh, nhưng vì nương vào sự tu hành tịnh hạnh viên mãn, cho nên có thân Như Lai xuất hiện ở đời. Khi thân Phật diệt, cũng không đi về đâu trong mười phương, chỉ do sức nhân duyên hòa hợp đã hết liền diệt. Vì vậy, chư Phật không đến, không đi.
Lại nữa, thiện nam tử! Thí như cây đàn không hầu nương vào các loại nhân duyên hòa hợp mà có tiếng sanh, nhân duyên của tiếng ấy là cái cần, cái ống, khe hở, cái trục, sợi dây v.v... tác ý của nhạc công. Như vậy, từng yếu tố một chẳng có thể sanh tiếng, khi hòa hợp tất cả yếu tố lại, tiếng nó mới phát; tiếng ấy phát sanh không từ đâu đến, khi diệt không đi về đâu.
Này thiện nam tử! Thân của chư Như Lai cũng giống như thế, nương vào các thứ nhân duyên mà sanh, nhân duyên của thân ấy là vô lượng phước đức trí tuệ và thiện căn do tu tập thành thục mà có. Như vậy, từng yếu tố một chẳng có thể sanh thân, khi hòa hợp lại, thân ấy mới sanh; thân đã sanh ấy không từ đâu đến, khi diệt chẳng đi về đâu.
Này thiện nam tử! Đối với tướng không đến đi của Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến tri... ngươi nên biết như thế. Theo đạo lý này, thì đối với tướng không đến không đi của tất cả pháp cũng phải biết như thế. Nếu đối với Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến tri... và tất cả pháp có thể như thật biết không đến, không đi, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh thì nhất định có khả năng tu hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, phương tiện thiện xảo, quyết chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao.
Khi Đại Bồ Tát Pháp Dũng nói tướng vô lai, vô khứ của chư Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến tri, Minh Hạnh túc… khiến cho thế giới Tam thiên đại thiên kia, tất cả đại địa, các núi, biển lớn và các thiên cung, sáu thứ biến động, các cung điện của ma đều mất ánh sáng, cây cỏ núi rừng sanh hoa nở trái đều quay đầu hướng về chỗ đại Bồ Tát Pháp Dũng; trên không cũng mưa xuống các loại hương hoa.
Khi ấy, trời Đế Thích, Tứ đại thiên vương và các chúng trời ở trên không trung, liền dùng các loại hương hoa vi diệu cõi trời rải cúng dường đại Bồ Tát Pháp Dũng, xong rồi lại cầm các thứ hương hoa vi diệu cõi trời rải cúng dường Thường Đề Bồ Tát và thưa:
- Nhờ Đại sĩ mà chúng con được nghe giáo pháp thắng nghĩa như thế. Tất cả người chấp thân kiến ở thế gian nghe pháp ấy rồi có thể xả chấp trước, an trụ trong ngôi vị nan phục(như thân các vị La hán không còn phiền não, lậu hoặc cần chế phục nữa).
Bấy giờ, Thường Đề thưa đại Bồ Tát Pháp Dũng:
- Thưa Đại sư! Do nhân duyên gì khiến cho tất cả đại địa, các núi, biển lớn ở thế giới này, có sáu loại biến động và hiện các loại tướng hi hữu như thế?
Bồ Tát Pháp Dũng đáp:
- Do tôi trả lời câu hỏi của Ngài về tướng vô khứ, vô lai của Như Lai Ứng cúng, Chánh Biến tri... mà ở trong hội này có tám ngàn chúng sanh đều chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn. Lại có tám mươi triệu chúng sanh đều phát tâm cầu quả vị Giác ngộ tối cao. Lại có tám vạn bốn ngàn chúng sanh xa lìa trần cấu, đối với các pháp, sanh pháp nhãn thanh tịnh. Do nhân duyên ấy, khiến cho tất cả đại địa, các núi, biển lớn ở trong thế giới này khởi sáu thứ biến động và hiện ra các tướng hi hữu.
Bồ Tát Thường Đề nghe vậy rồi, hết sức vui mừng, liền nghĩ: Nay ta được thiện lợi lớn, đó là nhờ ta hỏi Bồ Tát Pháp Dũng mà làm cho các hữu tình được nghe Bát nhã Ba la mật thậm thâm, được nghe tướng vô khứ, vô lai của chư Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến tri như thế, khiến mọi người đạt lợi ích lớn. Ta nhờ thiện căn thù thắng như thế, có thể đủ thành tựu sở cầu là quả vị Giác ngộ tối cao. Đối với quả vị Giác ngộ tối cao, ta không còn nghi ngờ, lo lắng nữa. Ở đời vị lai, ta nhất định thành Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến tri, lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình. Tất… tất… đều nhờ Bồ Tát Pháp Dũng, ta phải cúng dường Bồ Tát.
Trời Đế Thích biết tâm niệm ấy, hóa làm vô lượng hương hoa vi diệu, dâng cho Bồ Tát Thường Đề, thưa:
- Thưa Đại sĩ xin Ngài vì thương xót con nhận những hoa này để đem cúng dường Bồ Tát Pháp Dũng. Đại sĩ nên thọ nhận đồ cúng dường của chúng con, chúng con nay nhờ Đại sĩ mà thành tựu công đức. Vì sao? Vì nhờ Đại sĩ mà vô lượng trăm ngàn hữu tình chúng con đạt được lợi ích lớn, đó là chắc chắn sẽ chứng sở cầu là quả vị Giác ngộ tối cao.
Bồ Tát Thường Đề nhận hương hoa vi diệu của trời Đế Thích, rải cúng dường đại Bồ Tát Pháp Dũng rồi, đảnh lễ sát chân, chấp tay cung kính bạch:
- Bạch Đại sư! Từ ngày hôm nay, tôi nguyện đem thân mạng phụng sự Đại sư tùy Ngài sai bảo.
Nói như thế rồi, chắp tay đứng hầu đại Bồ Tát Pháp Dũng.
Đồng thời, nữ trưởng giả và các quyến thuộc cung kính chấp tay bạch với Thường Đề Bồ Tát:
- Từ nay chúng con cũng đem thân mạng phụng sự hầu Ngài, xin Ngài thương xót chấp thuận cho.
Bồ Tát Thường Đề liền đáp:
- Các ngươi chí thành theo ta thì phải tuân theo sự dạy bảo của ta, ta sẽ chấp thuận.
Nữ trưởng giả thưa với Thường Đề:
- Chúng con thành tâm theo Ngài, tuân theo sự dạy bảo của Ngài.
Thường Đề Bồ Tát đem nữ trưởng giả, năm trăm thị nữ, xe báu cùng đồ cúng dường dâng lên Đại Bồ Tát Pháp Dũng và thưa rằng:
- Thưa Đại sư! Đây là lễ vật các thứ dâng cúng Đại sư, xin Ngài từ bi vì tôi mà nhận.
Bồ Tát Pháp Dũng muốn khiến cho thiện căn đã gieo trồng của Thường Đề được viên mãn, nên nhận nữ trưởng giả và các quyến thuộc, năm trăm cỗ xe báu cùng các phẩm vật cúng dường; nhận xong hoàn thí cho Bồ Tát Thường Đề.
Bồ Tát Pháp Dũng thuyết pháp đã lâu, mặt trời sắp lặn, biết chúng mệt mỏi, rời tòa Sư tử, quay về cung mình.
