- 01. Lời mở đầu
- 02. Cách đọc chữ Pali & Sancrit
- 03. Tiền thân Đức Phật Thích Ca
- 04. Đức Phật Đản Sanh
- 05. Thời gian làm Thái Tử
- 06. Thời gian xuất gia học đạo
- 07. Đức Phật thành đạo
- 08. Đức Phật thuyết pháp lần đầu tiên
- 09. Hạ thứ nhất tại Lộc Uyển (năm - 589)
- 10. Hạ thứ hai tại Venuvana (năm -588)
- 11. Hạ thứ 3 tại Venuvana (năm -587)
- 12. Hạ thứ 4 tại Venuvana (năm -586)
- 13. Hạ thứ 5 tại Mahàvana, thuộc Vesàlì (năm -585)
- 14. Hạ thứ 6 tại Jetavana (năm -584)
- 15. Hạ thứ 7 tại làng Sankassa (năm -583)
- 16. Hạ thứ 8 tại rừng Bhesakala (năm -582)
- 17. Hạ thứ 9 tại tinh xá Ghosita, Kosambi (năm -581)
- 18. Hạ thứ 10 trong rừng Rakkhita (năm -580)
- 19. Hạ thứ 11 tại Ekanala, gần Ràjagaha (năm -579)
- 20. Hạ thứ 12 tại Veranjà, xứ Kosala (năm -578)
- 21. Hạ thứ 13 tại thành phố Càlika, xứ Koliya (năm -577)
- 22. Hạ thứ 14 tại Jetavana (năm -576)
- 23. Hạ thứ 15 tại vườn Nigrodha, Kapilavatthu (năm -575)
- 24. Hạ thứ 16 tại thành phố Àlavì (năm -574)
- 25. Hạ thứ 17 tại Venuvana (năm -573)
- 26. Hạ thứ 18 tại tảng đá Càliya, xứ Koliya (năm -572)
- 27. Hạ thứ 19 tại Griddhakùta (năm -571)
- 28. Hạ thứ 20 tại Jetavana (năm -570)
- 29. Hạ thứ 21 tại Jetavana (năm -569)
- 30. Hạ thứ 22 tại Jetavana và Pubbàràma (năm -568)
- 31. Hạ thứ 23 tại Jetavana (năm -567)
- 32. Hạ thứ 24 tại Jetavana (năm -566)
- 33. Hạ thứ 25 tại Jetavana (năm -565)
- 34. Hạ thứ 26 tại Jetavana (năm -564)
- 35. Hạ thứ 27 tại Jetavana (năm -563)
- 36. Hạ thứ 28 tại Jetavana (năm -562)
- 37. Hạ thứ 29 tại Jetavana (năm -561)
- 38. Hạ thứ 30 tại Jetavana (năm -560)
- 39. Hạ thứ 31 tại Jetavana (năm -559)
- 40. Hạ thứ 32 tại Jetavana (năm -558)
- 41. Hạ thứ 33, 34, 35 tại Jetavana (năm -557/ -555)
- 42. Hạ thứ 36 tại Jetavana (năm -554)
- 43. Hạ thứ 37 tại Venuvana (năm -553)
- 44. Hạ thứ 38 tại Jetavana (năm -552)
- 45. Hạ thứ 39 tại Jetavana (năm -551)
- 46. Hạ thứ 40 tại Jetavana (năm -550)
- 47. Hạ thứ 41 tại Jetavana (năm -549)
- 48. Hạ thứ 42 tại Venuvana (năm -548)
- 49. Hạ thứ 43 tại Jetavana (năm -547)
- 50. Hạ thứ 44 tại Jetavana (năm -546)
- 51. Hạ thứ 45 tại làng Beluva gần Vesàlì (năm -545)
- 52. Phật nhập niết bàn tại Kusinàgar (năm -544)
- 53. Kiết tập kinh điển
- 54. Nội dung Tam Tạng Kinh Điển (Tripitaka)
- 55. Thập Đại Đệ Tử
- 56. Ba mươi ba vị Tổ sư
- 57. Phật Giáo truyền sang Sri Lanka (Tích Lan)
- 58. Bốn động-tâm và các Phật-tích tại Ấn độ
- 59. Đại cương tu Phật
- 60. Sách tham khảo
- 61. Lời cảm tạ
Sự Tích Đức Phật Thích Ca
Soạn giả : Minh Thiện Trần Hữu Danh
(Ấn bản 09/2010, có hiệu chính và bổ túc)
J- PHẬT NHẬP NIẾT BÀN
Các nhân vật quan trọng như vua Suddhodana[1], Uruvelà Kassapa[2], vua Suppabuddha[3], vua Bimbisàra[4], Ni sư Mahà Pajàpati[5], Ràhula[6], vua Pasenadi[7], Moggallàna[8], Yasodharà[9]rồi đến Sàriputta[10]đều lần lượt qua đời. Đức Phật cũng đã già yếu, ngài quyết định nhập niết bàn đúng theo luật sinh già bệnh chết, và ban những lời dạy cuối cùng.
1- Hạ 44 tại Jetavana (năm -546)
Vua Pasenadi ca ngợi Phật[11]
Sau mùa an cư thứ 44 tại Jetavana vào năm 546 trước tây lịch, Phật đi về hướng tây, đến xứ Kuru, thuộc vùng thượng lưu sông Gangà và sông Yamunà. Sau khi ở đó hai tháng, Phật lại theo bờ sông Yamunà đi xuống miền nam, đến Kosambi, rồi đến Benares (Varanasi). Từ Benares, Phật trở về Vesàlì; rồi từ Vesàlì đi Kapilavatthu. Một hôm, Phật đang cư trú hành đạo tại làng Ulumpa thuộc quận Medalumpa trong xứ Sàkya thì có vua Pasenadi đến thăm.
