306. Thiền Sư Tịnh Giới (? - 1207)
Đời thứ 10, Thiền Phái Vô Ngôn Thông
(Vào thời Vua Lý Anh Tông)
🙏🙏🙏🌹🥀🌷🍀🌷🌸🏵️🌻🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️🙏🙏🙏🌹🥀🌷🍀🌷🌸
Thuyết giảng: TT Thích Nguyên Tạng
Nam Mô A Di Đà Phật
Kính bạch Sư Phụ, hôm nay Thứ Năm, 04/11/2021 (30/09/Tân Sửu), chúng con được học về Thiền Sư Tịnh Giới (? - 1207) đời thứ 10, Thiền Phái Vô Ngôn Thông. Sư phụ dựa theo tài liệu gốc Thiền Sư Việt Nam do HT Thích Thanh Từ biên soạn và ấn hành tại VN vào năm 1972. Pháp thoại hôm nay là bài giảng thứ 306 của Sư Phụ bắt đầu từ mùa cách ly do bệnh đại dịch covid 19 (đầu tháng 5-2020).
Sư tên Chu Hải Ngung, quê làng Giang Mão. Xuất thân trong gia đình hàn vi, nhưng tánh tình Sư rất thuần hậu, lúc nhỏ theo học Nho. Đến năm hai mươi sáu tuổi, Sư mang bệnh nặng, mộng thấy thần nhân cho thuốc. Tỉnh giấc, bệnh được lành, Sư bèn quyết chí xuất gia. Theo một vị kỳ túc trong làng, Sư được thọ giới Cụ túc và chuyên nghiên cứu về Luật tạng.
Sư Phụ giải thích:
- Thiền sư Tịnh Giới thuộc đời thứ 10 của thiền phái Vô Ngôn Thông. Sư xuất gia ở chùa làng và không có tên của vị thầy đầu tiên.
Nghe ở vùng Lãng Sơn thanh u vắng vẻ, tiện cho sự tu học, Sư chống gậy đi về phương Đông. Trải qua bảy năm tham học, Sư gặp được Thiền sư Bảo Giác ở chùa Viên Minh, qua một câu nói, Sư liền khế hội.
Sư Phụ giải thích:
- Sư được đắc pháp với thiền sư Bảo Giác qua một câu nói nhưng không có ghi câu nói này. Sư phụ cũng nhắc vui là Ngài Tịnh Giới có gen di truyền từ Sơ Tổ Vô Ngôn Thông năm xưa (cách ngài trên 400 năm) cũng nghe một câu chuyển ngữ của Tổ Bách Trượng Hoài Hải mà ngộ đạo.
Khoảng niên hiệu Chính Long Bảo Ứng (1163-1173, thời Vua Lý Anh Tông), lúc Thiền sư Bảo Giác sắp viên tịch có nói:
- Sanh già bệnh chết là việc thường của người đời, riêng ta há lại khỏi sao?
Sư liền hỏi:
- Ngày nay Tôn đức thế nào?
Thiền Sư Bảo Giác cười nói bài kệ “Quy Tịch”:
Vạn pháp qui không vô khả y,
Qui tịch chân như mục tiền ky,
Đạt ngộ tâm viên vô sở chỉ,
Thủy tâm thủy nguyệt dẫn tâm nghì.
HT Thích Thanh Từ dịch:
Muôn pháp về không không thể nương,
Chân như lặng lẽ hiện tỏ tường,
Thấu tột nguồn tâm không chỗ chỉ,
Nước tâm bóng nguyệt bặt nghĩ lường.
Bản dịch của Đỗ Văn Hỷ:
Muôn pháp về không, không tựa nương,
Chân như trước mắt, một con đường.
Cái tâm liễu ngộ khôn nơi chỉ,
Như bóng trăng nằm đáy đại dương.
Bản dịch của Ngô Hồ Anh Khôi
Vạn pháp cũng chỉ là không
Làm sao có chỗ cho lòng tựa nương
Đạo kia chỉ một con đường
Ở ngay trước mắt mà dường xa xăm
Làm sao chỉ được ngộ tâm
Khác gì đáy nước bóng trăng lững lờ ...
Nói kệ xong, Bảo Giác truyền tâm ấn cho Sư.
Sư Phụ giải thích:
Phong thái viên tịch của thiền sư Bảo Giác khác với người đời, vì người đời lúc sanh thời thì vui sống nhưng sợ sự chết vì không biết đi về đâu. Riêng ngài Bảo Giác cười nói tự tại về sự ra đi sắp đến:
* Muôn pháp về không không thể nương,
Sư Phụ giải thích, các pháp trên thế gian cuối cùng đều trở về không, không thể trụ, không thể bám. Các pháp do duyên sanh và cũng do duyên diệt, cơ thể do đất nước gió lửa tạo thành và cơ thể trả về cho đất nước gió lửa, cố Hòa Thượng Giác Nhiên (hệ phái Khất Sỹ) có nói 2 câu thơ:
“Thân tứ đại trả về cho tứ đại
Còn tâm linh siêu thoát đó mà thôi”.