Bồ Tát Thường Đề chờ đợi suốt bảy năm, chẳng ngồi, chẳng nằm, chỉ đi, chỉ đứng, chẳng màng ngủ nghỉ, chẳng nhớ ngày đêm, chẳng quản mệt mỏi, chẳng nghĩ ăn uống, chẳng ngại lạnh nóng, chẳng duyên trong ngoài, chẳng từng phát khởi giận hờn, oán ghét và tất cả phiền não triền cấu khác, chỉ nghĩ: Khi nào Bồ Tát Pháp Dũng từ Tam ma địa xuất, ta và quyến thuộc sẽ trải pháp tòa, rưới quét mặt đất, rải các hương hoa. Trong khi đó, nữ trưởng giả và các quyến thuộc cũng suốt bảy năm, chỉ đi, chỉ đứng, chẳng rời sở niệm, đều noi theo Thường Đề, tới lui theo Ngài chưa từng rời bỏ.
Bỗng nhiên Thường Đề Bồ Tát nghe có tiếng trên không bảo:
- Này thiện nam tử! Sau bảy ngày nữa, Bồ Tát Pháp Dũng sẽ ra khỏi định, ở trong thành này tuyên thuyết Chánh pháp.
Bồ Tát Thường Đề nghe tiếng trên không rồi, hết sức mừng vui, nghĩ thế này: Nay ta sẽ vì đại Bồ Tát Pháp Dũng trải bày trang nghiêm pháp tòa sư tử, rưới quét mặt đất, rải hương hoa vi diệu thỉnh đại Bồ Tát lên tòa này, vì chúng tuyên thuyết phương tiện thiện xảo Bát nhã Ba la mật thậm thâm và pháp yếu khác.
Bồ Tát Thường Đề nghĩ như thế rồi cùng với nữ trưởng giả và các quyến thuộc trang hoàng tòa sư tử bằng bảy báu. Khi ấy, nữ trưởng giả và các quyến thuộc mỗi người cởi một chiếc áo đẹp nhất, trải chồng lên tòa. Bồ Tát Thường Đề trang hoàng xong, tìm nước rưới mặt đất nhưng chẳng có. Vì sao? Vì ác ma đã che giấu nước trong ngoài thành, khiến chẳng hiện. Ma nghĩ thế này: Bồ Tát Thường Đề tìm nước chẳng được, thì sầu khổ mệt mỏi, tâm mê muội, đối với quả vị Giác ngộ tối cao sẽ chuyển đổi, thiện căn chẳng tăng, trí tuệ chẳng chiếu; đối với Nhất thiết trí sẽ bị trì trệ, thì chẳng có thể làm trống cảnh giới của ta được.
Bồ Tát Thường Đề dùng đủ các thứ phương tiện để tìm nước mà không được, nghĩ thế này: Ta nên chích thân lấy máu rưới đất để che bụi cho Đại sư. Thân của ta nhất định rồi đây sẽ hư rã, dùng cái thân hư ngụy như thế để làm gì. Ta từ vô thỉ đến nay, lưu chuyển sanh tử thường vì ngũ dục làm tan mất thân mạng nhưng chưa từng vì chánh pháp mà xả thân. Vì vậy, nay phải chích thân lấy máu. Nghĩ như thế rồi, liền cầm dao bén chích khắp thân mình lấy máu để rưới đất.
Khi ấy, nữ trưởng giả cùng quyến thuộc cũng noi theo Thường Đề chích máu rưới đất.
Trời Đế Thích chứng kiến cảnh này, liền nghĩ: Bồ Tát Thường Đề, nữ trưởng giả v.v... rất là hi hữu! Do ái pháp, trọng pháp đến nổi chích khắp toàn thân lấy máu rưới khắp mặt đất, chẳng hề phát khởi một tâm niệm khác, khiến lũ ác ma rình tìm chẳng có cơ hội, cũng chẳng có thể làm trở ngại việc tu thiện phẩm. Lạ thay, Đại sĩ! Chỉ có Ngài mới có thể mang giáp bị rộng lớn như thế, vì muốn lợi lạc tất cả hữu tình, đem tâm thuần tịnh, chẳng đoái thân mạng, cầu quả vị Giác ngộ tối cao, thường phát thệ nguyện: Ta vì cứu giúp tất cả hữu tình trầm luân sanh tử chịu vô lượng, vô biên khổ não thân tâm mà cầu quả vị Giác ngộ tối cao, sự việc nếu chưa thành thì quyết không lười bỏ.
Trời Đế Thích nghĩ như thế rồi, liền biến máu của Thường Đề, nữ trưởng giả v.v... tất cả đều thành nước thơm chiên đàn, làm cho chỗ đất đã rưới, bốn phía quanh pháp tòa mỗi bên rộng ngót một trăm do tuần, đều có mùi thơm chiên đàn rất kỳ lạ chẳng thể tưởng tượng được.
Làm việc ấy rồi, Thiên Đế Thích khen ngợi Thường Đề:
- Hay thay! Hay thay! Chí nguyện của Đại sĩ kiên cố, tinh tấn dõng mãnh, chẳng thể nghĩ bàn, sự ái trọng cầu pháp rất là cao cả. Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ cũng do chí nguyện kiên cố, dõng mãnh tinh tấn, ái trọng cầu pháp tu hành phạm hạnh thanh tịnh của Bồ Tát mà chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Giờ đây, chí nguyện của Đại sĩ như thế nhất định sẽ chứng đắc sở cầu.
Kế đến, Bồ Tát Thường Đề lại nghĩ: Làm thế nào để có các hương hoa vi diệu rải quanh pháp tòa và làm thế nào có hoa mang rải cúng dường khi Đại sư thăng tòa thuyết pháp.
Khi ấy, trời Đế Thích biết ý nghĩ đó, liền biến hóa ra hương hoa vi diệu, số lượng bằng ngàn hộc của nước Ma kiệt đà, cung kính dâng lên Bồ Tát Thường Đề. Bồ Tát Thường Đề lấy một phần rải quanh pháp tòa.
(Nghĩa thú Bát Nhã)
Bấy giờ, đại Bồ Tát Pháp Dũng xuất định rời cung mình, thượng tòa sư tử thuyết pháp. Bồ Tát Thường Đề lại được chiêm ngưỡng đại Bồ Tát Pháp Dũng lần nữa, hết sức vui mừng, thân tâm khoái lạc, liền cùng với quyến thuộc mang phần hương hoa vi diệu còn lại, rải dâng cúng dường; xong, đảnh lễ sát chân, nhiễu quanh bên phải ba vòng lui ngồi một bên.
Lúc bấy giờ, đại Bồ Tát Pháp Dũng nói với Thường Đề:
- Này thiện nam tử! Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe! Và suy nghĩ chính chắn. Ta sẽ vì ông mà tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật.
Thường Đề thưa:
- Dạ xin Ngài giảng nói, chúng tôi muốn nghe.
Bồ Tát Pháp Dũng liền nói với Thường Đề:
- Này thiện nam tử! Vì tất cả pháp bình đẳng cho nên nên biết Bát Nhã cũng bình đẳng. Vì tất cả pháp viễn ly cho nên nên biết Bát Nhã cũng viễn ly. Vì tất cả pháp bất động cho nên nên biết Bát nhã cũng bất động. Vì tất cả pháp vô niệm, cho nên nên biết Bát Nhã cũng vô niệm. Vì tất cả pháp vô úy cho nên nên biết Bát Nhã cũng vô úy. Vì tất cả pháp nhất vị cho nên nên biết Bát Nhã cũng nhất vị. Vì tất cả pháp không giới hạn cho nên nên biết Bát Nhã cũng không giới hạn. Vì tất cả pháp vô sanh nên biết Bát Nhã cũng vô sanh. Vì tất cả pháp vô diệt nên biết Bát Nhã cũng vô diệt. Vì thái hư vô biên nên biết Bát Nhã cũng vô biên. Vì biển lớn vô biên nên biết Bát Nhã cũng vô biên. Vì Diệu Cao sơn vô biên nên biết Bát Nhã cũng vô biên. Vì núi Diệu Cao hùng vĩ nên biết Bát Nhã cũng hùng vĩ. Vì thái hư vô phân biệt nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô phân biệt.