Vua Pasenadi đang du ngoạn tại Nàgaraka với hoàng tử Vidùdabha[12](Virudhaka, Tỳ Lưu Ly) và tướng Dìgha Kàràyana. Nàgaraka chỉ cách Medalumpa chừng nửa ngày đường. Nghe tin Phật đang ở tại Ulumpa, vua Pasenadi liền dắt đoàn tùy tùng cùng đi trên bốn chiếc xe song mã đến thăm Phật. Đến công viên, nơi Phật đang cư trú, vua để đoàn tùy tùng ở lại bên ngoài, rồi bảo tướng Kàràyana cùng đi với mình vào công viên. Thấy bóng các vị khất sĩ áo vàng qua lại, vua hỏi thăm Phật ở đâu. Vị khất sĩ chỉ một cái am lá ẩn dưới bóng cây và nói:
–Tâu Đại vương, Thế Tôn đang ở trong am đó. Cửa đóng, Đại vương cứ ho lên một tiếng và gõ cửa hai tiếng, Thế Tôn sẽ mở cửa rước Đại vương vào.
Vua cởi thanh gươm và tháo vương miện xuống trao cho vị tướng lãnh, bảo ông ta trở ra cổng với đoàn tùy tùng chờ mình, rồi vua đi một mình đến am Phật. Tới trước cửa, vua đằng hắng và ho lên một tiếng, chưa kịp gõ cửa thì cửa đã mở. Phật vui vẻ mời vua vào am. Hai Thượng tọa Sàriputta và Ànanda bước đến chào đón vua.
Phật mời vua ngồi trên một chiếc ghế, rồi tự mình ngồi trên chiếc ghế đối diện. Hai vị Thượng tọa đứng hầu sau lưng Phật. Vua Pasenadi vừa ngồi xuống ghế đã vội đứng dậy chấp tay đảnh lễ dưới chân Phật, miệng nói :
–Bạch Thế Tôn, trẫm là Pasenadi, vua nước Kosala, xin đảnh lễ đức Thế Tôn. Trẫm là Pasenadi, vua nước Kosala, xin đảnh lễ đức Thế Tôn.
Phật đỡ vua đứng lên, mời ngồi vào ghế, rồi hỏi :
–Đại vương, sao hôm nay Đại vương làm lễ cung kính quá đáng như thế ? Chúng ta không phải là đôi bạn thân thiết hay sao ?
–Bạch Thế Tôn, trẫm có vài điều muốn nói với Thế Tôn hôm nay, sợ không còn có dịp nào khác.
–Có điều chi xin Đại vương cứ nói.
–Thưa Thế Tôn, trẫm nghe có người nói Sa môn Gotama hiểu biết tất cả (sabbannu, omniscient), không có điều gì mà ngài không biết. Có đúng thế không ?
–Thưa Đại vương, nói thế hơi quá. Đúng ra chỉ nên nói Sa môn Gotama có đầy đủ Tam Minh là Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh và Lậu Tận Minh. (Trung Bộ 71 và 90)
–Thưa Thế Tôn, có người cho rằng Thế Tôn đã nói không có vị sa môn hay Bà-la-môn nào có thể hiểu biết tất cả (omniscient). Có đúng thế không ?
–Thưa Đại vương, Như Lai chỉ nói không ai có thể thấy và biết tất cả cùng một lúc[13].
–Thưa Thế Tôn, trẫm hoàn toàn tin tưởng Thế Tôn là bậc toàn giác. Trẫm hoàn toàn tin tưởng nơi Giáo Pháp và giáo đoàn khất sĩ của Thế Tôn. Trẫm đã từng biết những tu sĩ Bà-la-môn và các đạo sĩ thuộc các giáo phái khác. Có người tu hành đứng đắn được mười, hai mươi, ba mươi, bốn mươi năm, nhưng sau đó trẫm lại thấy họ bỏ cuộc và trở về nếp sống ngũ dục. Ở trong Giáo Pháp của Thế Tôn, trẫm thấy các vị khất sĩ hầu hết đều tu phạm hạnh cho đến trọn đời.
“Thế Tôn, trẫm từng thấy vua chúa chống đối vua chúa, tướng sĩ âm mưu chống tướng sĩ, Bà-la-môn chống Bà-la-môn, vợ cãi cọ với chồng, con cãi cọ với cha, anh cãi cọ với em, bè bạn cãi cọ với bè bạn. Ở đây trẫm thấy các vị khất sĩ sống trong hòa kính, an vui, hợp nhau như nước với sữa. Trẫm không thấy ở đâu có được sự thương yêu hòa hợp như trong giáo đoàn khất sĩ.
“Thế Tôn, khắp nơi trẫm đã từng thấy giới đạo sĩ với dáng điệu khắc khổ, vẻ mặt âu sầu. Nhưng ở đây, trẫm thấy các vị khất sĩ luôn luôn tỉnh táo, tươi cười, vui vẻ, thong dong. Điều này làm trẫm càng thêm tin tưởng nơi Thế Tôn và Giáo Pháp của Thế Tôn hơn.
“Thế Tôn, trẫm là vua, thuộc dòng dõi chiến sĩ. Trẫm có quyền ra lệnh chém đầu, hoặc giam cầm, hoặc trừng phạt bất cứ ai, nếu trẫm muốn. Vậy mà trong các phiên họp, thiên hạ vẫn dám cướp lời trẫm. Dù trẫm có nói “Quí vị không được cướp lời trẫm”, họ cũng vẫn quên và vẫn cướp lời trẫm như thường. Nhưng ở tinh xá, có khi có trên một ngàn vị khất sĩ ngồi nghe Thế Tôn thuyết pháp mà trẫm không nghe một tiếng động nhỏ, đừng nói chi có ai dám cướp lời Thế Tôn. Trẫm nghĩ : Thật là mầu nhiệm. Phật chẳng cần quyền uy, chẳng cần gươm giáo, chẳng cần trừng phạt gì mà ai cũng tôn kính Phật một cách tuyệt đối. Điều này làm cho trẫm càng thêm tin tưởng nơi Thế Tôn và Giáo Pháp của Thế Tôn.
“Thế Tôn, trẫm đã từng biết nhiều người trong giới trí thức, học giả, đạo sư lừng danh họp với nhau để soạn trước những câu hỏi bí hiểm có thể làm cho Thế Tôn lúng túng. Nhưng khi đến gặp Thế Tôn và nghe Thế Tôn thuyết pháp, họ đều bị Thế Tôn chinh phục, đến nỗi không còn nghĩ tới việc nêu lên những câu hỏi của họ đã soạn sẵn. Điều này càng làm cho trẫm có thêm tin tưởng nơi Thế Tôn và Giáo Pháp của Thế Tôn.