* Chân như lặng lẽ hiện tỏ tường.
Sư Phụ giải thích: Chân Như, tiếng Phạn gọi là: tathatā, bhūta-tathatā, là thể tánh tuyệt đối cuối cùng của vạn sự. Chân Như là thể tánh ổn định, thường hằng, nằm ngoài mọi lý luận nhận thức. Chân như là chỉ cái ngược lại của thế giới hiện tượng thuộc thân thuộc tâm. Kiến văn giác tri được Chân Như là Giác ngộ, vượt khỏi thế giới nhị nguyên, chứng được cái nhất thể của khách thể và chủ thể, ra khỏi vòng cương tỏa của sanh tử luân hồi. Chân như đồng nghĩa với Như Lai tạng.
Sư phụ nhấn mạnh lời kệ của Thiền Sư Bảo Giác là chỉ “Chân Như ở ngay trước mắt” mình nhưng mình không thấy. Chân Như ấy ở ngay trong sơ niệm sát na đầu, “trong cái thấy chỉ có cái thấy” đó là Chân Như. Lời này phù hợp với 5 tiêu chuẩn của toàn bộ giáo lý của Đạo Phật:
1/Thiết thực hiện tại;
2/Đến để mà thấy
3/Không bị chi phối bởi thời gian
4/Có tính hướng thượng
5/Cho người trí tự mình giác ngộ
* Thấu tột nguồn tâm không chỗ chỉ.
- là tự mình nhận ra không thể nói được.
* Nước tâm bóng Nguyệt bặt nghĩ lường.
Chân Như ví như thể của nước, giống như ánh trăng đáy nước, không dùng ngôn ngữ để tỏ bày, hành giả phải bặt dứt suy nghĩ, lắng đọng tâm sanh diệt mới nhận ra được.
Nói kệ xong Ngài Bảo Giác ấn chứng cho Sư.
Từ đây, tùy phương giáo hóa, dần dần đến chùa Quốc Thanh trên núi Linh Bí ở An Phủ, Sư bèn dừng lại trụ trì. Sư ở đây cấm túc sáu năm, chuyên tu hạnh đầu-đà. Quan Châu mục tên Phạm Từ, nghe danh đức của Sư rất quí mến, đến ra mắt và kính lễ, ông phát tâm thỉnh Sư đúc hồng chung để tại sơn môn.
Sau, Sư trở về làng cũ trùng tu lại ngôi chùa Quảng Thánh và quyên tiền đúc chuông, mua trống, dựng bia. Sư trụ luôn ở đây, thu nhận môn đồ giáo hóa.
Có vị Tăng hỏi:
- Thế nào là Phật lý?
Sư đáp:
- Ngươi, ta.
Sư thường bảo:
- Tánh của tâm chính là tánh của Như Lai tạng tâm. Thế nên Tự tánh tâm thanh tịnh vậy.
Sư Phụ giải thích:
Một vị Tăng hỏi: Thế nào là Phật lý?
Sư đáp: Ngươi, ta.
Sư Phụ giải thích: “ngươi và ta”, là những vị Phật tương lai, Đức Thế Tôn đã từng nói, Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành.
- Tánh của tâm là tánh của Như Lai Tạng tâm; tự tánh tâm thanh tịnh thì hạt giống Như Lai sẽ nẩy mầm và sanh trưởng tốt tươi. Đây là lời khai thị kỳ đặc của Thiền Sư Tịnh Giới, tất cả các pháp môn thiền, tịnh và mật ngày nay, tuy có khác nhau và pháp hành, nhưng mục tiêu duy nhất vẫn là nhắm vào chỗ khiến cho tâm thanh tịnh.
Đến ngày 7 tháng 7 niên hiệu Trị Bình Long Ứng thứ ba (1207), sắp tịch Sư nói kệ “Hãn Tri Âm”:
Thử thời thuyết đạo hãn tri âm,
Chỉ vị như tư tán đạo tâm.
Hề tợ Tử Kỳ đa sảng sấm,
Thính lai nhất đạt Bá Nha cầm.
HT Thích Thanh Từ dịch:
Thời nay giảng đạo hiếm tri âm,
Chỉ bởi vì người mất đạo tâm.
Nào giống Tử Kỳ nghe nhạc giỏi,
Nghe qua suốt cả Bá Nha cầm.
Bản dịch của Hoàng Trung Thông:
“Thời này bàn Đạo ít tri âm,
Vì Đạo ngày nay đã mất Tâm!
Ai giống Tử Kỳ nghe nhạc giỏi?
Bá Nha đàn thoảng, hiểu tình thâm”.
Bản dịch của Lương Trọng Nhàn:
“Nay bàn đạo ít tri âm,
Ngày nay đạo đã mất “tâm” trong đời.
Tử Kỳ biết nhạc ai người?
Bá Nha đàn gảy nghe thời hiểu ngay”.
Sư Phụ giải thích:
- lời tri âm của Sư nói lên nỗi buồn của Sư vì ngày nay nói đạo hiếm có người tri âm, là người hiểu tiếng lòng của Sư để tiến tu.
