Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

303. Thiền Sư Trí Bảo (? - 1190) (Đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông) Đời thứ 10, Thiền Phái Vô Ngôn Thông 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀

28/10/202109:16(Xem: 26177)
303. Thiền Sư Trí Bảo (? - 1190) (Đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông) Đời thứ 10, Thiền Phái Vô Ngôn Thông 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀

 
Thiền Sư Trí Bảo (? - 1190)
Đời thứ 10, Thiền Phái Vô Ngôn Thông
(Vào thời Vua Lý Anh Tông & Lý Cao Tông)

🙏🙏🙏🌹🥀🌷🍀🌷🌸🏵️🌻🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️


Thuyết giảng: TT Thích Nguyên Tạng
Bài trình pháp: Cư Sĩ Quảng Tịnh Tâm & Cư Sĩ Huệ Hương
Diễn đọc: Cư Sĩ Diệu Danh ; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước-Quảng Tịnh



Nam Mô A Di Đà Phật

 

Kính bạch Sư Phụ, hôm nay Thứ Năm, 28/10/2021 (23/09/Tân Sửu)chúng con được học về Thiền Sư Trí Bảo (? - 1190) đời thứ 10, Thiền Phái Vô Ngôn Thông. Sư phụ dựa theo tài liệu gốc Thiền Sư Việt Nam do HT Thích Thanh Từ biên soạn và ấn hành tại VN vào năm 1972. Pháp thoại hôm nay là bài giảng thứ 303 của Sư Phụ bắt đầu từ mùa cách ly do bệnh đại dịch covid 19 (đầu tháng 5-2020).

 

 

Sư họ Nguyễn, quê ở Ô Diên, Vĩnh Khương, là cậu ruột Tô Hiến Thành, một đại công thần đời Lý Anh Tông.

Sư xuất gia vào tu ở chùa Thanh Tước trên núi Du Hý làng Cát Lợi, đất Thường Lạc. Thường ngày mặc áo vá ăn cơm hẩm, cả mười năm không đổi chiếc áo, đến ba ngày chẳng thổi lửa nấu cơm, tay chân chai cóp, thân thể khô khan. Thấy có người đến thì khoanh tay đứng nép một bên, gặp bậc Sa-môn thì quì gối lễ bái. Sư chuyên tu như vậy đến sáu năm mới xuống núi.

 

Sư Phụ giải thích:

- Thiền Sư Trí Bảo là đệ tử thứ sáu, cuối cùng của Thiền Sư Đạo Huệ: thiền sư Tịnh Không, thiền sư Đại Xả, thiền sư Tín Học, thiền sư Trường Nguyên, và thiền sư Tịnh Lực.

Thiền sư Trí Bảo không được biết năm sanh, Ngài viên tịch năm 1190 Tây lịch, cách nay 831 năm.

- Ngài là cậu của Thái úyTô Hiến Thành, là một quan đại thần nổi tiếng quang minh chính đại, làm nhiếp chính cho vua Lý Cao Tông khi vua mới đăng cơ lúc 3 tuổi.

- Sư xuất gia ở chùa Thanh Tước, trên núi Du Hý, không biết Sư Phụ của Sư là ai. 

Sư Phụ cho biết Chùa Thanh Tước thuộc xã Thanh Tước, xã Thanh Lâm, huyện Mê Linh, vốn xưa thuộc tổng Thanh Lâm, phủ Yên lãng, tỉnh Phúc Yên. Từ năm 1960 đổi xã Thanh Lâm thuộc huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phú, cách thủ đô Hà Nội 29km. Làng Thanh Tước vẫn còn có đền thờ thái uý Tô Hiến Thành.

Thiền Sư Trí Bảo sống cuộc đời đạm bạc, chỉ mặc một chiếc áo trong suốt  mười năm, ăn cơm hẩm nên cơ thể của Sư khô khan. Dạ bạch Sư Phụ, hẳn có Long thần Hộ pháp gia hộ cho người chân tu, phạm hạnh, nên Sư ăn cơm hẩm mà không bị bệnh ròng rã suốt sáu năm.

 

 Xuống núi, Sư chuyên tạo phước nào sửa đường, bắc cầu, cất chùa, xây tháp, tùy duyên khuyến khích người, không vì lợi dưỡng.

 

Chợt gặp một vị Tăng hỏi:

- Sanh từ đâu lại, tử đi về đâu?

Sư liền suy nghĩ. Vị Tăng ấy bảo:

- Trong lúc ông suy nghĩ, mây trắng bay ngàn dặm.

Sư không đáp được. Vị Tăng ấy quát:

- Chùa tốt mà không có Phật.

Nói rồi bèn bỏ đi. Sư tự than rằng:

- Ta tuy có tâm xuất gia, nhưng chưa được yếu chỉ của người xuất gia, ví như kẻ đào giếng, dù đào đến chín, mười thước mà chưa có nước, vẫn phải bỏ đi. Huống là, tu thân mà chẳng ngộ đạo thì có ích gì?

 

Sư Phụ giải thích:

- Sau sáu năm khổ hạnh, Sư xuống núi làm công việc tạo phước, sửa đường, bắc cầu, cất chùa…không vì lợi dưỡng cho bản thân, nhưng không giúp Sư đạt tới rốt ráo trên đường tu, khi gặp bậc cao tăng hỏi một câu, ngài không biết đường trả lời, nhưng đó chính là một ngả rẽ của đời ngài. Vị tăng hỏi:

- Sanh từ đâu lại , tử đi về đâu?