(Để giải thích đoạn kinh này Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ 99, “Đàm Vô Kiệt”, tập 5, quyển 100 giải thích như sau:
“Trong kinh nói: “Các pháp bình đẳng nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng bình đẳng”. Thế nhưng, người tu chẳng nên chấp cái tướng bình đẳng ấy.
Bình đẳng là tự tướng ly. Hết thảy các pháp đều là tự tướng ly. Ly có nghĩa là như tướng, là vô tướng. Trước đây đã có nói “ly tướng”, “vô tướng” tức là bình đẳng tướng.
Trong kinh nói: “Các pháp ly, nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng ly” .
Nếu là ly tướng thì là trú trong không, mà trú trong không tức là trú bất động. Vì sao? Vì ở nơi thật tướng pháp thì hết thảy các pháp đều bình đẳng, bất động; các pháp hý luận bất động, các phiền não bất động... dẫn đến các pháp vô thường bất động vậy.
Trong kinh nói: “Các pháp bất động nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng bất động”.
Nếu là bình đẳng, là ly, là bất động, thì cũng là vô niệm.
Vì sao? Vì có niệm tức là có tướng, có chấp tướng. Phải là vô niệm mới là vô tướng vậy. Trong kinh nói: “Các pháp vô niệm, nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng vô niệm”.
Nếu là bất động thì chẳng có đến, chẳng có đi, chẳng có sanh, chẳng có diệt. Trong kinh nói: “Các pháp vô sanh, vô diệt nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng vô sanh, vô diệt” .
Người có hý luận thì ở giữa đại chúng mới sanh sợ hãi, chẳng rõ được Niết Bàn mới sanh sợ hãi. Người nghe nói các pháp vô sanh, vô diệt mà chẳng sanh sợ hãi là người đã vào được pháp tánh, đã được vô sanh pháp nhẫn rồi vậy. Trong kinh nói: “Các pháp vô úy, nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng có vô úy” .
Khi đã vào được trong pháp tánh thì biết rõ hết thảy pháp đều chỉ là một tướng (nhất tướng), chỉ là một vị (nhất vị) mà thôi. Trong kinh nói: “Các pháp nhất vị nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng nhất vị”.
Hỏi: Trên đã nói các pháp bình đẳng. Nay vì sao còn nói đến "nhất vị” làm gì nữa?
Đáp: Trong “không” có thể có vị, có thể chẳng có vị.
Có người tu hành rồi mà còn có kiến chấp, còn chấp tâm, còn thủ tướng, còn phân biệt trù lượng. Hạng người đó khi biết được các pháp là rốt ráo không, là rốt ráo bình đẳng, thì rất hoan hỷ, vui mừng nhưng lại lấy đó làm vị. Ví như người đang bị nóng nực bức bách mà gặp được nước được gió, thì rất hoan hỷ, vui mừng, lấy đó làm vị.
Như vậy ở nơi không mà còn chấp không thì vẫn còn có vị. Khi đã vào được nơi chân thật rốt ráo không, thì chẳng còn có vị nữa.
Nay nói đến “nhất vị” là nói Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật thì chỗ duyên và chỗ quán đều đồng một vị, nên gọi là “nhất vị”.
Bồ Tát ở nơi “không” có “đại không trí lực”, nên hết thảy các pháp tùy theo đó cũng đều là rốt rao không. Ví như trong một chảo đường phèn đang được nấu sôi, nếu bỏ những thứ đường khác vào, thì tất cả đều hòa hợp thanh một vị duy nhất của đường phèn. Lại ví như nước từ
trăm sông chảy dồn vào biển, đều hòa hợp với nhau và hòa hợp với nước biển để thành một vị duy nhất là vị mặn của nước biển.
Các pháp cũng là như vậy. Phàm phu thấy các pháp có khác nhau. Thế nhưng khi đã vào trong Bát nhã Ba la mật rồi, thì tất cả các pháp đều thành một vị.
--o0o--
Chấp có tướng là chấp “hữu”, chấp chẳng có tướng là chấp “vô”.
Người tu hành khi đã vào được thật quán, thấy hết thảy các pháp là chẳng phải có, cũng là chẳng phải không, nên nói là vô tướng, là vô tướng tướng vậy.
Nếu là vô tướng thì cũng tức là vô biên. Quán như vậy nên được “vô biên Bát nhã Ba la mật. Trong kinh nói: “Các pháp vô biên, nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên” .
Có thuyết nói “hữu biên” là có 2 bên: Bên thường và bên đoạn; bên ác và bên thiện, bên thế gian và bên Niết Bàn v.v... Khi đã vào trong Bát nhã Ba la mật rồi thì chẳng còn phân biệt có các biên như vậy nên gọi là “vô biên Bát nhã Ba la mật”.
Lại có thuyết phân biệt có biên trước (tiền biên), có biên sau (hậu biên). Ví như nói thế gian vô thỉ là chẳng có biên trước (vô tiền biên); vào Vô Dư Niết Bàn là có biên trước(tiền biên), chẳng có ra lại nữa là chẳng có biên sau (vô hậu biên) v.v... Như vậy, người chấp thế gian, sợ Niết Bàn là người phân biệt có các biên. Trái lại, người đã vào trong Bát nhã Ba la mật rồi, thì chẳng thấy có các biên, nên nói hết thảy các pháp ở nơi thật tướng là chẳng có vào ra, chẳng có đến đi vậy.
Hỏi: Các pháp bình đẳng, các pháp ly đã là vô biên rồi. Như vậy cần gì phải nói riêng nữa?
Đáp: Đối với người đã biết rõ các pháp là bình đẳng, là ly thì chẳng cần phải nói. Nhưng đối với những người còn chấp tướng, còn chấp một bên thì phải nói các pháp là vô biên.
Bồ Tát Đàm Vô Kiệt chẳng phải chỉ thuyết pháp cho một mình Bồ Tát Tát Đà Ba Luân. Bồ Tát Tát Đà Ba Luân cũng chẳng phải chỉ vì mình mà hỏi Bồ Tát Đàm Vô Kiệt. Đây là vì chung sanh có tâm hành sai khác nhau nên Bồ Tát Đàm Vô Kiệt phải dùng các nhân duyên thí dụ để chúng sanh thấy rõ Bát nhã Ba la mật cùng hết thảy các pháp đều là vô biên, như nói: “Hư không vô biên, nước trong biển lớn vô biên, nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên”.
Hỏi: Hư không là vô vi, là thường pháp, chẳng có thể tìm được biên bờ, nên nói là hư không vô biên. Còn biển lớn ở trong 4 châu thiên hạ bao quanh núi Tu i; nước trong biển lớn có thể đo lường được. Vì sao lại nói nước trong biển lớn là vô biên?
Đáp: Phải hiểu “vô biên” theo 2 nghĩa:
- Thật sự là chẳng có biên bờ, nên gọi là vô biên.
- Thật sự là có biên bờ, nhưng vì mênh mông, chẳng thể suy lường được, nên gọi là vô biên.