- Ngài Tịnh Giới cho ví dụ người hiểu lời Tâm Đạo của Sư hiếm có như Bá Nha gặp Tử Kỳ.
Sư Phụ giải thích ngài Bá Nha có tiếng đàn thần kỳ, một hôm Bá Nha trên du thuyền đàn khúc nhạc “Cao Sơn Lưu Thuỷ”. Bá Nha đang đàn thì bị đứt dây, ông biết là có người đang trộm nghe tiếng đàn. Bá Nha tìm biết được Tử Kỳ là một người tri thức biết cảm nhận tiếng đàn. Bá Nha và Tử Kỳ kết thâm giao và hẹn sẽ gặp lại nhau. Một năm sau, Bá Nha trở lại chốn cũ thì hay tin Tử Kỳ bệnh và ra đi. Bá Nha đến thăm mộ của Tử Kỳ, đàn cho người bạn tri âm nghe lần cuối cùng, rồi tự tay đập bể cây đàn vì ông cho rằng Tử Kỳ mất đi rồi trên đời này không còn có ai nghe và hiểu được tiếng đàn của ông. Thiền Sư Tịnh Giới mượn tích chuyện này để nhắc chúng đệ tử ngày nay “nghe được tiếng lòng của mình”, chỉ cho Phật tánh, chơn tâm của tự thân, quả ư là khó khăn, mỗi người phải tự cố gắng vậy.
Lại nói bài kệ “Thị Tịch”:
Thu lai lương khí sảng hung khâm,
Bát đấu tài cao đối nguyệt ngâm.
Kham tiếu thiền gia si độn khách,
Vi hà tương ngữ dĩ truyền tâm?
HT Thích Thanh Từ dịch:
“Thu về mát mẻ thích trong lòng,
Tám đấu tài cao hát thong dong.
Cửa thiền những thẹn người si độn,
Biết lấy câu gì để truyền tâm.
Nói kệ xong, Sư ngồi kiết-già thị tịch.
Sư Phụ giải thích:
- Thu về mát mẻ thích trong lòng,
Sư làm thơ tả mùa thu tỏ nổi lòng của mình.
- Tám đấu tài cao hát thong dong.
Sư Phụ giải thích: Thiền Sư Tịnh Giới câu thơ của Tạ Linh Vận nhắc về sự tích của nhà thơ lừng danh Tào Thực: Trong thiên hạ có mười Bồ thơ, Tào Thực chiếm hết tám phần. Tào Phi là anh của Tào Thực nghe lời sàm tấu của bọn nịnh thần là Tào Thực đang tìm cách cưới ngai vàng, nên Tào Thực vừa lên ngôi sau khi Tào Tháo băng hà, liền ra lệnh Tào Thực đi bảy bước phải làm một bài thơ thì mới tha tội chết. Tào Thực đi tới bước thứ tư, đọc ra bài thơ “Thất bộ thi”:
Chử đậu trì tác canh,
Lộc thị dĩ vi trấp,
Cơ tại phủ há nhiên.
Đậu tại phủ trung khấp,
Bản tự đồng căn sinh,
Tương tiễn hà thái cấp.
Dịch nghĩa
Đun đậu nấu làm canh,
Lọc đậu để lấy nước.
Cành đậu đốt ở dưới nồi,
Hạt đậu ở trong nồi khóc.
Vốn từ một gốc sinh ra,
Sao lại đốt nhau khốc liệt như vậy?
Ý thơ nồi đậu là nồi da xáo thịt khiến Tào Phi khóc, ân hận, tha tội chết cho em trai, không còn nghe lời ác độc của nịnh thần nữa.
Mời xem thêm tích truyện này: https://quangduc.com/a72171/ly-do-tao-phi-tha-mang-cho-tao-thuc-du-biet-day-la-1-moi-hoa
Cuối bài giảng, Sư Phụ diễn ngâm bài thơ tán thán công hạnh của Thiền Sư Tịnh Giới do Thượng Tọa Chúc Hiền sáng tán cúng dường Ngài:
Tánh tình thuần hậu nhỏ theo Nho
Bệnh nặng mộng thần mang thuốc cho
Tỉnh giấc bệnh lành xa cõi tục
Xuất gia tâm tốt lánh đời mơ
Viên Minh cổ tự ngời trăng sáng
Tịnh Giới thiền tăng sạch lối mờ
Bảo Giác minh sư trao ấn chứng
Quốc Thanh tịnh viện ứng thiền thơ
Thiền thơ thắp sáng rạng gương tâm
Tiếp độ môn sinh dậy pháp âm
Cửa đạo thanh bình soi ánh tuệ
Thiền môn hưng thạnh tỏa nguồn ân
Đêm ngày vững chãi vun bồi đức
Năm tháng tinh cần giáo hoá nhân
Bến giác rừng thiền hoa đạo nở
Một đời đạo nghiệp tỏa hương quang
Kính bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được Sư Phụ ban giảng về Thiền Sư Tịnh Giới. Sư đắc pháp với thiền sư Bảo Giác chỉ qua một câu nói, và trên bước giáo hóa độ sanh, Ngài cũng thủy chung với chủ trương của Tổ Sư Thiền, không dựa vào kinh sách xứa mà khai thị những chuyển ngữ để chỉ thẳng tâm người qua một câu đáp ngắn gọn và sâu sắc: “Phật lý là ngươi, ta”, tức là trong tâm ngươi và tâm ta đều có Như Lai Tạng, chứ “Phật lý” không nằm trong tàng Kinh cát, biết vậy để mà lo đào luyện, chăm sóc nội tâm mình cho đến ngày sạch sẽ hết phiền não nhiễm ô.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Cung kính và tri ơn Sư Phụ,
Đệ tử Quảng Tịnh Tâm
(Montréal, Canada).