“Thế Tôn, trẫm có hai quan giữ ngựa tên là Isidattà và Purana. Có lần trẫm đem họ theo trong một chuyến du hành xa. Gặp đêm mưa gió bất ngờ, vua tôi đều phải ngủ chung trong một chiếc lều tranh nhỏ. Hai quan giữ ngựa của trẫm ngồi nói chuyện với nhau về Giáo Pháp học được của Thế Tôn, đến khi mỏi mệt họ nằm xuống ngủ, đầu họ hướng về núi Linh Thứu, chân họ xoay về phía trẫm. Thế Tôn có cho họ lương bổng gì đâu, thế mà họ tôn kính Thế Tôn hơn cả trẫm đang ở bên cạnh. Giáo Pháp của Thế Tôn như một cơn gió lốc thổi dồn tất cả các thứ lá khô lại một chỗ. Trí thức, ngu si, vương giã, bần cùng, giàu sang, nghèo hèn, già cả, niên thiếu, đàn ông, đàn bà, người thiện, kẻ ác, tất cả đều được Thế Tôn từ bi đưa vào Giáo Pháp và tiếp độ họ một cách bình đẳng, không phân biệt. Điều này khiến trẫm càng tin tưởng nơi Thế Tôn và Giáo Pháp của Thế Tôn hơn.
“Thưa Thế Tôn, Thế Tôn thuộc giai cấp vua chúa, trẫm cũng thuộc giai cấp vua chúa. Thế Tôn năm nay đã gần 80 tuổi, trẫm năm nay cũng đã gần 80 tuổi. Vì vậy trẫm nghĩ đây là cơ hội quí báu để trẫm tỏ lòng quy kính Phật và bày tỏ tình tri kỷ giữa trẫm và Thế Tôn. Bây giờ trẫm xin từ giã Thế Tôn.
–Đại vương hãy cẩn trọng giữ gìn sức khỏe.
Phật đứng dậy tiễn đưa vua Pasenadi ra cửa. Lúc trở vào, Phật nói :
–Này Sàriputta, này Ànanda, quốc vương Pasenadi đã nói những lời rất chân thành của quốc vương đối với Tam Bảo. Hai thầy nên ghi nhớ để làm vững mạnh thêm đức tin của những người hậu học.
Vua Pasenadi băng hà ở Ràjagaha[14]
Sau cuộc viếng thăm Phật ở Medalumpa, vua Pasenadi trở ra đến cổng công viên chỉ còn thấy một chiếc xe và một người cung phi già ở lại. Người cung phi cho vua biết tướng Dìgha Kàràyana đã đem vương miện, ấn tín và thanh gươm báu của vua ra, bảo hoàng tử Vidùdabha (Tỳ Lưu Ly) nên thừa dịp may hiếm có này trở về Sàvatthi ngay để lên ngôi vua, đừng để một người quá già yếu ngồi mãi trên ngai vàng. Hoàng tử còn dùng dằng chưa chịu thì Kàràyana dọa nếu hoàng tử không chịu về làm vua, ông ta sẽ về kinh tự xưng vương. Trước áp lực ấy hoàng tử Vidùdabha phải tuân theo, nhưng buộc Kàràyana phải để lại cho vua cha một cỗ xe và một cung phi. Sau đó hoàng tử Vidùdabha theo tướng Kàràyana về Sàvatthi, giết thái tử Jeta rồi lên ngôi vua.
Vua Pasenadi quyết định đến thành Ràjagaha để cầu viện với cháu là vua Ajàtasattu. Suốt quãng đường dài trên 300 km dưới cơn nắng, gió và bụi, vua chỉ uống nước mà không ăn được gì cả. Tới Ràjagaha thì trời đã khuya, cửa thành đã đóng chặt. Vua phải vào nghỉ đêm trong công quán. Đêm ấy vua Pasenadi lên cơn bạo bệnh và chết trên tay người cung phi già. Sáng ngày, vua Ajàtasattu hay tin vội cho rước long thể vua Pasenadi vào cung, ra lệnh tổ chức một lễ quốc táng long trọng cho người cậu ruột của mình. Sau khi tang lễ hoàn mãn, vua Ajàtasattu định cử binh trị tội quốc vương Vidùdabha, nhưng khất sĩ Jìvaka can rằng: Dù sao quốc vương Pasenadi cũng đã băng hà, thái tử Jeta cũng đã bị tướng Kàràyana giết chết, vị vua mới là Vidùdabha cũng là con trai duy nhất còn lại của vua Pasenadi lên nối ngôi, vừa là anh em cô cậu của vua Ajàtasattu, nếu có cử binh chinh phạt cũng không đưa đến một giải pháp nào khác mà còn làm cho biết bao binh tướng và dân chúng chết oan và chịu cảnh lầm than. Thấy Jìvaka có lý, vua Ajàtasattu đã cử sứ thần đến Sàvatthi thừa nhận quốc vương mới.
Vua Vidùdabha tàn sát dòng họ Sàkya[15]
Sau khi được tướng Dìgha Kàràyana đưa từ làng Ulumpa về Sàvatthi giết thái tử Jeta rồi lên ngôi vua xứ Kosala, Vidùdabha (Tỳ Lưu Ly) nhớ lại mối thù thuở nhỏ bị hoàng tộc Sàkya khinh khi và nhục mạ[16], liền thống lãnh đại binh đi rửa hận. Đức Phật biết được liền hiện thân đến ngồi dưới một cội cây vùng ranh giới gần thành Kapilavatthu để đón đường đạo binh của Vidùdabha. Gần đó, bên ranh giới xứ Kosala, có một cây cổ thụ to lớn, bóng cây rất mát mẻ. Vidùdabha trông thấy Phật liền đến đảnh lễ và thưa rằng :
–Bạch Thế Tôn, trời nắng thế này mà Thế Tôn ngồi dưới bóng cây nhỏ này thì nóng lắm, sao Thế Tôn không đến ngồi dưới tàng cây cỗ thụ đàng kia cho mát ?