Dùng thuyền có thể vượt qua biển nhỏ; còn biển lớn quá mênh mông, chẳng có thể dùng thuyền vượt qua được, chỉ dùng thần thông mới vượt qua được, nên gọi biển lớn là vô biên vậy.
Ví dụ hàng ngoại đạo tu thiền định chỉ có thể đến các cõi trời Dục giới, Sắc giới hoặc Vô sắc giới, nên chỉ ví như người vượt qua biển nhỏ.
Hàng ngoại đạo do còn chấp tâm, do chưa phá được ngã tâm nên chẳng có thể vượt qua biển lớn “3 cõi”.
Các bậc Thánh hiền đã được đầy đủ trí huệ, đã phá được các tà tướng, đã vào được thật tướng pháp, mới có thể vượt qua được biển lớn “3 cõi” vậy”.
--o0o--
“Ví như hư không vô phân biệt, thì trong ngoài, xa gần, tịnh uế ... đều bình đẳng, vô phân biệt.
Cũng như vậy, Bát nhã Ba la mật vô phân biệt. Các pháp vào trong Bát nhã Ba la mật đều vô phân biệt, nên trong ngoài, thiện ác... đều bình đẳng. Phân biệt nói 5 ấm vô biên là nói 5 ấm thường có trong khắp thế gian.
Cũng như vậy, Bát nhã Ba la mật chẳng xa rời 5 ấm, vì 5 ấm thật tướng tức là Bát nhã Ba la mật.
Hết thảy các sắc pháp nếu được chia chẻ sẽ trở thành vi trần, trở thành vô phân vô lượng (chẳng thể phân, chẳng thể lượng). Như vậy các sắc pháp đều là vô hình, vô sắc, vô biên chẳng có bờ bên này bờ bên kia (chẳng có bỉ thử). “Vô biên Bát nhã Ba la mật” cũng là như vậy. Các pháp phân biệt, sắc pháp cùng vô sắc pháp, khi đã vào trong Bát nhã Ba la mật đều chẳng có biên bờ, chẳng có phân biệt. Bởi vậy nên nói: “Sắc vô biên, thì Bát nhã Ba la mật cũng vô biên”.
Nhờ lối giải thích này của Đại Trí Độ Luận chúng ta hiểu thêm được nghĩa thú thậm thâm của Bát nhã Ba la mật).
Này thiện nam tử! Vì sắc vô biên, nên biết Bát Nhã cũng vô biên; vì thọ, tưởng, hành, thức vô biên, nên biết Bát Nhã cũng vô biên. Vì 12 xứ, 18 giới vô biên, nên biết Bát Nhã cũng vô biên. Vì tứ thiền bát định vô biên, nên biết Bát Nhã cũng vô biên. Vì tứ đế, 37 pháp trợ đạo, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao vô biên, nên biết Bát Nhã cũng vô biên. Vì tất cả pháp hữu lậu vô lậu vô biên, nên biết Bát Nhã cũng vô biên. Vì tất cả pháp hữu vi vô vi vô biên, nên biết Bát Nhã cũng vô biên. Vì Kim cương dụ bình đẳng, nên biết Bát Nhã cũng bình đẳng. Vì tất cả pháp không hoại, nên biết Bát Nhã cũng không hoại. Vì tất cả pháp không tạp nhiễm, nên biết Bát Nhã cũng không tạp nhiễm. Vì tất cả pháp không sai biệt, nên biết Bát Nhã cũng không sai biệt. Vì tự tánh các pháp chẳng thể nắm bắt được, nên biết tự tánh Bát Nhã cũng chẳng thể nắm bắt được; vì các pháp không có sở hữu bình đẳng, nên biết Bát Nhã không có sở hữu cũng bình đẳng; vì các pháp không có tạo tác, nên biết Bát Nhã cũng không có tạo tác; vì các pháp chẳng thể nghĩ bàn, nên biết Bát Nhã cũng chẳng thể nghĩ bàn.
(Để giải thích đoạn kinh cuối cùng này, Đại Trí Độ Luận giảng tiếp:
“Người thế gian do bị phiền não che tâm, nên phân biệt có các pháp riêng khác. Các bậc thánh, khi được Bát nhã Ba la mật rồi, dùng pháp “không” để phân biệt ức tưởng các pháp, nên vào được 3 giải thoát môn “không, vô tướng và vô tác”. Lúc bấy giờ, các ngài đã phá hết thảy các pháp tướng, nên chẳng còn ưu bi sầu khổ nữa; các ngài chẳng còn chấp các pháp tướng, vì biết rõ các pháp tánh là bất khả đắc. Hết thảy các pháp đều theo nhân duyên sanh, nên chẳng có tự tánh, ngay từ căn bản là quyết định chẳng thật có.
Vì các pháp đều theo nhân duyên hoà hợp sanh, nên khi các duyên chưa hòa hợp là không, khi có các duyên hòa hợp mới thành có. Như vậy là trước không, nay theo nhân duyên hòa hợp mà có, nên là chẳng có tự tánh vậy.
Các pháp theo nhân duyên sanh, tánh của các pháp là pháp tánh. Hết thảy các pháp hữu vi cũng như vô vi đều là chẳng có tự tánh, đều là bất khả đắc. Bát nhã Ba la mật cũng là như vậy.
Bất khả đắc cũng tức là vô sở hữu; Vô sở hữu cũng tức là bình đẳng. Vì sao? Vì “có” mới phân biệt, “không” thì chẳng có phân biệt.
Ví như hương chiên đàn khi được đốt lên thì mới phân biệt được khói của hương chiên đàn thơm; khi khói đã diệt rồi, thì chẳng còn phân biệt nữa, bởi vậy nên nói các pháp là vô tác; chúng sanh là không, các pháp cũng là không; chúng sanh và các pháp đều là vô tác.
Ví như nói lửa cháy, gió động, thức hay biết v.v… thì tất cả các sự việc ấy đều là pháp; mỗi mỗi tợ như có tự lực riêng, nhưng thực ra đều là vô sắc, vô hình, đều là không, là vô tác cả. Dẫn đến nhất thiết chủng trí cũng là như vậy.
Trước đây đã nói chúng sanh là vô tác giả, nay rộng nói các pháp đều là vô sở tác cả.
Hết thảy các pháp bình đẳng là bất khả tư nghì. Vì sao? Vì hết thảy các pháp đều chẳng thể quyết định là thường hay là vô thường, là khổ hay là lạc, là thật hay là hư, là có ngã hay là vô ngã, là sanh diệt hay là bất sanh diệt, là ly hay là bất ly, là hữu hay là vô.
Hết thảy các pháp tuy có phân biệt sai khác, nhưng tất cả đều bất khả tư nghì. Vì sao? Vì tâm chúng sanh ức tưởng, phân biệt mà sanh ra có các pháp. Thật ra thật tánh của các pháp vượt qua khỏi tâm lượng của chúng sanh, vượt qua ngoài danh tự ngữ ngôn.
Các bậc Thánh Hiền chẳng có thể hành được, chẳng có thể đến được, nên gọi là bất khả tư nghì. Bát nhã Ba la mật cũng là như vậy”.
Bình đẳng tánh hay bất khả tư nghì không hai không khác vì cùng nằm trong thập nhị nhân duyên, nên chẳng thể hành được, chẳng thể đạt, pháp nhĩ như vậy, chẳng ai có thể làm ra tạo ra kể cả Hiền Thánh).
Bồ Tát Thường Đề nghe nói cú nghĩa sai biệt của Bát nhã Ba la mật, liền ngay trước pháp tòa đắc sáu mươi ức (6 triệu) pháp môn Tam ma địa, đó là Tam ma địa chư pháp bình đẳng, Tam ma địa chư pháp viễn ly, Tam ma địa chư pháp bất động v.v...