Thiền Sư Tịnh Giới (? - 1207)
Đời thứ 10, Thiền Phái Vô Ngôn Thông (Vào thời Vua Lý Anh Tông)
Kính dâng Thầy bài trình pháp sau khi nghe một bài pháp thoại thật tuyệt vời . Kính bạch Thầy không thể diễn tả được sự cảm nhận của con vì bao nhiêu nghĩa lý được học hỏi từ Phật Giáo Nguyên Thủy nay song hành với những bài pháp thoại Tổ Sư Thiền mà lồng trong đó những điển tích được Thầy dẫn dụ đã giúp con như sống lại thời đại chánh pháp huy hoàng Và trong con sự học Đạo đã hoàn toàn đổi khác có lẽ do cơ phong giáo hoá của Thầy ? ...Kính đảnh lễ Thầy và kính tri ân Thầy, HH
Thật là một điều rất thú vị và kỳ diệu khi nghe xong bài pháp thoại rất tuyệt vời và truyền cảm đến tâm người nghe như một dấu ấn in đậm trong tâm thức khi đã nhận ra để phân biệt thế nào là người hiểu Đạo và người học Đạo .
Vì hầu hết người đọc đến hành trạng của Ngài, ai ai đều chú ý đến bài kệ thị tịch để kết luận rằng "thiền gia có dùng ngôn ngữ để truyền tâm chăng? "
(Đến ngày 7 tháng 7 niên hiệu Trị Bình Long Ứng thứ ba (1207), sắp tịch Sư nói kệ:
Thời nay giảng đạo hiếm tri âm,
Chỉ bởi vì người mất đạo tâm.
Nào giống Tử Kỳ nghe nhạc giỏi,
Nghe qua suốt cả Bá Nha cầm.
(Thử thời thuyết đạo hãn tri âm,
Chỉ vị như tư tán đạo tâm.
Hề tợ Tử Kỳ đa sảng sấm,
Thính lai nhất đạt Bá Nha cầm.)
Lại nói:
Thu về mát mẻ thích trong lòng,
Tám đấu tài cao hát thong dong.
Cửa thiền những thẹn người si độn,
Biết lấy câu gì để truyền tâm.
(Thu lai lương khí sảng hung khâm,
Bát đấu tài cao đối nguyệt ngâm.
Kham tiếu thiền gia si độn khách,
Vi hà tương ngữ dĩ truyền tâm?)
Nói kệ xong, Sư ngồi kiết già thị tịch."
Phải chăng " Thiền gia si độn khách” muốn ám chỉ những kẻ si độn trong làng thiền, vì đã đem ngôn ngữ để truyền tâm Khách si độn ở đây là những học tăng hay kẻ cầu đạo thuộc loại độn căn, hoặc do tham cứu chưa thấu đáo, thiếu tinh tấn, hoặc tâm thức đầy ắp những kiến thức sách vở, chỉ biết cầu tìm giác ngộ nơi bên ngoài.
Chính những khách si độn ấy đã luôn mong cầu chư vị thiền sư, những vị khai thị nên dùng ngôn ngữ để giảng giải: Thế nào là đạo? Thế nào là đại ý của Phật pháp? Thế nào là Tổ sư Tây lai ý? v.v…
Thế cho nên các nhà chú giải đều cùng nhau cho rằng Ngài đã dùng tích Bá Nha Tử Kỳ để nhấn mạnh đến vấn đề “truyền tâm” không phải truyền bằng ngôn ngữ, mà là lấy tâm truyền tâm, là “ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt” (đường ngôn ngữ [đã] đoạn, chỗ tâm hành [đã] diệt; tức siêu việt tư duy và thảo luận), là “trực hạ thừa đương” (nhìn ngay xuống là thấy; nói theo Thiền tông), là “bất khả tư nghì"
Riêng có một điều cũng thật lý thú đó là HT Thích Thanh Từ và Giảng Sư TT Thích Nguyên Tạng đồng nhắc lại tích truyện về Thất Bộ Thi của Tào Tử Kiên ( Tào Thực ) mà nhà văn Tạ Linh Vân đã dùng chữ Bát đấu trong câu thơ thứ hai của bài kệ thị tịch ( phần 2) để giúp học nhân nghe pháp biết được Thi vương Tử Kiên chỉ trong 4 phút đi 7 bước sáng tác một bài thơ điều xuất để thoát khỏi tội chết đồng thời nói lên cảnh nồi da xáo thịt ....