Sư suy nghĩ nên bị vị Tăng quở “ông suy nghĩ thì mây trắng đã bay xa ngàn dặm rồi”. Vì suy nghĩ là dấu hiệu của vọng tưởng điên đảo, bặt dứt suy nghĩ mà rõ biết câu hỏi đó chính là chơn tâm, Phật tánh; câu trả lời đúng không xuất phát từ suy nghĩ mà lưu xuất từ chơn tâm. Nên ngài bị vị cao tăng chê trách “ Chùa tốt mà không có Phật”.

Sư Phụ giải thích ý của vị tăng bảo “Chùa tốt mà không có Phật”, Phật ở đây là chỉ cho chơn tâm, Phật tánh của ngài, ngài chưa nhận ra, dù bản thân Sư lâu nay tu khổ hạnh đầu đà, không dám ăn, không dám mặc, rồi 6 năm làm phước đắp đường, xây cầu….nhưng đó  chỉ là hình tướng bên ngoài, là phước hữu lậu, không dính dáng gì đến con đường giải thoát giác ngộ.

 

Từ đây, Sư dạo khắp bốn phương tham tìm bậc thiện tri thức. Nghe Thiền sư Đạo Huệ giáo hóa ở Tiên Du, Sư liền đến đó.

Sư hỏi Đạo Huệ:

- Sanh từ đâu lại, tử đi về đâu?

Đạo Huệ bảo:

- Sanh không từ đâu lại, tử chẳng đi về đâu.

Sư thưa:

- Thế ấy, đâu chẳng rơi vào chỗ không sao?

Đạo Huệ bảo:

- Chân tánh diệu viên, thể tự không tịch, vận dụng tự tại, chẳng đồng với sanh tử. Thế nên, sanh không từ đâu đến, tử chẳng đi về đâu.

Ngay câu nói này, Sư liền lãnh ngộ, nói:

- Chẳng nhân gió cuốn mây trôi hết,
  Đâu thấy trời trong muôn dặm thu.

  (Bất nhân phong quyển phù vân tận,
  Tranh kiến thanh thiên vạn lý thu.)

 

Sư Phụ giải thích:

- Sau khi được vị tăng khai thị câu “chùa tốt mà không có Phật “ . Sư quyết định vứt bỏ tất cả gì Sư đang làm hiện tại, làm Phước, xây cầu, đắp đường…là phước hữu lậu, là danh lợi phù phiếm của thế gian, Sư lên đường tầm sư học đạo. Cuối cùng ngài đến đảnh lễ cầu pháp với Thiền Sư Đạo Huệ, ngài hỏi TS Đạo Huệ câu hỏi này “ sanh từ đâu đến, tử đi về đâu”.

TS Đạo Huệ bảo: “ Sanh không từ đâu lại, tử chẳng đi về đâu”.

Đây là câu hỏi lớn của tất cả chúng sanh mà chính Đức Thế Tôn đã trả lời cho câu hỏi này trong đêm thành đạo, ngày mùng 8 tháng chạo vào năm 589 trước Tây lịch, cách nay 2610 năm.

* canh 1, Ngài chứng Túc mạng minh, Ngài thấy rõ tất cả kiếp quá khứ ( Sư Phụ nhắc xem trong kinh Bổn Sanh, kể chuyện tiền thân của Đức Thế Tôn)

* canh 2, Ngài chứng Thiên nhãn minh, Ngài thấy hành tướng của tất cả chúng sanh từ lúc sanh đến lúc tử  và đi về đâu trong sáu nẻo luân hồi, như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngả tư đường thấy người đi tới lui. (xem kinh Bổn Sự, kể chuyện tiền thân của chúng đệ tử)

* canh 3, Ngài chứng Lậu tận minh, đoạn trừ sạch sẽ phiền não vô minh lậu hoặc. Sư phụ cắt nghĩa chữ Lậu có nghĩa rỉ, chảy. Người chưa đoạn tận lậu hoặc giống như thùng bị lủng, không dung chứa được thứ gì.

 

Sư Phụ giải thích câu trả lời của thiền sư Đạo Huệ “sanh không từ đâu đến, chết không đi về đâu” :

- câu sanh không từ đâu đến, chết không đi về đâu, là câu cốt tủy của kinh Kim Cang: “ Như Lai giả, vô sở tùng lai--Diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai”, có nghĩa là “Như Lai, không từ đâu đến Cũng không đi đâu, nên gọi Như Lai”. Vì sao ? vì còn đến, còn đi là còn đối đãi. Không đến không đi là vượt qua đối đãi, trong cái thấy chỉ là cái thấy, không bị thành kiến về quá khứ chi phối,  là vào cửa bất nhị, là Niết Bàn, là tự thể lặng lẽ, rõ biết hiện tiền, ngay bây giờ và tại đây.

 

Ngay sau khi được nghe ngài Đạo Huệ khai thị, “sanh không từ đâu đến, tử không đi về đâu “, chân tánh diệu viên, thể tự không tịch, tự tại dung thông. Sư liền liễu ngộ và nói:

“Chẳng nhân gió cuốn mây trôi hết

Đâu thấy trời trong muôn dặm thu”.

Sư tán dương công ơn khai thị đạo mầu của Sư phụ Đạo Huệ, nếu không nhờ ngọn gió lành của sư phụ Đạo Huệ thổi hết những đám mây mù vô minh này của ngài không thể nhận ra được Phật tánh “trời trong xanh muôn dặm”  hằng có bên trong của Sư từ muôn thuở.

 

TS Đạo Huệ hỏi:

- Ngươi thấy cái gì?

Sư thưa:

- Biết nhau khắp thiên hạ,
  Tri âm có mấy người.

  (Tương thức mãn thiên hạ,
  Tri âm năng kỉ nhân.)

Sư bèn từ tạ trở về núi.