Bồ Tát Thường Đề đã đắc sáu mươi ức pháp môn Tam ma địa như thế tức thời hiện thấy Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến tri có đại chúng Thanh văn, Bồ Tát vây quanh trong hằng hà sa số thế giới Tam thiên đại thiên ở Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía trên dưới nhiều như cát sông Hằng, đem danh như thế, cú như thế, chữ như thế, lý thú như thế, vì các đại Bồ Tát tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật, như nay ta ở thế giới tam thiên đại thiên này, có đại chúng Thanh văn, Bồ Tát vây quanh, dùng danh như thế, cú như thế, chữ như thế, lý thú như thế, vì các chúng đại Bồ Tát tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật v.v... như nhau không khác.
Bồ Tát Thường Đề từ đó về sau đa văn trí tuệ chẳng thể nghĩ bàn, giống như biển cả, tùy nơi thọ sanh, thường gặp chư Phật, thường sanh vào quốc độ diệu tịnh của chư Phật, cho đến trong mộng cũng thường thấy Phật vì mình thuyết Bát nhã Ba la mật, thân cận cúng dường chưa từng lơi lỏng.
Lược giải:
Mục đích hành cước của Bồ Tát Thường Đề là được nghe Bát nhã Ba la mật tu tập trở thành Vô Thượng Bồ đề để cứu độ chúng sanh. Nên khi nghe trên không có tiếng nói là đi về hướng Đông sẽ đến được thành Diệu Hương, ở đó sẽ gặp Bồ Tát có tên là Pháp Dũng thuyết Bát nhã Ba la mật. Nhưng khi đi chẳng nề mệt nhọc, chẳng màng ngủ nghỉ, chẳng đếm xỉa đến ăn uống, chẳng tưởng ngày đêm, chẳng sợ lạnh nóng, đối với pháp trong ngoài, tâm chẳng tán loạn. Nhờ tập trung cao độ như thế, nên Bồ Tát Thường Đề rơi vào Tam muội. Trong Tam muội Bồ Tát thấu rõ các điều kiện tâm linh của hết thảy Chư Phật. Rồi khi xuất định Bồ Tát không thấy chư Phật nữa nên đem lòng buồn bực, quyết tâm khi gặp Bồ Tát Pháp Dũng sẽ hỏi Bồ Tát này “chư Phật từ đâu đến và sẽ đi về đâu?”(1)
Câu hỏi “chư Phật từ đâu đến và sẽ đi về đâu” không những chỉ dành riêng cho Bồ Tát Thường Đề mà cũng là thắc mắc chung cho những ai tu Phật. Trả lời được câu hỏi này là hiểu được pháp thân Như Lai hay hiểu về chân như, pháp giới, pháp tánh nói chung.
1. Như lai tức pháp giới, pháp giới tức Như lai.
Kinh “Đệ nhất nghĩa không”, thuộc Tạp A hàm, số 335 ghi như sau: “Thế nào là Kinh Đệ nhất nghĩa không? Này các Tỳ kheo, lúc mắt sanh thì nó không có chỗ đến; lúc diệt thì nó không có chỗ đi. Như vậy, mắt chẳng thật sanh, sanh rồi diệt mất; có nghiệp báo mà không tác giả. Ấm này diệt rồi, ấm khác tương tục, trừ pháp tục số. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng nói như vậy, trừ pháp tục số.
Pháp tục số tức là nói, cái này có thì cái kia có, cái này khởi thì cái kia khởi, như vô minh duyên hành, hành duyên thức, nói chi tiết đầy đủ cho đến thuần một khối khổ lớn tập khởi. Lại nữa, cái này không thì cái kia không, cái này diệt thì cái kia diệt, vô minh diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt. Như vậy, nói rộng cho đến thuần một khối khổ lớn tụ diệt. Này các Tỳ kheo, đó gọi là Kinh Đệ nhất nghĩa không”.
Mắt được đề cập ở đây là nhãn căn (nhãn căn nằm trong thân căn, biểu thị con người). Khi nói “Mắt sanh thì nó không có chỗ đến, lúc diệt thì nó không có chỗ đi”, đó là nói về sự sanh diệt của các pháp. Đứng về phương diện thế tục mà nói, sự xuất hiện của một pháp, người ta cho là pháp ấy sanh; pháp ấy tan rã, hình tướng băng hoại thì người ta cho là diệt. Hiện tượng sanh và diệt này dựa vào thời gian và không gian. Nếu như chúng ta tách khái niệm thời gian và không gian khỏi sự vật, hay nới rộng thời gian vô cùng tận thì khái niệm sanh và diệt này không còn nữa.
Sanh rồi diệt, diệt rồi sanh vô cùng tận thì gọi là bất sanh bất diệt. Thí dụ khi gieo lúa ngoài đồng, hạt lúa nẩy mầm thành mạ. Người ta cho là lúa mới sanh. Nếu nói lúa mới sanh tại sao từ vô thủy chưa có loài người đã có lúa? Khi cây lúa lớn nở hoa kết hạt, lúa chín người ta gặt chỉ còn trơ lại gốc, trâu bò ăn. Lúc đó lúa chết, người ta gọi là diệt. Nhưng nói lúa diệt sao bây giờ và mãi đến thời hỏa tận vẫn còn lúa(1)?
Pháp không sanh không diệt thì pháp không tới không lui, không đến không đi. Đi và đến là sự di động trong không gian, đi từ Đông sang Tây hay đi từ chỗ này sang chỗ nọ. Đi và đến cũng có nghĩa là tử với sanh: Sanh từ đâu đến, chết đi về đâu. Không riêng con người có sự di động mà mây nước, muôn loài đều có sự vận hành kể cả những nguyên tử cực nhỏ. Vì vậy, con mắt trần thấy rõ ràng có đến có đi, có sanh có diệt.
Để phá tướng đến đi, chủ yếu là tướng đi, tướng đi không có thì tướng đến cũng không. Tướng đi và đến không có, tức là tướng sanh diệt cũng không có. Đến đồng nghĩa với sanh, đi đồng nghĩa với diệt. Nên Kinh nói: “Sanh vô sở tùng lai, diệt vô sở khứ”.
Hòa Thượng Chí Công nói: “Trong thân có tướng là thân vô tướng, trên đường vô minh là đường vô sanh”. Có thân là có tướng: Tướng mập, tướng gầy, tướng đẹp, tướng xấu... Tại sao Hòa thượng Chí Công lại nói “trong thân có tướng là thân vô tướng?” Cái thân có tướng đó do tứ đại hợp thành, do cha mẹ sanh, biến đổi vô thường, sanh trụ dị diệt, theo thời gian rồi cũng băng hoại. Nhưng bên trong cái thân vô thường lại có cái chân thường, cái chân thường đó là “pháp thân”. Pháp thân là vô tướng, không do ai sanh ra. Vô tướng thì không thành không hoại, trường tồn mãi với thời gian. Vậy, thấy tướng mà quên tướng tức “thấy tánh” hay thấy pháp thân.
Thấy tướng mà chấp tướng quên tâm, nên nói là vô minh. Thấy tướng quên tướng tức biết quay trở lại, ngay đó thấy tánh. Thấy tánh tức thành đạt giác ngộ thì không còn rơi vào luân hồi sanh tử nữa, nên nói vô sanh.