–Xin Đại vương chớ quan tâm. Chính bóng mát của dòng họ tôi làm tôi được mát mẻ.
Vidùdabha thầm nghĩ chắc Phật cố ý đến đây để bảo vệ dòng họ Sàkya. Do đó ông đãnh lễ Phật rồi trở về Sàvatthi. Đức Phật trở về Jetavana. Được vài hôm, vua Vidùdabha lại nhớ đến mối thù xưa liền cử binh đi lần thứ hai; nhưng khi gặp Phật ngồi ngay chỗ cũ, vua lại quay trở về. Lần thứ ba cũng thế. Đến lần thứ tư, đức Phật quán chiếu nghiệp trước của những người dòng Sàkya, nhận thấy rằng họ không thể tránh khỏi quả báo ác nghiệp trước kia của họ đã bỏ thuốc độc xuống dòng sông để hại người dưới nguồn, nên đức Phật không đến can thiệp nữa.
Lần này Vidùdabha quyết chí rửa hận, ông ta ra lệnh giết hết những người nói "Chúng tôi là người Sàkya" trừ những người đi theo vua Mahànàma[17]. Trái lại binh tướng Sàkya thì thà chịu chết chứ không giết kẻ thù. Họ bắn tên hoặc đâm xuyên qua những tấm khiên của địch nhưng không bao giờ chạm vào người. Cuối cùng chỉ còn những người chạy theo vua Mahànàma và những người Sàkya miệng ngậm cỏ hoặc ngậm cọng sậy, không trả lời được câu hỏi "Chúng bây có phải là người Sàkya không?", là sống sót, chạy thoát qua các nước lân cận[18]. Cho đến những người già cả và trẻ em lớn nhỏ đều bị giết sạch[19]. Đền đài cung điện bị thiêu rụi.
Vua Vidùdabha bắt sống vua Mahànàma rồi lên đường trở về Sàvatthi. Giữa đường, đến giờ ăn sáng, Vidùdabha bảo đưa Mahànàma đến ngồi ăn cùng bàn với ông. Thấy gần đó có một hồ nước lớn, Mahànàma bảo :
–Này cháu, tay chân ông dơ lắm, để ông đi tắm rửa sạch sẽ trước đã.
–Được, ông ngoại cứ đi tắm tự nhiên.
Đến bờ hồ, Mahànàma xỏa tóc xuống trước mặt, cột ngọn tóc lại thành gút, rồi phóng mình xuống nước, thọt hai bàn chân vào giữa chùm tóc, tự trầm mình. Long Vương hiện đến rước Mahànàma về Long Cung ở 12 năm. Vidùdabha chờ lâu không thấy, cho người tìm kiếm khắp nơi không gặp, nghĩ rằng Mahànàma đã bỏ trốn, ra lệnh lên đường về Sàvatthi.
Đêm đó đại binh cắm trại bên bờ sông Aciravatì. Gặp mùa nước cạn, lòng sông bày cát khô, một số binh lính nằm xuống cát giữa lòng sông, một số khác nằm hai bên bờ sông. Nhưng những người kiếp trước đã gây ác nghiệp, nằm trên bờ sông, bị kiến cắn, bèn đi xuống lòng sông nằm trên cát. Những người kiếp trước có thiện nghiệp, đang nằm trên cát ở lòng sông, cảm thấy chật chội, bỏ lên bờ nằm. Đến nửa đêm, một cơn giông mưa lớn nổi lên gây ngập lụt, cuốn trôi Vidùdabha và những người nằm dưới lòng sông ra biển làm mồi cho những bầy cá và bầy rùa.
Đối với những người cho rằng dòng họ Sàkya bị giết oan uổng vì họ là những người tốt, thà chịu chết chứ không giết kẻ địch, đức Phật dạy :
–Do cộng ác nghiệp gây ra đời trước bằng cách bỏ thuốc độc xuống sông để hại người nên kiếp này họ phải chịu quả báo, không sao tránh khỏi.
Đối với những khất sĩ cho rằng Vidùdabha và vây cánh thân tín của ông ta tuy đã tàn sát dòng họ Sàkya nhưng lòng ham muốn chưa thỏa mãn, sao lại bị nước cuốn trôi ra biển làm mồi cho cá và rùa ? Đức Phật dạy :
–Này các thầy, lòng ham muốn, dục vọng của con người, không bao giờ được thỏa mãn hoàn toàn. Do đó thần Chết, như một trận thủy tai càn quét một làng trong đêm tối, hiện đến bất ngờ, cướp lấy sự sống của họ và đẩy họ vào bốn đại dương đau khổ.
Moggallàna bị ngoại đạo ám sát tại Ràjagaha[20]
Thượng tọa Moggallàna là vị đại đệ tử thứ hai của Phật, sau Thượng tọa Sàriputta. Các đệ tử lớn của Phật đã có nhiều người viên tịch trước Phật. Thượng tọa Uruvelà Kassapa và hai người em là Gayà Kassapa và Nadi Kassapa cũng đã viên tịch.
Thượng tọa Moggallàna là một vị đại khất sĩ có nhiều dũng khí, phát ngôn thẳng thắn không e-dè. Thượng tọa thường chỉ thẳng những điểm sai lầm trong các giáo lý ngoại đạo nên bị thù ghét. Mỗi khi về Ràjagaha, Thượng tọa Moggallàna thường ở trên núi Isigili một mình với hai đệ tử thân tín để tu thiền định.
Một hôm, vào tháng Kattika (tháng 11), trời không trăng, Thượng tọa lên đường đi Venuvana sớm với hai vị đệ tử. Bọn sát nhân, có dự tính trước, mai phục dưới chân núi. Vừa thấy Thượng tọa, họ xông ra tấn công bằng gậy gộc. Ba thầy trò tay không, không thể chống cự nổi với đám đông. Hai vị đệ tử bị đánh văng ra ngoài. Họ la lên cầu cứu. Nhưng không kịp nữa. Thượng tọa Moggallàna hét lên một tiếng vang động cả rừng cây trước khi bị bọn chúng đập xuống những hèo cuối cùng làm vỡ sọ, gãy xương nhiều chỗ, chết ngay tại chỗ. Khi các thầy ở Venuvana hay tin, chạy đến nơi thì bọn sát nhân đã tẩu thoát mất dạng. Hai vị đệ tử bị thương khá nặng. Khi Phật về đến Venuvana thì nhục thân của Thượng tọa Moggallàna đã được trà tỳ, xá lợi được đựng trong một cái bình đặt trước cửa am của Phật.