THẤT BỘ THI
Chử đậu trì tác canh,
Lộc thị dĩ vi trấp,
Cơ tại phủ há nhiên.
Đậu tại phủ trung khấp,
Bản tự đồng căn sinh,
Tương tiễn hà thái cấp.
Dịch nghĩa
Đun đậu nấu làm canh,
Lọc đậu để lấy nước.
Cành đậu đốt ở dưới nồi,
Hạt đậu ở trong nồi khóc.
Vốn từ một gốc sinh ra,
Sao lại đốt nhau khốc liệt như vậy?
Thật ra hầu hết hết các thiền sư đích thực xưa nay đều không hề phủ nhận khả năng dẫn dắt của ngôn ngữ. Bởi vì họ đều hiểu rõ ngôn ngữ là phương tiện của giao tiếp, phương tiện của giáo dục, phương tiện của trao truyền, của tham cứu…
Nhưng họ lại cũng hiểu rõ về giới hạn của ngôn ngữ, vì luôn tâm niệm đến lời cảnh báo trong kinh Viên Giác: Toàn bộ giáo pháp thông qua ngôn thuyết rốt cuộc chỉ là “Ngón tay ngôn giáo” chứ không phải là “Mặt trăng chân lý”. Nhờ “Ngón tay ngôn giáo” chúng ta nhìn thấy “Mặt trăng chân lý”, nhưng đừng lầm cho “Ngón tay ngôn giáo” là “Mặt trăng chân lý”. Vấn đề là như thế chứ không phải là “phủ nhận khả năng dẫn dắt của ngôn ngữ” !
Trộm nghĩ không hề có sự việc chư vị thiền sư dùng ngôn ngữ để truyền tâm cho đệ tử hoặc người cầu đạo. Vì thật sự thì không có gì để truyền cả.
Điều gọi là nối truyền ở đây chính là sự tu tập chứng ngộ Phật lý của những thế hệ người tu Phật trước sau (người trước chứng nhận cho người sau) để cho mạng mạch của Phật giáo được nối tiếp theo thời gian
Và Toàn bộ nghĩa lý ấy đã được Đức Phật dạy Trong bài kinh Sợ Hãi và khiếp đảm để giúp cho các vị Tỷ khưu dừng mọi sợ hãi , THeo đó Đức Phật dạy chỉ cần niệm nhớ Đức Phật và nếu quý vị không niệm nhớ đến Ta, hãy niệm nhớ đến Pháp: 'Đây là Pháp do Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, có quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, do người trí tự mình giác hiểu.'
Cái tuyệt vời của đạo Phật là mời chúng ta đến để mà thấy (ehi-passiko), chứ không phải đến để mà tin. Thực ra, tin tưởng không cần thiết một khi thấy rõ, biết rõ, và hiểu rõ.
Ngoài ra Cung kính tán thán và tri ân TT Giảng Sư đã quảng bác giải thích bài kệ của Thiền Sư Bảo Giác ( Sư Phụ ) khi truyền tâm ấn cho Thiền Sư Tịnh Giới để nhắc lại "Thế nào là Chân Như " sau khi nhắc lại Tổ Sư Vô Ngôn Thông triệt ngộ nhờ hội được yếu chỉ của Tổ Bách Trượng Hoài Hải qua TÂM ĐỊA NHƯỢC KHÔNG, TUỆ NHẬT TỰ CHIẾU "
( - Sanh già bệnh chết là việc thường của người đời, riêng ta há lại khỏi sao?
Sư liền hỏi:- Ngày nay Tôn đức thế nào ?
Bảo Giác cười nói kệ:
Muôn pháp về không không thể nương,
Chân như lặng lẽ hiện tỏ tường,
Thấu tột nguồn tâm không chỗ chỉ,
Nước tâm bóng nguyệt bặt nghĩ lường.
(Vạn pháp qui không vô khả y,
Qui tịch chân như mục tiền ky,
Đạt ngộ tâm viên vô sở chỉ,
Thủy tâm thủy nguyệt dẫn tâm nghì.)
Nói kệ xong, Bảo Giác truyền tâm ấn cho Sư.)
Theo đó Chân Như ( tathata ) được định nghĩa tổng quát, là thực tại “bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm”, nghĩa là thực tại nguyên sơ và tối hậu từ đó tất cả mọi thế giới hiện tượng sinh ra.