2. Pháp thân Như Lai không đến không đi:
Như trên đã nói: Phẩm này là tổng kết tất cả những gì mà Bát Nhã muốn xiển dương. Nếu thông đạt phẩm này thì hiểu được chân như, pháp giới, pháp tánh, pháp trụ, pháp định, thật tế... hay nói khác là “nhập pháp giới”. Nhập pháp giới có nghĩa chính ông là pháp giới và pháp giới chính là ông hay nói khác pháp thân của ông là pháp giới và pháp giới chính là pháp thân của ông.
Pháp giới bao gồm vạn hữu cùng khắp. Pháp thân của tất cả Như Lai Ứng Cúng cũng cùng khắp. Vì sao? Vì Như Lai giác biết bản thể của tất cả pháp chân thật, thường như cùng khắp. Nên Như lai nhập pháp giới. Trong Kinh Lăng Nghiêm Phật bảo ông Phú Lâu Na: “Còn ta thì trái với vọng trần, hiệp với chân tâm thường trụ bất sanh bất diệt, biến khắp cả pháp giới. Cho nên ta mới được tự tại vô ngại. Ở trong một hiện ra vô lượng, vô lượng hiện làm một, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ; không rời nơi đạo tràng mà hiện khắp cả mười phương thế giới. Thân ta bao trùm mười phương hư không vô tận. Trên đầu một mảy lông hiện ra các cõi nước; ngồi trong hạt bụi mà chuyển đại pháp luân…”
Thân Như Lai biến khắp pháp giới, bao trùm mười phương hư không vô tận. Như vậy, Như Lai là pháp giới, pháp giới tức Như Lai, không hai không khác.
Vì chư Phật giác ngộ được chơn như thật tướng của các pháp như thế, nên chư Phật được gọi là Như Lai. Như Lai có nghĩa là người đến như thế, đến từ bào thai của vũ trụ. Như Lai chính là vũ trụ và vũ trụ chính là Như Lai. Ngài Thạch Đầu nói: “Người hội muôn vật làm tự mình, ấy là Thánh nhân”. Hay nói khác người hội muôn vật làm tự mình, là người nhập pháp giới, người ấy chính là chư Như Lai, chư Phật.
Trong Kinh “Mạn Thù Vấn”, trích trong quyển 574, Hội thứ VII, ĐBN, Xá Lợi Phất nói với Bồ Tát Mạn Thù Sư Lợi: “Này Mạn Thù, há không có Pháp giới mà chư Phật chứng nhập sao? Bởi vì Pháp giới là Phật và Phật là Pháp giới, nên Pháp giới không tự chứng Pháp giới. Pháp giới tức hết thảy các pháp đều không; và tánh Không này là Bồ đề, không hai, không phân biệt…”
Như vậy, Như Lai không thể coi là trung gian hay được đồng hóa với chơn như hay pháp giới, pháp tánh, Bình đẳng tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế... mà Như Lai chính là chơn như, là pháp giới, pháp tánh, v.v... Như Lai cũng chính là Pháp thân, là Như lai tạng, là Bản lai diện mục, Viên thành thật tánh. Đã là Pháp thân, là Như lai tạng, là Bản lai diện mục... thì làm gì có đến có đi, có biến dịch sanh diệt đổi dời... Nên Kinh nói: “Pháp thân của Như Lai tức là chơn như, pháp giới, pháp tánh… của tất cả pháp. Chơn như, pháp giới, pháp tánh… đã chẳng có thể nói có đến có đi thì pháp thân của Như Lai cũng giống như thế, không đến, không đi”.
Để kết luận cho luận giải “chư Phật không từ đâu đến cũng không đi về đâu”, chúng tôi trích dẫn một đoạn kinh khác trong phẩm Đàm Vô Kiệt, quyển thứ 30, Kinh MHBNBLMĐ để làm sáng tỏ thêm mục này:
“Lúc ấy Đàm Vô Kiệt Bồ Tát (Pháp Dũng) bảo Tát Đà Ba Luân Bồ Tát (Thường Đề): Này thiện nam tử! Chư Phật không từ đâu đến, đi cũng không đến đâu. Tại sao vậy?
Chư pháp như, tướng chẳng động. Chư pháp như tức là chư Phật.
Pháp vô sanh không đến, không đi. Pháp vô sanh tức là chư Phật.
Pháp vô diệt không đến, không đi. Pháp vô diệt tức là chư Phật.
Pháp thật tế không đến, không đi. Pháp thật tế là chư Phật.
Pháp không không đến, không đi. Pháp không là chư Phật.
Pháp vô nhiễm không đến, không đi. Pháp vô nhiễm là chư Phật.
Pháp tịch diệt không đến, không đi. Pháp tịch diệt là chư Phật.
Tánh hư không không đến, không đi. Tánh hư không là chư Phật.
Này thiện nam tử! Rời các pháp ấy không có Phật. Chư Phật như, các pháp như, một như không sai khác.
Này thiện nam tử! Như ấy thường một, không có hai, không có ba, ra ngoài pháp số, vì là vô sở hữu. Ví như tháng cuối xuân, giữa ban ngày lúc nắng nóng, có người thấy ánh nắng dợn động bèn đuổi theo mong tìm được nước. Ý ông nghĩ sao? Nước ấy từ ao nào, núi nào, suối nào chảy đến, nay đi về đâu, hoặc là chảy về biển Đông, biển Tây, biển Nam, biển Bắc ư?
Tát Đà Ba Luân thưa:
- Thưa Đại sư! Trong ánh nắng còn không có nước, làm sao có được chỗ nước đến, nước đi!
Này thiện nam tử! Kẻ ngu vô trí bị khát bức ngặt, thấy nắng dợn bèn tưởng là nước.
Này thiện nam tử! Nếu có người phân biệt chư Phật có đến có đi, phải biết các người ấy đều là ngu phu. Tại sao vậy?
Này thiện nam tử! Chư Phật, chẳng thể lấy sắc thân thấy được. Chư Phật, pháp thân không đến, không đi, cũng không chỗ đến, chỗ đi.
Này thiện nam tử! Thí như nhà ảo thuật, thuật ra các thứ như voi, ngựa, bò, dê, nam, nữ. Ý ông nghĩ sao? Ảo sự ấy từ chỗ nào đến, đi đến đâu?
- Thưa Đại sư! Ảo sự không thật làm sao có chỗ đến, chỗ đi.
Này thiện nam tử! Người mà phân biệt đức Phật có đến, có đi cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Ví như chiêm bao thấy voi, ngựa, bò, dê, nam, nữ. Ý ông nghĩ sao? Cảnh vật được thấy trong chiêm bao có chỗ đến chỗ đi chăng?
- Thưa Đại sư! Cảnh vật được thấy trong chiêm bao đều là hư vọng, làm sao lại có đến, có đi.
Này thiện nam tử! Nếu người mà phân biệt đức Phật có đến, có đi cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Đức Phật nói các pháp như chiêm bao. Nếu có chúng sanh nào chẳng biết pháp nghĩa ấy, cho danh tự sắc thân là Phật, người ấy phân biệt chư Phật có đến, có đi.
Vì chẳng biết tướng thật tế của các pháp, nên đều là hạng ngu phu vô trí.
Các người ấy mãi mãi qua lại năm đường, xa rời Bát Nhã, xa rời Phật pháp.
Này thiện nam tử! Đức Phật nói các pháp như ảo, như mộng. Nếu có chúng sanh nào biết đúng thật, thì người ấy chẳng phân biệt các pháp, hoặc đến, hoặc đi, hoặc sanh, hoặc diệt. Nếu chẳng phân biệt các pháp hoặc đến, hoặc đi, hoặc sanh, hoặc diệt thì có thể biết được thật tướng của các pháp mà đức Phật đã nói. Người ấy hành Bát nhã Ba la mật gần Vô Thượng Bồ Đề, gọi là chơn đệ tử, chẳng hư vọng ăn của tín thí. Người ấy đáng nhận cúng dường. Là phước điền thế gian”.