Hỏi đến Thượng tọa Sàriputta, các thầy cho Phật biết Thượng tọa Sàriputta đã đóng cửa am từ ngày Thượng tọa Moggallàna bị ám sát. Ai cũng biết hai vị Thượng tọa này thân với nhau còn hơn anh em ruột, đối với nhau luôn luôn như hình với bóng. Phật chưa kịp nghỉ ngơi, đi ngay đến am của Sàriputta để an ủi. Thượng tọa Ànanda theo sau, thầm nghĩ: Phật đi an ủi Thượng tọa Sàriputta, nhưng ai là người an ủi Phật khi hầu hết dòng họ Sàkya bị tàn sát ? Bỗng Phật quay lại nhìn thầy rồi lên tiếng :
–Này Ànanda, ai cũng nói thầy học nhiều và ghi nhớ nhiều về Chánh Pháp. Thầy không nên lấy sự học nhiều và nhớ nhiều làm đủ. Chăm sóc cho Như Lai và lo lắng cho giáo đoàn tuy là điều cần thiết, nhưng cũng không đủ. Thì giờ qua nhanh, cuộc đời ngắn ngủi vô chừng, thầy phải sớm lo nỗ lực để vượt thoát sanh tử. Thầy phải tập bình thản trước sanh tử, xem sanh tử như những hoa đóm giữa hư không.
Thượng tọa Ànanda cuối đầu im lặng. Một vị khất sĩ xin Phật giải nghi:
–Bạch Thế Tôn, sư huynh Moggallàna thần thông xuất chúng sao không chống lại nổi với ngoại đạo, đến đỗi phải bị sát hại ?
–Này các thầy, không phải Moggallàna không chống cự nổi với ngoại đạo, nhưng vì trong một đời quá khứ Moggallàna đã nghe lời vợ giả làm bọn cướp, dùng cây đánh cha mẹ già mù lòa đến gãy xương chết giữa rừng[21]; và trong một kiếp khác đã làm nghề chài lưới sát hại oan uổng không biết bao nhiêu sanh linh, do đó ngày nay phải chịu quả báo. Các thầy nên biết thần thông không qua được nghiệp lực, chỉ có sám hối mới có thể làm cho quả báo nhẹ bớt.
Sáng hôm sau Phật chỉ vị trí để xây tháp kỷ niệm và an trí xá lợi của Thượng tọa Moggallàna gần cổng tinh xá Venuvana.
Devadatta qua đời tại Griddhakùta[22]
Một buổi chiều vàng, khi Phật đang đi thiền hành trên triền núi Griddhakùta (Linh Thứu) thì có hai người võng Thượng tọa Devadatta lên xin gặp Phật.
Thượng tọa Devadatta bệnh nặng đã hơn chín tháng nay. Thượng tọa muốn gặp lại Phật để xin sám hối trước khi qua đời. Hai người đang khiêng Thượng tọa hôm nay là hai trong sáu đệ tử còn sót lại. Trong thời gian nằm liệt giường trên núi Gayàsìsa, không mấy ai đến thăm Thượng tọa, kể cả những người đã ủng hộ Thượng tọa tích cực nhất ngày xưa. Suốt thời gian ấy Thượng tọa có cơ hội bình tâm suy xét lại về giá trị của những hành động mình đã làm.
Được thông báo có Thượng tọa Devadatta xin được gặp, Phật liền trở về tịnh thất. Phật bảo đặt Thượng tọa lên giường của mình, rồi đến bên cạnh an ủi :
–Thầy bệnh như thế đã bao lâu rồi ? Bấy lâu nay Như Lai thường mong được gặp thầy.
Thượng tọa Devadatta yếu lắm, không ngồi dậy được. Thượng tọa cũng không nói được nhiều, chỉ nhìn Phật rồi cố gắng chấp tay lại nói thều thào :
–Con xin về nương tựa Phật.
–Tốt lắm, thầy nên an nghỉ.
Phật đặt tay lên trán Devadatta để an ủi Thượng tọa. Đến chiều hôm ấy Thượng tọa qua đời[23]. Phật nói với các vị khất sĩ : Devadatta vì tham danh, tham lợi nên tạo nhiều nghiệp ác, bị đọa địa ngục A-tỳ (Avici)[24]; nhưng nhờ nghiệp lành xuất gia nên sau một trăm ngàn kiếp sẽ tái sanh thành Bích Chi Phật (Pacceka-Buddha) hiệu Atthissara.
Sứ giả của Ajàtasattu thỉnh ý Phật về việc cử binh đánh xứ Vajji[25]
Sau lễ trà tỳ nhục thân của Thượng tọa Devadatta, đức Phật đang sắp sửa du hành về phương bắc thì có quan đại thần Vassakàra, thừa lệnh vua Ajàtasattu, đến xin thỉnh ý Phật. Đại thần Vassakàra thuộc dòng Bà-la-môn. Ông đến đảnh lễ Phật, rồi trình bày ý vua và triều đình muốn cử binh đánh nước Vajji ở phía bắc sông Gangà để củng cố bờ cõi phương bắc, đồng thời phát triển giao thông và kinh tế trong xứ. Thay vì đáp lời sứ thần Vassakàra, đức Phật quay lại hỏi Thượng tọa Ànanda đang đứng quạt sau lưng Phật :
–Này Ànanda, thầy có nghe dân Vajji[26]thường hay hội họp đông đảo để bàn bạc chính sự không ?
–Bạch Thế Tôn, con nghe nói dân Vajji thường cùng nhau hội họp đông đảo để đàm luận về chính sự.
–Vậy thì nước Vajji vẫn còn cường thịnh. Ànanda, thầy có biết khi họ hội họp với nhau để đàm luận, họ có đoàn kết một lòng một dạ với nhau không ?