 

Sư Phụ giải thích:

Ngài Trí Bảo dứt khoát xác nhận cái thấy rốt ráo của bản thân là  đồng với cái thấy của Sư Phụ, nên mới dám nói “tri âm có mấy người”,  và được Sư phụ ấn chứng, tâm ấn tâm kỳ diệu giữa sư phụ Đạo Huệ và đệ tử Trí Bảo đã diễn ra trong phút giây thiêng liêng đó.

 

 

 Từ đây, Sư nói ngang nói dọc, như chọi đá nháng lửa. Một hôm, Sư thăng đường, tăng tục vây quanh, có người hỏi:

- Thế nào là tri túc?

Sư đáp:

- Phàm người xuất gia và tại gia đều phải biết tri túc. Nếu người biết tri túc thì ngoài chẳng lấn người, trong không tổn mình. Vật nhỏ nhít như rau cỏ, người không cho, mình chẳng nên lấy. Huống là, những vật lớn khác thuộc của người, khởi tưởng là vật của người, trọn không do đây mà sanh tâm trộm cắp. Cho đến, thê thiếp của người, khởi tưởng là thê thiếp người, cũng không do đây mà sanh tâm dâm. Các ngươi nghe ta nói kệ:

Của dùng Bồ-tát biết vừa đủ,
Đối người thương xót chẳng lấn tham.
Vật mọn không cho ta chẳng lấy,
Chẳng quản của người đức ngọc lành.
Bồ-tát vợ nhà còn biết đủ,
Tại sao vợ người lại khởi tham?
Thê thiếp của người người bảo hộ,
Đâu nỡ lòng mình khởi vạy tà.


(Bồ-tát tư tài tri chỉ túc,

Ư tha từ bi bất dâm dục.
Thảo diệp bất dữ ngã bất thủ,
Bất tưởng tha vật đức như ngọc. Dạ 
Bồ-tát tự thê phương tri túc,
Như hà tha thê khởi tham dục?
Ư tha thê, thiếp, tha sở hộ,
An nhẫn tự tâm khởi tâm khúc.)

 

Sư Phụ giải thích:

- Sư nói ngang nói dọc như chọi đá nháng lửa, có ý là khi Sư trở về núi, giáo hoá chúng sanh, khai thị giúp chúng đệ tử tự nhận ra được căn cơ mà ngộ đạo.

 

Đến ngày 14 tháng 4 năm thứ năm niên hiệu Thiên Tư Gia Thụy (1190) đời Lý Cao Tông, Sư cáo bệnh và thị tịch. Đệ tử làm lễ hỏa táng, thu linh cốt, xây tháp thờ tại sơn môn.

 

Cuối bài giảng, Sư Phụ diễn ngâm bài thơ tán thán công hạnh của Thiền Sư Trí Bảo do Thượng Tọa Chúc Hiền sáng tán cúng dường Ngài:

 

Thanh Tước già lam hướng đạo thiền
Xuất gia tu học hạnh tinh chuyên
Áo thô thường mặc không thay đổi
Cơm hẩm hằng dùng chẳng ngại phiền
Thân thể ốm o tâm vững chãi
Tay chân chai cóp chí trung chuyên
Tạo phước bắt cầu xây tháp viện
Nương nhờ Đạo Huệ mở cơ huyền

Cơ huyền tỏa sáng hướng sơn lâm
Hoằng pháp độ sanh xiễn diệu tâm
Tri túc an tường thân nhẹ khoẻ
Tinh cần tĩnh tại trí thanh trong
Thương người chỉ dạy nuôi âm đức
Giúp vật tu trì dưỡng nghĩa ân
Pháp hoá châu viên truyền kệ diệu
Thâu thần viên tịch rạng chân tăng

 

Kính bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được Sư Phụ ban giảng về Thiền Sư Trí Bảo. Sư xuất gia không rõ Sư Phụ là ai, hành trình tu tập của Sư rất chông gai trải qua ba giai đoạn:

1- sau khi xuất gia, Sư tu ở chùa Thanh Tước trên núi Du Hý ròng rã 6 năm, chỉ mặc một cái áo, ăn cơm hẩm.

2- sau 6 năm, Sư xuống núi Tu Phước, làm đường, xây cầu…

3- tâm tu chí thành của Sư khiến Sư được một vị tăng khai ngộ và hỏi “sanh từ đâu đến, tử đi về đâu “, Sư không trả lời được, vị tăng khai thị nói tiếp “chùa tốt không có Phật “ Sư liền từ bỏ việc làm Phước và đến tu học với thiền sư Đạo Huệ và được Ngài Đạo Huệ khai sáng đạo mầu “Chân tánh diệu viên, thể tự không tịch, vận dụng tự tại, chẳng đồng với sanh tử” và Sư đã giác ngộ, giải thoát.

  

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

 

Cung kính và tri ơn Sư Phụ,

Đệ tử Quảng Tịnh Tâm

(Montréal, Canada).

 




303_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Tri Bao




Thiền Sư Trí Bảo (? - 1190)
Đời thứ 10, Thiền Phái Vô Ngôn Thông
(Vào thời Vua Lý Anh Tông & Lý Cao Tông)



Kính dâng Thầy bài viết về Thiền Sư Trí Bảo qua pháp thoại tuyệt vời vừa sâu sắc vừa súc tích về Chân Tánh và Thiểu dục Tri túc . Kính bạch Thầy thật là một sự trùng hợp đại thượng duyên khi học đến bài kinh Đại Sư Tử Hống mà Đức Phật thuyết về Thập Như Lai Lực của một vị Phật ( đấng Chánh Đẳng Chánh Giác ) và hôm nay Thầy nhắc đến Lậu tận minh khi giảng về yếu nghĩa lời kinh cốt tủy trong kinh Kim Cang



Như Lai giả, vô sở tùng lai

Diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai

(Như Lai ấy, không từ đâu đến

Cũng không đi đâu, nên gọi Như Lai

Kính đảnh lễ Thầy và kính chúc sức khỏe Thầy , HH

Mỗi một đệ tử đắc pháp của Thiền Sư Đạo Huệ đều có những đặc điểm độc đáo mà người Tu cần phải học .

