KINH LĂNG GIÀ
GIẢI NGHĨA
Toàn Không
(Tiếp theo)
3). KỆ TỰ TÁNH VỌNG TƯỞNG:
Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa nà mà thuyết kệ rằng:
1. Vô thuyết vô tự tánh,
Vô sự vô tương tục.
Phàm phu vọng chấp thật,
Như xác chết có giác.
2. Tất cả pháp bất sanh,
Chẳng như tông ngoại đạo.
Các pháp vốn Vô Sanh,
Do nhân duyên thành tựu.
3. Tất cả pháp bất sanh,
Bậc trí chẳng phân biệt.
Việc do lập tông sanh,
Kẻ giác phải diệt trừ.
4. Ví như mắt bệnh nhặm,
Vọng thấy tướng hoa đốm.
Tánh chấp trước cũng thế,
Do phàm phu vọng tưởng.
5. Phân biệt hiện tam giới,
Sự Tự Tánh chẳng có,
Mà lập sự tự tánh,
Vì tư duy khởi vọng,
6. Tùy sự lập ngôn giáo,
Vọng tưởng rất lăng tăng.
Phật tử hãy siêu thoát,
Xa lìa các vọng tưởng.
7. Phi nước tưởng là nước,
Do khát nước vọng sanh.
Phàm phu mê như thế,
Bậc Thánh chẳng thấy vậy.
8. Bậc Thánh thấy trong sạch,
Chánh định tam giải thoát.
Xa lìa nơi sanh diệt,
Dạo đi cõi Vô Sanh.
9. Tu hành vô sở tu,
Cũng chẳng tánh phi tánh.
Tánh phi tánh bình đẳng,
Do đó sanh Thánh quả.
10. Thế nào tánh phi tánh?
Thế nào pháp bình đẳng?
Tâm tri tâm bất tri,
Trong ngoài và động tịnh.
Nếu người được đoạn dứt,
Ắt thấy tâm bình đẳng.
GIẢI NGHĨA:
Bài kệ với ý như sau:
1. Vô thuyết vô tự tánh,
Vô sự vô tương tục.
Phàm phu vọng chấp thật,
Như xác chết có giác.
2. Tất cả pháp bất sanh,
Chẳng như tông ngoại đạo.
Các pháp vốn Vô Sanh,
Do nhân duyên thành tựu.
3. Tất cả pháp bất sanh,
Bậc trí chẳng phân biệt.
Việc do lập tông sanh,
Kẻ giác phải diệt trừ.
Nghĩa là không nói không bản thể tâm (vô tự tánh), nếu không có sự việc thì chẳng có cái để tương tục, phàm phu vọng chấp thật, giống như xác chết có biết. Chẳng như pháp ngoại đạo, bậc trí chẳng phân biệt, các pháp vốn Vô Sinh, chỉ do nhân duyên mà thành. Sự việc do lập tông sinh, người hiểu biết phải diệt trừ lập tông.
4. Ví như mắt bệnh nhặm,
Vọng thấy tướng hoa đốm.
Tánh chấp trước cũng thế,
Do phàm phu vọng tưởng.
5. Phân biệt hiện tam giới,
Sự Tự Tánh chẳng có,
Mà lập sự tự tánh,
Vì tư duy khởi vọng,
Ví như mắt bệnh nhặm, tưởng thấy tướng hoa đốm, tính chấp thật cũng thế, do phàm phu vọng tưởng phân biệt mà hiện ra dục, sắc, vô sắc (Tam giới), tâm không mà lập bản thể tâm (tự tánh), rồi từ đó suy nghĩ khởi vọng.
6. Tùy sự lập ngôn giáo,
Vọng tưởng rất lăng tăng.
Phật tử hãy siêu thoát,
Xa lìa các vọng tưởng.
7. Phi nước tưởng là nước,
Do khát nước vọng sanh.
Phàm phu mê như thế,
Bậc Thánh chẳng thấy vậy.
8. Bậc Thánh thấy trong sạch,
Chánh định tam giải thoát.
Xa lìa nơi sanh diệt,
Dạo đi cõi Vô Sanh.
Sự việc lập ngôn giáo, do ý niệm nhận thức tưởng tượng ra những hình ảnh cảm giác không phù hợp với sự thật (vọng tưởng) rất lăng xăng, Phật tử hãy xa lìa các vọng tưởng. Phàm phu như do khát nước thấy dương diệm chẳng phải nước, vọng sinh tưởng là nước; bậc Thánh chẳng thấy vậy, bậc Thánh luôn luôn ở trong thiền định tịch tĩnh của “Không, Vô tướng, Vô tác” (Tam giải thoát), xa lìa nơi sinh diệt mà dạo nơi cõi Vô Sinh.
9. Tu hành vô sở tu,
Cũng chẳng tánh phi tánh.
Tánh phi tánh bình đẳng,
Do đó sanh Thánh quả.
10. Thế nào tánh phi tánh?
Thế nào pháp bình đẳng?
Tâm tri tâm bất tri,
Trong ngoài và động tịnh.
Nếu người được đoạn dứt,
Ắt thấy tâm bình đẳng.
Tu hành không chỗ tu, chẳng có ý niệm nhận thức sai lầm (chẳng tánh phi tánh), tính hay chẳng tính như nhau (bình đẳng), do đó sinh Thánh quả. Thế nào là Tánh phi tánh và pháp bình đẳng? Là tâm biết hay tâm không biết, tất cả trong ngoài và động tịnh, nếu được đoạn dứt hết sẽ thấy tâm bình đẳng.
4). TRÍ HUỆ
(Còn tiếp)