–Bạch Thế Tôn, con nghe họ rất hòa thuận và đoàn kết với nhau.
–Vậy thì chắc chắn nước Vajji vẫn còn cường thịnh. Ànanda, dân Vajji có tôn trọng những pháp chế và luật lệ đã được ban hành không ?
–Bạch Thế Tôn, con nghe nói họ rất tôn trọng những pháp chế và luật lệ đã được ban hành.
–Vậy thì chắc chắn nước Vajji vẫn còn cường thịnh. Ànanda, dân Vajji có kính trọng và nghe lời những bậc tôn trưởng của họ không ?
–Bạch Thế Tôn, con nghe họ rất kính trọng và nghe lời các vị tôn trưởng của họ.
–Vậy thì nước họ vẫn còn cường thịnh. Ànanda, thầy có nghe trong nước họ có những vụ bạo động, trộm cướp, giết hại lẫn nhau không ?
–Bạch Thế Tôn, những vụ bạo động, trộm cướp, giết hại lẫn nhau rất ít khi xảy ra.
–Vậy thì nước Vajji vẫn còn cường thịnh. Ànanda, thầy có nghe dân Vajji còn biết bảo vệ tông miếu và di sản của tổ tiên họ không ?
–Bạch Thế Tôn, con nghe họ vẫn còn biết bảo vệ tông miếu và di sản của tổ tiên họ.
–Vậy thì, này Ànanda, nước Vajji vẫn còn cường thịnh. Thầy có nghe dân Vajji biết tôn kính, cúng dường và chịu học hỏi theo các thánh nhân tu sĩ không ?
–Bạch Thế Tôn, cho đến ngày nay họ vẫn rất tôn kính, thường cúng dường và thích học hỏi với các thánh nhân tu sĩ.
–Này Ànanda, vậy thì chắc chắn nước Vajji vẫn còn cường thịnh, chưa bị suy đồi. Khi xưa Như Lai đã từng có dịp chỉ dạy cho giới lãnh đạo ở Vesàlì về bảy yếu tố giữ gìn cho quốc gia không bị suy thoái, gọi là Thất Bất Thoái Pháp. Bảy điều đó là :
1/ Chuyên cần hội họp;
2/ Hòa thuận và đoàn kết;
3/ Tôn trọng luật lệ đã ban hành;
4/ Kính trọng và nghe lời các bậc tôn trưởng;
5/ Không bạo động với cấp trên hoặc hiếp đáp cấp dưới;
6/ Biết bảo vệ di sản của tổ tiên;
7/ Tôn kính và học hỏi với các vị hiền thánh.
“Ànanda, thì ra đến ngày nay họ vẫn còn thi hành bảy phép bất thoái ấy. Vì vậy Như Lai nghĩ rằng nước Vajji vẫn còn cường thịnh, chưa bị suy yếu. Nước Magadha dù có binh hùng tướng mạnh cũng khó đánh chiếm được.
Đại thần Vassakàra nói :
–Bạch Thế Tôn, dân Vajji chỉ cần thực hành một vài điều trong bảy điều Phật dạy cũng đủ làm cho nước họ cường thịnh rồi, huống chi họ thực hành cả bảy pháp Bất Thoái. Thưa Thế Tôn, con nghĩ vua Ajàtasattu không thể thắng được dân Vajji bằng vũ lực đâu. Vua chỉ có thể thắng họ nếu gieo được mầm móng chia rẽ trong giới lãnh đạo của họ. Con xin cảm tạ Thế Tôn và xin lui bước về triều phục lệnh.
Sau khi đại thần Vassakàra rút lui, Phật than thở với Ànanda :
–Vị đại thần này có nhiều mưu chước lắm. Chắc trong tương lai Ajàtasattu sẽ cử binh đánh chiếm nước Vajji.
Phật dạy Bảy Pháp Bất Thoái để giữ gìn Chánh Pháp[27]
Chiều hôm ấy, Phật bảo thầy Ànanda cho triệu tập tất cả các vị khất sĩ có mặt ở thủ đô Ràjagaha và trong các vùng phụ cận về Griddhakùta (Linh Thứu).
Trong vòng ba ngày đã có gần hai ngàn khất sĩ nam nữ quy tụ về vùng núi Griddhakùta. Màu áo cà-sa vàng rực rỡ tràn ngập cả ngọn đồi. Từ xa nhìn lại, người ta có cảm tưởng núi Griddhakùta là một cụm hoa cúc vàng vĩ đại.
Vào khoảng bốn giờ chiều, mặt trời vừa xế bóng, đức Phật đứng trên đỉnh Griddhakùta nhìn xuống, ngài cất tiếng chào hỏi các vị khất sĩ, giọng ngài trong trẻo và vang xa như tiếng chuông đồng, ngài nói :
–Này các thầy, Như Lai đã lớn tuổi rồi, sức khỏe của Như Lai đã suy giảm, không còn được như xưa, nên hôm nay Như Lai mời các thầy tập họp về đây để chỉ cho các thầy bảy phương pháp để giữ gìn cho Chánh Pháp và Giáo Đoàn không bị suy thoái. Các thầy hãy lắng nghe cho kỹ.
1- Thứ nhất là các thầy nên thường xuyên gặp mặt nhau trong các buổi hội họp đông đủ để cùng nhau học hỏi và luận bàn về Chánh Pháp.
2- Thứ hai là các thầy nên tới họp với tinh thần hòa hợp và đoàn kết, và lúc chia tay nhau cũng với tinh thần hòa hợp và đoàn kết.
3- Thứ ba là phải cùng nhau tôn trọng và sống theo tinh thần pháp chế và giới luật đã được ban hành.
4- Thứ tư là biết tôn trọng và vâng lời các bậc trưởng lão có đạo đức và kinh nghiệm trong giáo đoàn.
5- Thứ năm là có một nếp sống thanh đạm và giản dị, đừng để bị lôi cuốn vào tham dục.
6- Thứ sáu là biết quý trọng sự im lặng.
7- Thứ bảy là biết an trú trong chánh niệm để thực hiện an lạc và giải thoát, làm chỗ nương tựa cho các bạn đồng tu.