Thiền Sư Trí Bảo là một trong sáu đệ tử đắc pháp với Ngài Đạo Huệ : Tịnh Không , Đại Xả, Tín Học , Trường Nguyên, Tịnh Lực và Ngài

Qua hành trạng được ghi nhận lại chúng ta tán dương sức dõng mãnh kiên cường của Ngài đã từ bỏ phù du danh lợi uy tín... mà chỉ hướng về chí nguyện tối cao của người xuất gia chân chánh : tìm được chân tánh , giải thoát

Vì là cậu ruột của Thái Uý Tô Hiến Thành hẳn nhiên Đạo Nho (Khổng Tử) thời ấy đã ảnh hưởng không ít đến tư tưởng nhân sinh nhưng lạ thay khi xuất gia Ngài đã phạm hạnh sống đời thiểu dục tri túc và áp dụng lời dạy của Đức Phật, Lão Tử trong nhiều năm khi chưa ngộ đạo Và điểm tuyệt vời khi đã được truyền tâm ấn , điều này lại một lần nữa nói lên phạm hạnh cao quý của một bậc chân tu . khi được tăng sinh hỏi đến về Tri túc.

Chúng ta nhờ bài kệ của Ngài

(Bồ-tát tư tài tri chỉ túc,

Ư tha từ bi bất dâm dục.

Thảo diệp bất dữ ngã bất thủ,

Bất tưởng tha vật đức như ngọc.

Bồ-tát tự thê phương tri túc,

Như hà tha thê khởi tham dục ?

Ư tha thê, thiếp, tha sở hộ,

An nhẫn tự tâm khởi tâm khúc.)

HT Thích Thanh Từ dịch :

Của dùng Bồ-tát biết vừa đủ,

Đối người thương xót chẳng lấn tham.

Vật mọn không cho ta chẳng lấy,

Chẳng quản của người đức ngọc lành.

Bồ-tát vợ nhà còn biết đủo,

Tại sao vợ người lại khởi tham ?

Thê thiếp của người người bảo hộ,

Đâu nỡ lòng mình khởi vạy tà.

mà tìm về lại những lời dạy của Đức Thế Tôn trong Kinh Di Giáo cũng như những lời dạy của Lão Tử để đoạn trừ lòng tham, mưu sinh bất chính.

Nhờ đó đã biết rằng :

Khi trong tâm bị câu thúc quá nhiều, quá mạnh bởi ham muốn, con người dễ bất chấ đạo lý, đang tâm thực hiện mọi mánh khóe thủ đoạn để đạt cho bằng được cái điều ham muốn ấy.

Do đó, khi một người biết đủ, ít ham muốn thì ngay những nhu cầu, khát vọng chính đáng cũng không thể làm vẩn đục cái tâm trong sáng, lành mạnh, bình lặng của người ấy thì làm sao có sự tham lam hiện hữu trong cái tâm ấy được.

Hơn nữa, nhờ Thiểu dục và Tri túc mà gia đình, xã hội được an vui, hòa bình, không còn ai giành giật của cải, danh vọng, miếng ngon, vật lạ của ai nữa. Cái lợi ích của Thiểu dục và Tri túc thật không sao kể xiết được.

Trong kinh Thuỷ Sám có câu: “Người biết đủ tuy nằm dưới đất vẫn lấy làm an vui, người không biết đủ dù ở thiên đường cũng không vừa ý”. Đó là lý do vì sao nhiều người giàu nhưng vẫn không tìm được hạnh phúc, người nghèo lại có được hạnh phúc tràn đầy. Ta thấy rằng, thiếu thốn hay đầy đủ không phải phụ thuộc vào vật chất, mà nó phụ thuộc vào tư tưởng hay cách suy nghĩ của chúng ta.

Đây là lý do vì sao Đức Phật dạy hạnh thiểu dục tri túc cho người Phật Tử. Thiểu dục tri túc không kiềm hãm sự phát triển của bất kỳ ai, cách sống này là để đối trị với lòng tham không đáy, lòng tham gây ra phiền não không có điểm dừng mà chúng ta, những con người hiện đại đang bị vướng phải. Thiểu dục tri túc là môt sắc thái tâm lý sống.

Vì lẽ đó, một người, trong khi thực hiện ước vọng của mình, nếu biết vận dụng tâm lý thiểu dục tri túc sẽ cảm thấy nhẹ nhàng hơn với những ước vọng của mình; do đó, người ấy thực hiện cái ước vọng của mình trong sự nỗ lực tối đa mà vẫn giữ được trạng thái thanh thản của tâm hồn, không bị ước muốn đó đốt cháy sự an lạc. Đây mới là điểm chủ ý của đức Phật khi Ngài dạy về pháp thiểu dục tri túc. Do đó, pháp thiểu dục tri túc có tính chất là một liệu pháp tâm lý hơn là một chủ trương có tính giáo điều, áp đặt.

Thiểu dục tri túc giúp con người bình đẳng trước hạnh phúc, vì hạnh phúc hoàn toàn phụ thuộc vào thái độ tâm lý con người, chứ không phụ thuộc vào vật chất nhiều hay ít. Một trăm nghìn cũng có thể tạo nên xúc cảm hạnh phúc tuyệt vời đối với anh chàng nhà nghèo, nhưng một triệu

Hiểu thiểu dục tri túc, mỗi người phải biết lượng tài sức của mình để quyết định ước muốn của mình nhiều hay ít. Nếu sức lực của mình không đủ mà suốt ngày cứ loay hoay đeo đuổi những mơ tưởng điên rồ thì chắc chắn sẽ chuốc lấy những khổ não mà thôi.