Luận Đại Thừa Khởi Tín thì Chân Như là: Tâm Chân Như (đối lại với tâm sinh diệt), Pháp tánh Chân Như, Như Lai tạng, Nhất Tâm, Thể Đại tổng tướng của Nhất Pháp giới, tánh Không, Pháp thân, Bản giác, Cứu cánh giác, cái gương như hư không, tánh giác, Tâm, Pháp giới tánh, Phật Tánh , Thể Tánh Tịnh Minh
Đặc biệt hơn Giảng Sư nhấn mạnh đến chữ Nước của thể tâm và Nguồn Tâm lại được xuất phát trong kho dung chứa chủng tử A lại Da . Và giáo pháp Như Lai không được gọi là học thuyết vì Chân Như trên bình diện tư tưởng và khái niệm -thì nó là một học thuyết (chân lý tương đối, tục đế). Còn ngày nào chúng ta thật sự thể nghiệm được Chân Như thì đó không còn là một học thuyết, một ngón tay chỉ mặt trăng, mà đó chính là chân lý tuyệt đối, chân đế, là chính mặt trăng.
Đó là vì sao mà giáo lý Đức Phật chỉ dành cho người trí Thánh-nhân đã chứng đắc rồi, tự mình biết rõ, tự mình nhập Thánh-quả hưởng an-lạc Niết-bàn tịch tịnh.(Paccattaṃ veditabbo viññūhi dhammo)
Kính trân trọng
Kính ngưỡng Thiền Sư Tịnh Giới hành trạng xuất thế
Hàn vi, thuần hậu thuở nhỏ học Đạo Nho (1)
Túc duyên ..mộng được tiên chữa bịnh ...Phước to(2)
Lại xuất gia với bậc thầy ẩn danh kỳ túc
Đạo hiệu Tịnh Giới ....chuyên học về Tạng Luật ? (3)
Chùa làng Lãng Sơn tự tu học bảy năm
Sau gặp minh sư Bảo Giác ấn chứng truyền tâm (4)
Trước giờ thị tịch còn dạy lẽ vô thường sinh tử (5)
Sáu năm hạnh đầu đà trú trì Quốc Thanh, An Phủ
Thu nhận môn đồ giảng dạy giúp nhận ra
Thế nào là Phật lý ? Đáp : Người , ta !
Lời Sư Phụ áp dụng trong cơ phong Giáo hoá (6)
Kính đa tạ Giảng Sư ...nghĩa Chân Như vi diệu quá (7)
Toàn giáo lý Thế tôn trong ân đức Pháp Bảo đó mà (8)
Nhiều tích chuyện trong kệ thị tịch ..thuở lâu xa (9)
Như chữ Bát Đấu ...ca ngợi tác giả bài thơ "Bảy Bước "(10)
Học giả trên thi đàn bàn về Bá Nha Tử Kỳ ngày trước (11)
Ít người cảm thông....điều mong ước của Thiền Sư
Khó dùng ngôn ngữ chỉ ....thể tánh DIỆU, NHƯ
Hội được yếu chỉ phải ...tự mình Thực tu, Thực chứng !
Nam Mô Thiền Sư Tịnh Giới tác đại chứng minh .
Huệ Hương
Chú thích :
(1)
Sư tên Chu Hải Ngung, quê làng Giang Mão. Xuất thân trong gia đình hàn vi, nhưng tánh tình Sư rất thuần hậu, lúc nhỏ theo học Nho.
(2)
Đến năm 26 tuổi, Sư mang bệnh nặng, mộng thấy thần nhân cho thuốc. Tỉnh giấc, bệnh được lành, Sư bèn quyết chí xuất gia.
(3)
, Sư bèn quyết chí xuất gia. Theo một vị kỳ túc trong làng, Sư được thọ giới cụ túc và chuyên nghiên cứu về Luật tạng.
(4)
Nghe ở vùng Lãng Sơn thanh u vắng vẻ, tiện cho sự tu học, Sư chống gậy đi về phương đông. Trải qua bảy năm tham học, Sư gặp được Thiền sư Bảo Giác ở chùa Viên Minh, qua một câu nói, Sư liền khế hội.
(5)
Khoảng niên hiệu Chính Long Bảo Ứng (1163-1173), lúc Thiền sư Bảo Giác sắp tịch có nói:
- Sanh già bệnh chết là việc thường của người đời, riêng ta há lại khỏi sao?
Sư liền hỏi:- Ngày nay Tôn đức thế nào ?
Bảo Giác cười nói kệ:
Muôn pháp về không không thể nương,
Chân như lặng lẽ hiện tỏ tường,
Thấu tột nguồn tâm không chỗ chỉ,
Nước tâm bóng nguyệt bặt nghĩ lường.
(Vạn pháp qui không vô khả y,
Qui tịch chân như mục tiền ky,
Đạt ngộ tâm viên vô sở chỉ,
Thủy tâm thủy nguyệt dẫn tâm nghì.)
Nói kệ xong, Bảo Giác truyền tâm ấn cho Sư.
(6)
Từ đây, tùy phương giáo hóa, dần dần đến chùa Quốc Thanh trên núi Linh Bí ở An Phủ, Sư bèn dừng lại trụ trì. Sư ở đây cấm túc sáu năm chuyên tu hạnh đầu-đà.
Quan Châu mục tên Phạm Từ nghe danh đức rất quí mến, đến ra mắt và kính lễ, ông phát tâm thỉnh Sư đúc hồng chung để tại sơn môn.