“Này các thầy, chừng nào mà Bảy Pháp Bất Thoái nói trên còn được thực hành đúng đắn thì Chánh Pháp còn được hưng thịnh và giáo đoàn không bị suy thoái. Không một yếu tố nào bên ngoài có thể phá hoại được giáo đoàn. Chỉ có những phần tử bên trong giáo đoàn mới làm cho giáo đoàn tan rã mà thôi.
“Này các thầy, khi con sư tử chúa chốn sơn lâm ngã quỵ, không có một loài nào dám đến ăn thịt nó. Chỉ có những con ký sinh trùng phát sinh từ bên trong cơ thể của sư tử mới ăn thịt được sư tử mà thôi. Các vị hãy bảo vệ Chánh Pháp bằng cách sống theo Bảy Pháp Bất Thoái, đừng bao giờ tự biến mình thành loài côn trùng trong cơ thể của con sư tử.”
Sau khi giảng về bảy pháp bất thoái, Phật dặn dò các vị khất sĩ không nên bỏ phí thì giờ quý báu của mình vào các câu chuyện phiếm hoặc những cuộc hý luận vô bổ, đừng lười biếng, đừng chạy theo danh lợi và tham dục, đừng thân cận với những người xấu ác, đừng tự mãn với những kiến thức và trình độ chứng đắc thấp thỏi; trái lại nên thân cận với những vị khất sĩ có nhiều kinh nghiệm, với những thiện tri thức để học hỏi thêm về Bát Chánh Đạovì đó là kho tàng tri kiến vô tận của chư Phật.
Phật nhắc lại giáo lý về bảy yếu tố giác ngộ (Thất Giác Chihay Thất Bồ-Đề Phần) như con đường mà mỗi vị khất sĩ đều phải đi: Niệm, Trạch pháp, Tinh tấn, Hỷ, Khinh an, Định, Xả. Rồi Phật nhắc nhở các vị khất sĩ còn sơ cơ nên tinh cần thực hành bốn phép quán (Tứ Niệm Xứ): Thân bất tịnh, Thọ là khổ, Tâm vô thường, Pháp vô ngã; và sáu phép thiền (Lục Diệu Pháp Môn): Sổ, Tùy, Chỉ, Quán, Hoàn, Tịnh[28]. Cuối cùng Đức Phật nhắc đến Ba Vô Lậu Học là Giới Định Tuệvà Ba Cửa Giải Thoát là Vô Thường, Vô Ngã, Niết Bànlà mật ấn của chư Phật để đạt đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Gần hai ngàn vị khất sĩ rất sung sướng được sống với Phật mười ngày trên núi Griddhakùta, và mỗi ngày được nghe chính từ kim khẩu đức Phật nhắc nhở và tóm lược những điều ngài đã dạy và chỉ điểm thêm những chỗ khó hiểu. Họ cư trú khắp nơi trên núi Griddhakùta và vùng lân cận, nơi cội cây, hang đá, am thất, khe suối, một số đông cư trú trong vườn xoài của y sĩ Jìvaka. Đến ngày thứ mười, Phật từ giã các vị khất sĩ, khuyên họ trở về trú xứ để hành đạo, chỉ có các vị thường trú tại Linh Thứu còn ở lại mà thôi.
Các vị khất sĩ đi rồi, Phật đứng thật lâu trên đỉnh núi nhìn khắp phong cảnh tĩnh mịch của rừng núi chung quanh. Mặt trời lần lần khuất bóng sau ngọn núi phía tây. Phật bảo Thượng tọa Ànanda :
–Này Ànanda, ngày mai chúng ta sẽ đi Venuvana (Trúc Lâm).
Sàriputta ca ngợi Phật[29]
Sau khi thăm viếng tinh xá Venuvana trong hai ngày, Phật từ giã thủ đô Ràjagaha đi về khu lâm viên Ambalatthikà. Ambalatthikà xưa kia cũng là một nơi nghỉ mát của vua Bimbisàra; về sau, Phật và các vị khất sĩ, trên đường đi Nàlandà, thường ghé nghỉ chân. Hai thầy trò Sàriputta và Ràhula ngày xưa cũng thường cư trú tại đây. Sau khi thăm viếng và ủy lạo các vị khất sĩ, Phật rời Ambalatthikà đi Nàlandà. Đoàn khất sĩ đi theo Phật có chừng một trăm vị. Các Thượng tọa Ànanda, Sàriputta và Anuruddha theo sát bên Phật. Tới Nàlandà, Phật nghỉ ở vườn xoài Pàvàrika. Sáng ngày hôm sau Thượng tọa Sàriputta đến ngồi im lặng bên Phật hồi lâu rồi bỗng nhiên Thượng tọa mở lời:
–Bạch Thế Tôn, con thiết nghĩ trong quá khứ, trong hiện tại và trong cả tương lai, không thễ có một vị sa môn hay Bà-la-môn nào có được trí tuệ và sự chứng đắc siêu việt hơn Thế Tôn.
–Này Sàriputta, lời nói đó của thầy thật là táo bạo. Thầy đã gặp và đã biết tất cả các bậc giác ngộ trong quá khứ, trong hiện tại và trong tương lai chưa mà dám nói như thế ?
–Bạch Thế Tôn, làm gì mà con gặp được tất cả các bậc giác ngộ trong ba đời. Nhưng có một điều con biết chắc là con sống thân cận với Thế Tôn đã trên bốn mươi năm. Không những con được nghe lời Thế Tôn dạy dỗ về phương pháp đoạn trừ năm triền cái, an trú tâm trên bốn niệm xứ, tu tập bảy giác chi, mà con còn được nhìn thấy Thế Tôn sống như thế nào. Quả thật Thế Tôn đã sống thường trực trong tỉnh thức và chánh niệm. Sáu căn được Thế Tôn hộ trì một cách tuyệt hảo. Không bao giờ có một vết nhỏ của năm thứ che ngăn (nivarana, triền cái) là tham dục, oán giận, hôn trầm, trạo cử và hoài nghi được nhận thấy trong sinh hoạt hằng ngày của Thế Tôn. Vì thế con nghĩ rằng các bậc thánh nhân trong quá khứ, hiện tại và tương lai, khi đạt tới sự giác ngộ cùng tột thì trí tuệ và sự chứng đắc cũng chỉ bằng Thế Tôn mà thôi, chứ làm sao cao hơn được. (Xem Trường Bộ 28)
–Này Sàriputta, thầy nên thường nhắc lại nhận xét của thầy để đánh tan sự hoài nghi và làm tăng trưởng đức tin cho những ai còn ngần ngại chưa quyết tâm theo Chánh pháp.