Con người đến với đạo Phật là để được hạnh phúc hơn, an lạc hơn chứ không phải đến để giàu có hơn, địa vị cao hơn. Tuy điều kiện vật chất giúp ta sống có hạnh phúc hơn, điều đó không ai phủ nhận, nhưng chúng ta không thể đánh đổi, bất chấp tất cả để đạt được nó.

Chúng ta vẫn luôn hướng đến một đời sống với vật chất đầy đủ hơn hoàn thiện hơn, nhưng hành trình chúng ta đi trong tâm thái thanh thản, an lạc, không bị câu thúc nung nấu bạo loạn bởi những tâm thái không biết đủ, quá nhiều ham muốn. Đó là những gì mà đức Phật muốn gửi gắm chúng ta qua lời dạy về pháp thiểu dục tri túc.

Kính trân quý những gì đã học được với Thiền Sư Trí Bảo và cũng kính xin trân trọng gửi đến quý đạo hữu bài thơ Sinh Tử Không Hai của Thiền Sư Nhất Hạnh khi liễu tri "Sanh từ đâu đến và Tử đi về đâu ".

Sinh tử không hai

đêm nghe mưa gội

linh hồn thức dậy

trời thế gian ngập lụt

biển sóng gầm ảo tượng

trong phút giây chập chờn

đường nét hôm nay

ra vào thấp thoáng

đưa anh về đâu?

không

mầu nhiệm trong giây lát

hạt mưa cười

nghiêng đổ u sầu.

( TS Nhất Hạnh )




Kính ngưỡng Thiền Sư Trí Bảo,

Đệ tử đắc pháp thứ sáu từ Minh Sư Đạo Huệ

Được xem từng dòng hành trạng của Ngài

Tán thán thay phạm hạnh bậc anh tài

Cậu đại thần ...khiêm hạ khi xuất gia cầu Đạo (1)

Chùa làng Thanh Tước...cần kiệm bòn Phước báo (2)

Khắc khổ nhiều năm, rèn luyện nội tâm

Ngã rẽ cuộc đời ....lời quở mắng từ bậc danh tăng (3)

"Chùa tốt không có Phật "...tư duy sâu ... tự trách ! (4)

Dõng mãnh kiên cường... uy tín, danh lợi rũ sạch !

Sanh từ đâu đến, tử đi về đâu ? (5)

Minh sư giảng giải ...vi diệu nhiệm mầu

Trích lời dạy Đức Phật ...cốt tủy Kim Cang Bát Nhã (6)

Kính đa tạ Giảng Sư ...quảng bác khi diễn tả

Chân Tánh viên diệu, Tánh Biết thường hằng (7)

Chìa khoá vàng kinh Bahiya ...đại công năng

Trong cái Thấy ... sát na đầu chỉ là cái Thấy !!!

Lời tán dương ân đức Sư Phụ ... đốn ngộ từ đấy ! (8)

Tâm được ấn Tâm ...cơ phong giáo dưỡng tùy người ( 9)

Tam giáo đồng nguyên . ...Lão, Phật thuyết tri túc tuyệt vời (10)

Bài kệ thượng đường ...Thi đàn Lý Trần còn ghi chép lại (11)

Kính tri ân Giảng Sư ..Chỉ khi nào phiền não vô minh hết rĩ chảy !

Lậu tận minh ...lục thông của Đấng Đại Giác hiển bày (12)

Canh năm ngày Thành Đạo ... quả vị Thế Tôn, Như Lai

Một trong Thập lực Phật ...không tôn giáo nào có được !!

Nam Mô Thiền Sư Trí Bảo tác đại chứng minh !


Huệ Hương

Melbourne 28/10/2021





Chú thích :

( 1)Sư họ Nguyễn, quê ở Ô Diên, Vĩnh Khương, là cậu ruột là Thái Uý Tô Hiến Thành, một đại công thần đời Lý Anh Tông.

Về Thái Uý Tô Hiến Thành , Đại Việt sử ký có ghi như sau

..........

Trong chính sử, Tô Hiến Thành được đề cập lần đầu tiên với vai trò của ông trong việc bình định nổi loạn Thân Lợi.[4] Năm 1140, Thân Lợi tự xưng là con trai Lý Nhân Tông và nổi loạn chống vua Lý Anh Tông ở khu vực phía bắc (nay là Thái Nguyên).[5] Quân của Thân Lợi cuối cùng đã bị quân nhà Lý do Đỗ Anh Vũ chỉ huy đánh tan, Thân Lợi bị Tô Hiến Thành bắt và bị chém đầu theo lệnh của Lý Anh Tông tháng 10 năm 1141.[6] Chính Tô Hiến Thành đã khuyên nhà vua tha cho các thành viên tham gia nổi loạn để tỏ lòng nhân ái đối với dân chúng.[7] Sự nghiệp làm tướng võ của Tô Hiến Thành chủ yếu là dưới thời trị vì của vua Lý Anh Tông. Tiếp nối gương của Thái úy Lý Thường Kiệt, Thái úy Tô Hiến Thành đã cùng vua Lý Anh Tông đi dẹp loạn các nơi, mở mang bờ cõi thêm về phía Tây bắc. Sự nghiệp võ công của ông chống Chân Lạp xâm lược, chinh phạt Chiêm Thành; làm cho vị thế của quốc gia Đại Việt dưới thời Lý Anh Tông trở nên lớn mạnh với các nước lân bang và với nhà Tống; buộc nhà Tống phải công nhận Đại Việt vào năm 1164