Sau, Sư trở về làng cũ trùng tu lại ngôi chùa Quảng Thánh và quyên tiền đúc chuông, mua trống, dựng bia.
Sư trụ luôn ở đây thu nhận môn đồ giáo hóa.
Có vị tăng hỏi:- Thế nào là Phật lý ?
Sư đáp:- Ngươi, ta.
(7) Sư thường bảo:
- Tánh của tâm chính là tánh của Như Lai tạng tâm. Thế nên tự tánh tâm thanh tịnh vậy.
Theo đó Chân Như ( tathata ) được định nghĩa tổng quát, là thực tại “bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm”, nghĩa là thực tại nguyên sơ và tối hậu từ đó tất cả mọi thế giới hiện tượng sinh ra.
một số từ ngữ trong Luận Đại Thừa Khởi Tín thì Chân Như là: Tâm Chân Như (đối lại với tâm sinh diệt), Pháp tánh Chân Như, Như Lai tạng, Nhất Tâm, Thể Đại tổng tướng của Nhất Pháp giới, tánh Không, Pháp thân, Bản giác, Cứu cánh giác, cái gương như hư không, tánh giác, Tâm, Pháp giới tánh, Phật Tánh ,
Và giáo pháp Như Lai không được gọi là học thuyết vì Chân Như trên bình diện tư tưởng và khái niệm -thì nó là một học thuyết (chân lý tương đối, tục đế). Còn ngày nào chúng ta thật sự thể nghiệm được Chân Như thì đó không còn là một học thuyết, một ngón tay chỉ mặt trăng, mà đó chính là chân lý tuyệt đối, chân đế, là chính mặt trăng.
(8)
Hãy niệm nhớ đến Pháp: 'Đây là Pháp do Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, có quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, do người trí tự mình giác hiểu.'
lời cảnh báo trong kinh Viên Giác: Toàn bộ giáo pháp thông qua ngôn thuyết rốt cuộc chỉ là “Ngón tay ngôn giáo” chứ không phải là “Mặt trăng chân lý”. Nhờ “Ngón tay ngôn giáo” chúng ta nhìn thấy “Mặt trăng chân lý”, nhưng đừng lầm cho “Ngón tay ngôn giáo” là “Mặt trăng chân lý”. Vấn đề là như thế chứ không phải là “phủ nhận khả năng dẫn dắt của ngôn ngữ
(9) Đến ngày 7 tháng 7 niên hiệu Trị Bình Long Ứng thứ ba (1207), sắp tịch Sư nói kệ:
Thời nay giảng đạo hiếm tri âm,
Chỉ bởi vì người mất đạo tâm.
Nào giống Tử Kỳ nghe nhạc giỏi,
Nghe qua suốt cả Bá Nha cầm.
(Thử thời thuyết đạo hãn tri âm,
Chỉ vị như tư tán đạo tâm.
Hề tợ Tử Kỳ đa sảng sấm,
Thính lai nhất đạt Bá Nha cầm.)
Lại nói:
Thu về mát mẻ thích trong lòng,
Tám đấu tài cao hát thong dong.
Cửa thiền những thẹn người si độn,
Biết lấy câu gì để truyền tâm.
(Thu lai lương khí sảng hung khâm,
Bát đấu tài cao đối nguyệt ngâm.
Kham tiếu thiền gia si độn khách,
Vi hà tương ngữ dĩ truyền tâm?)
Nói kệ xong, Sư ngồi kiết già thị tịch.
(10) Nhà thơ Tạ Linh Vân muốn ám chỉ tài làm thơ của Tào Tử Kiên ( Tào Thực) nên thường cho rằng trong Thơ văn thế gian bao gồm 10 đấu , riêng Tử kiên chiếm hết 8 đấu rồi , riêng ông chiếm trọn một đấu rồi chỉ còn lại một đấu cho mọi người khác mà thôi
Tích truyện về Tào Thực
Khi Tào Tháo bệnh qua đời ở tuổi 66, thế tử Tào Phi kế thừa trở thành Ngụy Vương. Tháng 10 cùng năm, Tào Phi ép Hán Hiến Đế nhường ngôi, trở thành Ngụy Văn Đế. Vì đã trải qua giai đoạn tranh ngôi thế tử, nên dù đã lên ngôi hoàng đế, Tào Phi vẫn cảnh giác cao độ với các em, đặc biệt là với Tào Thực.[1] Ông lo lắng rằng người em uyên bác và có tham vọng chính trị này sẽ đe dọa ngai vàng của mình, nên đã nghĩ ra biện pháp để loại bỏ Tào Thực. Tào Phi yêu cầu em trai trong vòng bảy bước phải đọc một bài thơ, nội dung phải chứa đựng ý nghĩa của anh em nhưng không được phép sử dụng hai chữ này trong thơ, nếu không làm được sẽ bị chém đầu. Dù biết anh trai có chủ tâm muốn hãm hại mình, nhưng do không có cách nào để giải nguy, nên Tào Thực đã ứng khẩu một bài thơ trong vòng bảy bước
Thế thuyết tân ngữ chép rằng, "Văn Đế (Tào Phi) lệnh cho Đông A vương (Tào Thực) nội trong bảy bước phải làm một bài thơ, nếu không sẽ thi hành đại pháp (tử hình). [Tào Thực] liền ứng khẩu thành thơ […] Văn Đế tràn đầy nét hổ thẹn."