Phẩm “Đàm Vô Kiệt” của Kinh MHBNBLMĐ chẳng qua là rút gọn phẩm “Pháp Dũng Bồ Tát” của Kinh ĐBN. Mục đích trích dẫn này cốt làm rõ nghĩa Kinh ĐBN mà thôi.
3. Tất cả pháp như huyễn, như mộng...
Kinh nói: “Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nói tất cả pháp như mộng, như bóng sáng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như trò huyễn, như sự biến hóa, như ảo thành đều chẳng phải thật có. Nếu đối với pháp nghĩa thậm thâm mà chư Phật đã nói như thế chẳng biết như thật, chấp thân Như Lai là danh là sắc, có đến có đi, thì nên biết kẻ ấy mê muội pháp tánh, ngu si vô trí, lưu chuyển các thú, chịu khổ sanh tử, xa lìa Bát nhã Ba la mật, cũng lại xa lìa tất cả Phật pháp. Nếu đối với pháp nghĩa thậm thâm mà chư Phật đã dạy, có khả năng biết như thật, chẳng chấp các pháp có đến có đi, có sanh có diệt, có nhiễm có tịnh. Do chẳng chấp nên có thể hành Bát Nhã, cũng có thể siêng tu tất cả Phật pháp, như thế là gần gũi sở cầu là quả vị Giác ngộ tối cao, cũng gọi là đệ tử chơn tịnh của Như Lai. Xứng đáng nhận đồ cúng dường của người, trời trong thế gian”.
Đây là câu Phật thường nói trong hầu hết các phẩm của Hội thứ I cũng như trong toàn bộ Đại Bát Nhã Ba La Mật: Các pháp không thật, giả có, chúng như mộng, như huyễn, như ảnh, như tượng, như thành tầm hương... Chấp vào các pháp là thật có, có sanh diệt, đến đi, nhiễm tịnh... thì bị lưu chuyển trong luân hồi sanh tử mà chịu nhiều khổ lụy, không thể tu học Bát Nhã nói chi đến việc chứng đắc Giác ngộ.
4. Các pháp không ngoài duyên sanh:
Kinh nói: “Như trong biển lớn có các trân bảo, trân bảo chẳng phải từ mười phương đến, cũng chẳng phải hữu tình ở trong đó tạo ra, cũng chẳng phải các báu này không có nhân duyên sanh. Nhưng vì sức thiện căn của các hữu tình, nên khiến trong biển có các báu sanh; báu ấy sanh nương vào sức nhân duyên hòa hợp mà có, chứ không từ đâu đến; báu ấy diệt cũng không đi về đâu, chỉ vì sức thiện căn của hữu tình đã hết, khiến báu kia diệt mất. Vì sao? Vì các pháp hữu vi, duyên hiệp thì sanh, duyên lìa thì diệt, trong đó hoàn toàn không có ai sanh, ai diệt. Vì vậy, các pháp không đến, không đi; thân của chư Như Lai cũng như thế, ở trong mười phương, không từ đâu đến, cũng chẳng phải ở trong đó có người tạo tác, cũng chẳng thể nói không có nhân duyên sanh, nhưng vì nương vào sự tu hành tịnh hạnh viên mãn, cho nên có thân Như Lai xuất hiện ở đời. Khi thân Phật diệt, cũng không đi về đâu trong mười phương, chỉ do sức nhân duyên hòa hợp đã hết liền diệt. Vì vậy, chư Phật không đến, không đi”. (Q.399, ĐBN)
Các trân bảo sở dĩ có sanh là do nhân duyên phước đức thiện căn của hữu tình hòa hợp. Cũng cùng đoạn Kinh trên, Kinh thuyết tiếp với thí dụ hết sức cụ thể:
“Thí như cây đàn không hầu nương vào các loại nhân duyên hòa hợp mà có tiếng sanh, nhân duyên của tiếng ấy là cái cần, cái ống, khe hở, cái trục, sợi dây v.v... tác ý của nhạc công. Như vậy, từng yếu tố một chẳng có thể sanh tiếng, khi hòa hợp tất cả yếu tố lại, tiếng nó mới phát; tiếng ấy phát sanh không từ đâu đến, khi diệt đi, không đi về đâu.
Thân của chư Như Lai cũng giống như thế, nương vào các thứ nhân duyên mà sanh, nhân duyên của thân ấy là vô lượng phước đức trí tuệ và thiện căn do tu tập thành thục mà có. Như vậy, từng yếu tố một chẳng có thể sanh thân, khi hòa hợp lại, thân ấy mới sanh; thân đã sanh ấy không từ đâu đến, khi diệt chẳng đi về đâu”.
Kinh lấy thí dụ âm thanh phát ra từ cây đàn không hầu: Âm thanh đó không do cần, không do dây, không do thùng gỗ, không do da bọc, không do tay người khảy... nghĩa là không do bất cứ một yếu tố riêng rẽ nào mà có. Âm thanh có được là tổng hợp của tất cả các yếu tố hợp thành. Thân Phật cũng vậy, nương vào nhân duyên sanh, nhân duyên ấy là do vô lượng phước đức, trí tuệ, thiện căn do cần tu khổ tập mà có. Như vậy, từng yếu tố một chẳng có thể sanh thân, khi hòa hợp lại, thân ấy mới sanh; thân đã sanh ấy không từ đâu đến, khi diệt chẳng đi về đâu. Đối với thiên hà đại địa như sông núi, biển cả... cũng đều như thế cả.
Nên Luận Đại Trí Độ, phẩm thứ 89, “Đàm Vô Kiệt”, tập 5, quyển 100, giải thích rằng:
“Cũng như vậy, thân Phật chẳng phải chẳng có nhân duyên mà sanh, chẳng phải do ít nhân duyên mà được sanh; thân Phật phải có đầy đủ các nhân duyên hòa hợp mới sanh vậy.
Ví như có gương, có người soi gương, có ánh sáng đầy đủ, có mặt gương lau chùi sạch sẽ thì mới có bóng người ở trong gương. Nếu các duyên ly tán thì chẳng còn có bóng người ở trong gương nữa.
Cũng như vậy, nếu có đầy đủ nhân duyên hòa hợp thì Phật liền hiện.
Nếu các nhân duyên ly tán thì Phật liền diệt vậy.
Bồ Tát Đàm Vô Kiệt bảo Bồ Tát Tát Đà Ba Luân rằng: Này thiện nam tử! Phải nên như vậy mà quán thân Phật là chẳng có các tướng đến, tướng đi. Hết thảy các pháp cũng đều là như vậy, đều chẳng có đến, chẳng có đi.
Người nào biết các pháp tướng chẳng có tướng đến, chẳng có tướng đi, ắt sẽ được Bát nhã Ba la mật, được các lực phương tiện Bát nhã Ba la mật... dẫn đến sẽ được Vô Thượng Bồ Đề.
Vì sao? Vì người ấy được vô ngại ở nơi hết thảy các pháp vậy”.
Do đó, phẩm này Phật bảo: “Đối với tướng không đến đi của Như Lai Ứng chánh Đẳng Giác, ngươi nên biết như thế. Theo đạo lý này, thì đối với tướng không đến không đi của tất cả pháp cũng phải biết như thế. Nếu đối với Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và tất cả pháp có thể như thật biết không đến, không đi, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh thì nhất định có khả năng tu hành Bát Nhã thậm thâm, phương tiện thiện xảo, quyết chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao”.