Sự nghiệp làm quan văn của ông cũng hiển hách không kém, nhưng phần lớn công lao lại tập trung ở giai đoạn cuối đời, khi ông trở thành đại thần phụ chính tài năng và đức độ cuối cùng của nhà Lý. Ở giai đoạn trước đó, công lao lớn nhất của ông là việc ông tổ chức khai hoang lấn biển các vùng ven biển thuộc các tỉnh Quảng Ninh, Thanh Hóa và Hà Tĩnh ngày nay, đặc biệt đối với vùng đất ven biển Hải Dương nay là Vĩnh Bảo - Hải Phòng. Cuối đời ông làm đến chức Nhập nội Kiểm hiệu Thái phó bình chương quân quốc trọng sự (Tể tướng). Khi vua Lý Anh Tông băng hà tháng 7 năm 1175, Hoàng tử trưởng là Lý Long Xưởng hư hỏng, vua có di chiếu lập hoàng tử Lý Long Cán mới có 3 tuổi lên ngôi (tức vua Lý Cao Tông), đã giao cho ông làm phụ chính.

Hoàng hậu - mẹ Lý Long Xưởng - đem mâm vàng đến hối lộ ông, mong ông đổi di chiếu đưa Long Xưởng lên ngôi, nhưng ông kiên quyết từ chối và làm theo sự ủy thác của Tiên đế. Nhưng do tuổi già sức yếu mà thời gian phò trợ ấu chúa của ông không được là bao. Năm 1179 khi vua mới 6 tuổi, thì ông ốm nặng và mất. Trước khi mất ông tiến cử Trần Trung Tá, người có thực tài, thay mình phụ chính nhà vua, mà nhất quyết không tiến cử Vũ Tán Đường người hầu cận bên mình. Mặc dù người đương thời ví Tô Hiến Thành như Gia Cát Lượng thời Tam Quốc bên Trung Quốc[8], triều đình sau đó đã không nghe theo lời ông cho Trần Trung Tá làm Thái phó phụ chính cho vua, dẫn đến sau này vua Cao Tông không được dạy bảo điều hành chính sự mà chỉ lo ăn chơi, nhà Lý đi vào suy vong.

(2)

Sư xuất gia vào tu ở chùa Thanh Tước trên núi Du Hý làng Cát Lợi, đất Thường Lạc. Thường ngày mặc áo vá ăn cơm hẩm, cả mười năm không đổi chiếc áo, đến ba ngày chẳng thổi lửa nấu cơm, tay chân chai cóp, thân thể khô khan

Thấy có người đến thì khoanh tay đứng nép một bên, gặp bậc Sa-môn thì quì gối lễ bái. Sư chuyên tu như vậy đến sáu năm mới xuống núi.

Xuống núi, Sư chuyên tạo phước nào sửa đường, bắc cầu, cất chùa, xây tháp, tùy duyên khuyến khích người, không vì lợi dưỡng.

(Trích đoạn tả núi Thanh Tước trước là một quận thuộc tỉnh Phú Yên , năm 1960 đổi thành quận Vĩnh Phúc thuộc Hà Nội ( cách xa Hà Nội 29 km )

....Ở xã Thanh Lâm, huyện Mê Linh còn có ngọn núi mang tên Thanh Tước, cao 59 m. Đây là nơi quận Hẻo Nguyễn Danh Phương đã lập tiền đồn chống chúa Trịnh. Tại vùng này còn lưu truyền câu: “Ba làng Kẻ Đám (Đạm Nội, xã Tiền Châu )/Tám làng Kẻ He (Xuân Phương, xã Phúc Thắng) không đánh nổi quận què ở núi Thanh Tước."

(3)

Chợt gặp một vị tăng hỏi:- Sanh từ đâu lại, tử đi về đâu ?

Sư liền suy nghĩ. Vị tăng ấy bảo:

- Trong lúc ông suy nghĩ, mây trắng bay ngàn dặm.

Sư không đáp được. Vị tăng ấy quát:- Chùa tốt mà không có Phật.

Nói rồi bèn bỏ đi.

(4)

Sư tự than rằng:

- Ta tuy có tâm xuất gia, nhưng chưa được yếu chỉ của người xuất gia, ví như kẻ đào giếng, dù đào đến chín, mười thước mà chưa có nước, vẫn phải bỏ đi. Huống là, tu thân mà chẳng ngộ đạo thì có ích gì ?

Từ đây, Sư dạo khắp bốn phương tham tìm bậc thiện tri thức.

(5)

Nghe Thiền sư Đạo Huệ giáo hóa ở Tiên Du, Sư liền đến đó.

Sư hỏi Đạo Huệ:- Sanh từ đâu lại, tử đi về đâu ?

Đạo Huệ bảo:- Sanh không từ đâu lại, tử chẳng đi về đâu.

Sư thưa:- Thế ấy, đâu chẳng rơi vào chỗ không sao ?

(6)

Trong kinh Kim Cương, đức Phật giảng: Như Lai là một thực tại như thế, không từ đâu đến cũng chẳng đi về đâu[1]

Như Lai giả, vô sở tùng lai

Diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai

(Như Lai ấy, không từ đâu đến

Cũng không đi đâu, nên gọi Như Lai).