Đun đậu để làm canh,
Lọc đậu để lấy nước,
Cành đậu đốt dưới nồi.
Hạt đậu trong nồi khóc,
Vốn sinh từ một gốc,
Sao đốt nhau khốc liệt vậy
(11)
Câu chuyện Bá Nha gặp Tử Kỳ bắt đầu khi ông đang trên thuyền ở cửa sông Hán Dương, sau khi phụng chỉ vua Tấn đi sứ nước Sở trở về. Nhân lúc đêm Trung Thu trăng sáng, phong cảnh hữu tình, Bá Nha đặt hết tâm hồn đàn một khúc nhạc trầm bổng réo rắt. Tuy nhiên, khúc nhạc chưa dứt thì bỗng đàn đứt dây. Bá Nha giật mình tự nghĩ, hẳn là có người nào đang nghe lén tiếng đàn, bèn chuẩn bị cho quân lính lên bờ tìm hiểu.
Lúc này, trên bờ mới vọng lên tiếng nói của một gã tiều phu trấn an và ngợi ca tiếng đàn của người trên thuyền. Đó chính là Tử Kỳ. Đôi bên đối đáp không lâu thì Bá Nha nhận ra, Tử Kỳ tuy thân phận thấp hèn, nhưng lại có thể hiểu thấu tiếng đàn của ông. Bá Nha sinh lòng kính phục, mời Tử Kỳ lên thuyền đàm đạo.
Ngồi đàm đạo không lâu, Bá Nha lại thử tài Tử Kỳ một lần nữa. Ông nối lại dây đàn, tập trung đến chốn non cao, đánh lên một khúc, Tử Kỳ khen rằng: “Thiện tại hồ cổ cầm, nguy nguy hồ nhược Thái Sơn” (Nghĩa là: Đánh đàn hay thay, vời vợi tựa Thái Sơn). Bá Nha ngưng thần, ý tại lưu thủy, khảy lên một khúc nữa, Tử Kỳ lại khen rằng “Đăng đăng hồ nhược lưu thủy” (Nghĩa là: Cuồn cuộn như nước chảy).
Sung sướng vì tìm được tri âm, Bá Nha sai người bày tiệc đối ẩm, rồi sau đó lại kết nghĩa anh em với Tử Kỳ. Cả hai hẹn ước vào ngày Trung thu năm sau sẽ lại gặp nhau ở ghềnh đá chân núi Mã Yên…
Tuy nhiên, trời không chiều lòng người, Tử Kỳ qua đời trước dịp hẹn ước. Tuy nhiên, ông chưa bao giờ quên lời hứa với người anh em kết nghĩa của mình. Tử Kỳ di ngôn lại rằng xin được mai táng ở chân núi Mã Yên để hoàn thành lời hẹn ước với Bá Nha.
Ngày hẹn ước, Bá Nha tìm đến nơi thì nghe được tin dữ. Ông đau lòng đến viếng Tử Kỳ, và sau đó sai người mang cây Dao cầm tới, dốc hết tâm lực đàn khúc “Thiên thu trường hận“. Tấu xong khúc nhạc, Bá Nha vái cây Dao cầm một vái, đoạn tay nâng đàn lên cao, đập mạnh vào phiến đá trước mộ Tử Kỳ. Dao cầm vỡ tan, trục ngọc phím đồng rơi lả tả.
Sau đó Bá Nha ngâm bốn câu thơ nói rằng:
Dao cầm đập nát đau lòng phượng,
Đàn vắng Tử Kỳ, đàn với ai?
Gió Xuân khắp mặt bao bè bạn,
Muốn kiếm tri âm, ôi khó thay!
Thời Tiên Tần là giai đoạn bách gia tranh minh, nhân tài rất nhiều. Rất nhiều kẻ sĩ thời đó quan niệm rất đơn giản, hoàn toàn không nhất thiết phải trung thành với nước chư hầu mình sinh sống. Việc lưu động kẻ sĩ giữa các nước nhiều không kể xiết, họ luôn mong ngóng tìm được sự tri ngộ, tri âm. Đó cũng chính là mơ ước chung suốt mấy ngàn năm của người đọc sách. Nhưng mà có thế đạt được mục tiêu ấy có mấy người? Khúc “Cao sơn lưu thủy” được người đời sau coi trọng như vậy, là vì đằng sau nó còn ẩn chứa cả một câu chuyện về cuộc gặp gỡ kỳ diệu và cảm động giữa hai con người tri kỷ, Bá Nha và Tử Kỳ.
Kính mời nghe nhạc phẩm năm: Cao sơn lưu thủy (項斯華古箏獨奏:高山流水 Traditional GuZheng music: High Mountain and Running River)
🙏🙏🙏🌹🥀🌷🍀🌷🌸🏵️🌻🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️