5. Nghĩa thú Bát Nhã:
Đây là bài pháp quan trọng, nên trước khi thuyết Bồ Tát Pháp Dũng ân cần bảo Bồ Tát Thường Đề:
“Này thiện nam tử! Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe! Và suy nghĩ chính chắn. Ta sẽ vì ông mà tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật.
- Này thiện nam tử! Vì tất cả pháp bình đẳng. Cho nên, nên biết Bát Nhã cũng bình đẳng. Vì tất cả pháp viễn ly cho nên biết Bát Nhã cũng viễn ly. Vì tất cả pháp bất động cho nên biết Bát Nhã cũng bất động. Vì tất cả pháp vô niệm, cho nên biết Bát Nhã cũng vô niệm. Vì tất cả pháp vô úy cho nên biết Bát Nhã cũng vô úy. Vì tất cả pháp nhất vị cho nên biết Bát Nhã cũng nhất vị. Vì tất cả pháp không giới hạn cho nên biết Bát Nhã cũng không giới hạn. Vì tất cả pháp vô sanh cho nên biết Bát Nhã cũng vô sanh. Vì tất cả pháp vô diệt cho nên biết Bát Nhã cũng vô diệt. Vì thái hư vô biên cho nên biết Bát Nhã cũng vô biên. Vì biển lớn vô biên cho nên biết Bát Nhã cũng vô biên. Vì Diệu Cao sơn vô biên cho nên biết Bát Nhã cũng vô biên. Vì núi Diệu Cao hùng vĩ cho nên biết Bát Nhã cũng hùng vĩ. Vì thái hư vô phân biệt cho nên biết Bát Nhã cũng vô phân biệt.
Này thiện nam tử! Vì sắc vô biên, cho nên biết Bát Nhã cũng vô biên; vì thọ, tưởng, hành, thức vô biên, cho nên, nên biết Bát Nhã cũng vô biên. Vì 12 xứ, 18 giới vô biên, cho nên biết Bát Nhã cũng vô biên. Vì tứ thiền bát định vô biên, cho nên biết Bát Nhã cũng vô biên. Vì tứ Thánh đế, 37 pháp trợ đạo, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao vô biên, cho nên biết Bát Nhã cũng vô biên. Vì tất cả pháp hữu lậu vô lậu vô biên, cho nên biết Bát Nhã cũng vô biên. Vì tất cả pháp hữu vi vô vi vô biên, cho nên biết Bát Nhã cũng vô biên. Vì Kim cương dụ bình đẳng, cho nên biết Bát Nhã cũng bình đẳng. Vì tất cả pháp không hoại, cho nên biết Bát Nhã cũng không hoại. Vì tất cả pháp không tạp nhiễm, cho nên biết Bát Nhã cũng không tạp nhiễm. Vì tất cả pháp không sai biệt, cho nên biết Bát Nhã cũng không sai biệt. Vì tự tánh các pháp chẳng thể nắm bắt được, cho nên biết tự tánh Bát Nhã cũng chẳng thể nắm bắt được; vì các pháp vô sở hữu bình đẳng, cho nên biết Bát Nhã vô sở hữu cũng bình đẳng; vì các pháp không tạo tác, cho nên biết Bát Nhã cũng không tạo tác; vì các pháp chẳng thể nghĩ bàn, cho nên biết Bát nhã Ba la mật cũng chẳng thể nghĩ bàn”.
Toàn bộ Bát Nhã đều nói “tất cả pháp là bình đẳng, viễn ly, vô niệm, vô úy, vô sở hữu, bất khả đắc, nhất vị, không tạo, không tác, vô sanh, vô diệt, chẳng thể nghĩ bàn v.v... nên Bát Nhã cũng bình đẳng, viễn ly, vô niệm, vô úy... chẳng thể nghĩ bàn v.v…” Như núi Diệu cao vô biên nên Bát Nhã vô biên, biển cả vô biên nên Bát Nhã vô biên, thái hư vô biên nên Bát Nhã cũng vô biên, tất cả pháp Phật cho đến quả vị Giác ngộ tối cao vô biên nên Bát Nhã cũng vô biên. Nói tóm lại pháp thế gian có đặc tánh gì thì Bát Nhã có đặc tánh đó. Vì vậy, Bát Nhã mới có thể bao dung che chở đối với tất cả trắc trở thế gian.
Đoạn Kinh này được xem như cú nghĩa nhiệm mầu của Bát nhã Ba la mật. Nhưng tại sao nó lại được xem là nhiệm mầu? Vì ngay trước pháp tòa Bồ Tát Thường Đề thâm nhập được phương tiện này, liền đắc sáu mươi ức pháp môn Tam ma địa... Rồi từ đó về sau được đa văn trí tuệ giống như biển cả chẳng thể nghĩ bàn. Phải chăng Bồ Tát Thường Đề quán các tất cả pháp như vậy nhập được chân lý, liền đắc các Tam muội, rồi được đa văn trí tuệ?
Kinh Pháp Hoa nói về “Khai thị ngộ nhập trong tri kiến Như Lai”. Tri kiến Như Lai hay còn gọi là Phật trí. “Khai” là mở ra, “thị” là chỉ cho thấy, “ngộ” là giác biết, “nhập” là đi vào chân lý. Một khi nhập được chân lý rồi, thì chân lý chính là ông và ông chính là chân lý. Chủ đích của Kinh Pháp Hoa nhằm chỉ cho chúng sanh mỗi người đều có Phật trí này. Nhưng vì vọng động mà quên đi cái sẵn có ở nơi mình, nên vọng ngoại tầm cầu như chàng cùng tử có sẵn hạt châu trong chéo áo mà không biết, nên phải đi lang thang khắp đầu đường xó chợ kiếm ăn. Nhưng may mắn cùng tử gặp người có trí chỉ cho biết hạt châu trong chéo áo. Rồi từ đó nhờ bán hạt châu mà trở nên giàu sang sung sướng. Hạt châu ở đây chính là trí tuệ Phật hay Bát Nhã Trí sẳn có trong mỗi chúng sanh.
Bồ Tát Pháp Dũng chẳng khác nào “người trí”, tuyên thuyết cú nghĩa Bát nhã Ba la mật như thế, khiến Bồ Tát Thường Đề thâm hiểu nhập được chân lý, rồi liền trước tòa đắc cả vạn Tam muội, các biện tài, thần thông diệu dụng mà trở thành bậc trí tuệ.
Thích nghĩa cho phần lược giải này:
(1). Sanh và diệt: Ngài Phạm Chí Thanh Mục chú thích cuốn Trung Luận của Bồ Tát Long Thọ nói về “bất sinh bất diệt” của cây lúa như sau: “Vạn vật không có sinh, vì sao? Vì thế gian hiện thấy. Thế gian chính mắt thấy lúc ban sơ lúa chẳng sinh. Vì sao? Vì lìa lúa trong kiếp ban sơ thời lúa hiện nay không thể có được. Nếu lìa lúa trong kiếp ban sơ mà hiện nay có lúa thời mới gọi là có sinh ra, song kỳ thật không có như vậy. Thế nên chẳng sinh. Tại sao chẳng diệt? Vì thế gian hiện thấy. Thế gian chính mắt thấy trong lúc ban sơ lúa chẳng diệt, nếu diệt thời nay không thể có lúa, song kỳ thật có lúa. Thế nên chẳng diệt”.
---o0o---