Mọi sự tới – lui, qua – lại, phải – trái… đều là tướng phàm phu, còn bị mắc kẹt trong vòng sắc tướng, chưa thể thoát ra ngoài vòng đối đãi của nhị nguyên được. Pháp còn trong vòng đối đãi là pháp chấp thế gian hay cũng gọi là pháp nhiễm. Pháp lìa tướng siêu xuất thế gian hay còn gọi là pháp tịnh. Phật – Như Lai – bậc đại giác tu hành trong vô lượng kiếp dày công khổ luyện tinh cần thành tựu viên mãn. Nên chứng pháp nhãn tịnh. Pháp nhãn tịnh chỉ có Phật có được còn hàng Bồ tát trở xuống chưa ai đạt được. Điều ấy cũng có nghĩa là những ai chưa thành là bậc Như Lai hãy tinh tấn dũng mãnh, hẳn một ngày không xa cũng sẽ đạt được quả vị Phật, như lời Phật tuyên bố:

(7)

Đạo Huệ bảo:

- Chân tánh diệu viên, thể tự không tịch, vận dụng tự tại, chẳng đồng với sanh tử.

Thế nên, sanh không từ đâu đến, tử chẳng đi về đâu.

Chân Tánh được giải thích thêm như sau

Chân tánh còn gọi là Thể tánh Tịnh Minh, chân Tâm , Như Lai Tạng , Phật tri kiến, Phật Tánh

Chân tánh là tánh chân thật nó ở luôn với mình, không lúc nào nó rời khỏi mình hết. Còn cái nó đến rồi nó đi, cái đó là vọng tâm chứ không phải chân tánh. Vọng tức là khi buồn, khi vui, khi thương, khi ghét, lúc này lúc khác chứ không phải như vầy mãi mãi. Đó là khách, là vọng. Còn cái mà chúng ta hằng thấy, hằng nghe, hằng biết, đang thấy, đang nghe, đang biết ngay bây giờ nó không bao giờ rời chúng ta một chút nào, đó là cái Thật của chúng ta. Nếu chúng ta nhận ra chỗ này rồi, thì đó là chúng ta ngộ Đạo.

Chân ránh cũng được gọi là Bản Tánh tánh là vì cái tánh “Biết” nó sẵn có từ hồi nào đến giờ. Trong kinh gọi là Phật tánh hay chơn như. Bản tánh là tên khác của Phật tri kiến hay Viên giác v.v… Thí như trong quặng nhơ sẵn có chất vàng ròng trong đó. Đứng về mặt bản thể của sự vật, thì nói là bản tánh. Thí như nước và sóng, nếu đứng về mặt bản thể, thì người ta gọi là nước. Nhưng nếu đứng về mặt hiện tượng thì người ta gọi là sóng. Như vậy, sóng và nước không thể ly khai ra mà có. Chính trong lúc sóng nổi lên, thì nó mang sẵn chất nước tiềm tàng ở trong sóng. Nếu không có nước thì làm gì có sóng? Nhưng nói sóng là nước thì không đúng.

Cũng thế, khi phiền não (dụ cho sóng) dấy khởi thì nó che phủ mờ tánh giác sẵn có. Ngay khi phiền não dấy lên, thì mình không thể nói phiền não là chơn tâm hay bản tánh được. Nhưng bản tánh cũng không rời phiền não mà có. Như nước trong không rời lìa nước đục mà có. Muốn có nước trong cần phải lóng. Lóng có nghĩa là tu, tu là chuyển hóa những thứ phiền não nhiễm ô, để cho tâm ta được thanh tịnh sáng suốt. Hai thực thể nầy không thể ly khai mà có. Đây là lý “Bất Nhị” hay pháp môn “Không Hai” của Kinh Duy Ma Cật đã nói. Và đây cũng chính là yếu lý “Tương Tức Tương Nhập, hay Lý Sự vô ngại” của hệ tư tưởng giáo lý trong Kinh Hoa Nghiêm. Vì thế, nên nói một là sai, mà nói hai thì không đúng.


(8)

Ngay câu nói này, Sư liền lãnh ngộ, nói:

Chẳng nhân gió cuốn mây trôi hết,

Đâu thấy trời trong muôn dặm thu.

(Bất nhân phong quyển phù vân tận,

Tranh kiến thanh thiên vạn lý thu.)

Đạo Huệ hỏi:- Ngươi thấy cái gì ?

Sư thưa:

Biết nhau khắp thiên hạ,

Tri âm có mấy người.

(Tương thức mãn thiên hạ,

Tri âm năng kỉ nhân.)

Sư bèn từ tạ trở về núi.

(9)

Từ đây, Sư nói ngang nói dọc, như chọi đá nháng lửa

(10)

. Một hôm, Sư thăng đường, tăng tục vây quanh, có người hỏi:

- Thế nào là tri túc ?

Sư đáp:

- Phàm người xuất gia và tại gia đều phải biết tri túc. Nếu người biết tri túc thì ngoài chẳng lấn người, trong không tổn mình. Vật nhỏ nhít như rau cỏ, người không cho, mình chẳng nên lấy. Huống là, những vật lớn khác thuộc của người, khởi tưởng là vật của người, trọn không do đây mà sanh tâm trộm cắp. Cho đến, thê thiếp của người, khởi tưởng là thê thiếp người, cũng không do đây mà sanh tâm dâm

Tam Giáo đồng nguyên gồm Phật - Nho - Lão

Phật dạy

Để đối trị lòng tham, Phật khuyên chúng ta trong kinh Đi giáo phải “thiểu dục và tri túc”. Trong Khế kinh có nói: “Tri túc chi nhơn, tuy ngọa địa thượng du vi an lạc, bất chi túc chi nhơn, tuy xứ thiên đường diệc bất xưng ý“. Nghĩa là: Người biết đủ, dù nằm trên đất cát vẫn an lạc, trái lại, người không biết đủ, dù ở cung trời cũng không vừa ý.

Trong kinh Di Giáo, Phật dạy: “Nầy các Tỳ kheo! Nếu các ông muốn thoát khỏi sự khổ não, nên suy nghiệm hai chữ “Tri túc”. Hễ biết đủ thì ở cảnh nào cũng yên vui. Người không biết đủ, tuy giàu mà nghèo; người biết đủ tuy nghèo mà giàu. Người không biết đủ thường bị năm thứ ham muốn kéo dắt, làm người biết đủ thương hại.

Một người trong tay thâu tóm tất cả của cải trong thế gian, với người nghèo mà không tham muốn, hai người đều giàu như nhau.”

Lão Tử thì khuyên con người phải biết sống tri túc (biết đủ thì không nhục), tri chỉ (biết dừng thì không sợ hiểm nguy), biết đề phòng và ngăn ngừa hậu họa khi nó còn mới manh nha, chưa định hình. Điều đó chứng tỏ ông đã có nhận thức về lượng của sự vật cũng như giới hạn tồn tại của sự vật hay độ của nó

Cố tri túc chi túc, thường túc hĩ (biết thế nào là đủ thì sẽ luôn có đủ)

Trong Chương 46 Đạo Đức Kinh, Lão Tử giảng: “Họa mạc đại vu bất tri túc, cữu mạc đại vu dục đắc, cố tri túc chi túc, thường túc hĩ”, nghĩa là: không họa nào lớn bằng không biết đủ, không hại nào lớn bằng ham muốn có được, cho nên biết thế nào là có đủ thì sẽ luôn có đủ.

Tư tưởng biết đủ của Lão Tử bao hàm rất nhiều ý nghĩa khác nhau. “Biết đủ” là cầu bên trong mà không cầu bên ngoài, là theo đuổi bản tính chất phác và sự dồi dào về tinh thần. “Tri túc giả phú”, người biết đủ là người giàu có.

Lão Tử vô cùng coi trọng tư tưởng biết đủ. Ông cho rằng, tư tưởng biết đủ có thể quyết định vinh nhục, sống chết, họa phúc… của mọi người. Không chỉ thế, Lão Tử còn dùng “biết đủ” để phân biệt người giàu và người nghèo trong xã hội. Một người nếu biết đủ thì những yếu tố khách quan như tiền tài, của cải… cho dù không có nhiều lắm nhưng họ vẫn có thể tự nhận mình là người giàu có.

(11)

. Các ngươi nghe ta nói kệ:

Của dùng Bồ-tát biết vừa đủ,

Đối người thương xót chẳng lấn tham.

Vật mọn không cho ta chẳng lấy,

Chẳng quản của người đức ngọc lành.

Bồ-tát vợ nhà còn biết đủ,

Tại sao vợ người lại khởi tham ?

Thê thiếp của người người bảo hộ,

Đâu nỡ lòng mình khởi vạy tà.

(Bồ-tát tư tài tri chỉ túc,

Ư tha từ bi bất dâm dục.

Thảo diệp bất dữ ngã bất thủ,

Bất tưởng tha vật đức như ngọc.

Bồ-tát tự thê phương tri túc,

Như hà tha thê khởi tham dục ?

Ư tha thê, thiếp, tha sở hộ,

An nhẫn tự tâm khởi tâm khúc

(12) Đến canh ba, Ngài quán chiếu sâu thẳm của vô thủy vô minh, thấu tột cội nguồn các pháp:

– Đây là phiền não, ô nhiễm, khổ đau.

– Đây là nguyên nhân tập khí gây ra phiền não, ô nhiễm, khổ đau.

– Đây là sự chấm dứt phiên não, ô nhiễm, khổ đau.

– Đây là phương pháp dẫn đến sự chấm dứt phiền não, ô nhiễm, khổ đau.

Quán chiếu như thế, tâm Ngài hoàn toàn giải thoát khỏi Dục lậu (ô nhiễm của dục vọng), Hữu lậu (ô nhiễm sự luyến ái của đời sống) và Vô minh lậu (ô nhiễm của vô minh), dứt hẳn sinh tử luân hồi, khổ đau vạn kiếp. Đạt đến đó Ngài chứng được Lậu tận minh.

Kinh Sa môn quả, Trường bộ I, có nói khi thành tựu trí này, hành giả trực nhận được nguyên lý Tứ thánh đế cũng như nguồn gốc, nguyên nhân, và con đường đưa đến sự đoạn tận các lậu hoặc. Khi đó “tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: Ta đã giải thoát. Vị ấy biết: Sinh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm; sau đời hiện tại, không có đời sống nào khác nữa”.

Do vậy lậu tận minh có nghĩa là:

Āsavakkhayaāṇa (P)Tuệ hiểu biết chấm dứt trầm luân (có 4 pháp trầm luân: dục, hữu, tà kiến, vô minh). Đấy là tuệ giác cuối cùng mà đức Phật chứng đắc vào canh năm đêm thành đạo.

Đó cũng là lực thứ 10 của Như Lại

Lậu tận trí lực(cũng gọi Tri vĩnh đoạn tập khí trí lực, Kết tận lực, Lậu tận lực): Đối với tập khí tàn dư của tất cả phiền não, Như lai biết rõ đúng như thực đã vĩnh viễn đoạn trừ không còn sinh khởi nữa




🙏🙏🙏🌹🥀🌷🍀🌷🌸🏵️🌻🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️


Trở về Mục Lục Bài giảng của TT Nguyên Tạng

về Chư Vị Thiền Sư Trung Hoa

thieu lam tu



🙏🙏🙏🌹🥀🌷🍀🌷🌸🏵️🌻🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️

🙏🙏🙏🌹🥀🌷🍀🌷🌸🏵️🌻🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️

facebook
youtube

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com