Tại Nàlandà, Phật giảng dạy thêm cho đại chúng về ba môn tu học chính yếu (tam vô lậu học) là Giới, Định và Tuệ. Phật bảo ba môn Giới, Định, Tuệ phải được tu tập song song với nhau thì kết quả mới được nhanh chóng.
Trước khi đức Phật rời Nàlandà để lên đường đi Pàtaligàma, Thượng tọa Sàriputta đã đến từ giã Phật để về quê thăm mẹ. Thượng tọa vừa được tin bà Rùpa Sari đang bệnh nặng, e khó qua khỏi. Năm nay bà đã trên trăm tuổi. Thượng tọa lạy Phật ba lạy rồi cùng chú sa di Cunda đi về làng Upatissa (Nàlaka), thuộc quận Nàlandà.
Cổng thành và bến đò Gotama tại Pàtaliputta[30]
Đến Pàtaligàma, đức Phật và các vị khất sĩ được rất nhiều giới cư sĩ ra đón tiếp và thỉnh về nhà nghỉ mát của họ để cúng dường và được nghe thuyết pháp. Đức Phật giảng về 5 điều nguy hiễm cho những ai không giữ giới (Tạng Luật, Đại Phẩm, tập 2: 68) và 5 điều lợi ích cho những ai giữ giới (Tạng Luật, Đại Phẩm, tập 2: 69): có tiền của dồi dào, được tiếng tốt đồn xa, tâm không sợ hãi bối rối, khi chết tâm được thanh tịnh, sẽ được tái sanh vào các cõi an lành.
Qua ngày hôm sau có hai vị đại thần xứ Magadha là Sunìdha và Vassakàra tới viếng Phật và thỉnh Phật đến nhà riêng thọ trai. Họ được vua Ajàtasattu phái tới đây để nghiên cứu và phát triển thành phố Pàtaligàma thành một đô thị lớn với tên mới là Pàtaliputta (hiện nay là Patna), vừa để phát triển kinh tế xứ Magadha, vừa làm thành trì ngăn chận sự xâm nhập của xứ Vajji. Sau khi Phật thọ trai xong, ngài nói bài kệ khuyên dạy như sau:
“Người sáng suốt đến ở chỗ nào
“Hãy nuôi dưỡng người giới đức phạm hạnh
“Và san sẽ công đức với Chư Thiên chỗ ấy.
“Được kính trọng, Chư Thiên sẽ kính trọng lại,
“Được thương mến, Chư Thiên sẽ thương mến lại,
“Và người ấy sẽ được nhiều may mắn với sự phò trợ của Chư Thiên.
(Tạng Luật, Đại Phẩm, tập 2: 72)
Hai vị đại thần vui mừng nói :
–Bạch Thế Tôn, hôm nay Sa môn Gotama ra khỏi thành bằng cổng nào thì cổng ấy sẽ mang tên là cổng Gotama; Sa môn Gotama đến bến đò nào để qua sông Gangà thì bến đò ấy sẽ mang tên là bến đò Gotama.
–Quý vị cứ tùy nghi. Pàtaliputta này sẽ trở nên một thị trấn thương mãi phồn thịnh, nhưng về sau sẽ không tránh khỏi một trong ba hiểm họa lớn là hỏa hoạn, ngập lụt hoặc chiến tranh. Quý vị nên sáng suốt, thận trọng và gieo trồng nhiều phước đức để được chư thiên phò trợ.
Sông Hằng mùa này nước dâng cao gần tới mé bờ. Hai vị đại thần cho gọi năm chiếc đò ngang lớn để đưa Phật[31]và giáo đoàn sang sông một lượt.
[1]Vua Suddhodana(Tịnh Phạn) băng hà vào năm -585, thọ 81 tuổi.
[2]Tỳ kheo Uruvelà Kassapa(Ưu Lầu Tần Loa Ca Diếp) nhập diệt vào khoảng năm -584, thọ 125 tuổi.
[3]Vua Suppabuddha(Thiện Giác Vương) băng hà vào năm -575.
[4]Vua Bimbisàra(Tần Bà Ta La, Bình Sa Vương) băng hà vào năm -553, thọ 66 tuổi.
[5]Ni sư Mahà Pajapati(Ma Ha Ba Xà Ba Đề) nhập diệt vào năm -548, thọ 117 tuổi.
[6]Thượng tọa Ràhula(La Hầu La) nhập diệt vào khoảng năm -547, thọ 48 tuổi.
[7]Vua Pasenadi(Ba Tư Nặc) băng hà vào năm -546, thọ 78 tuổi.
[8]Thượng tọa Moggallàna(Mục Kiền Liên) nhập diệt năm -546.
[9]Ni sư Yasodharà(Da Du Đà La) nhập diệt vào năm -546, thọ 78 tuổi.
[10]Thượng tọa Sàriputta(Xá Lợi Phất) nhập diệt năm -545.
[11]Xem Buddhist Legends, quyển II, trang 43; Trung Bộ 89: kinh Dhammacetiya; Tăng Chi Bộ, chương 10 pháp, kinh 30: Kosala; Tiểu Bộ, Jàtaka 465; Trung A Hàm 213.
[12]Hoàng tử Virudhaka (Vidùdabha)vừa được 26 tuổi, là con của vua Pasenadi với thứ hậu Visabhaksatriya, con gái của vua Mahànàma với một người tỳ nữ.
[13]Hai câu hỏi trên đây trích trong The Life of Buddha as Legend and History, trang 213. Xem Trung Bộ 90: kinh Kannakatthala.
[14]Xem Trung Bộ (Majjhima nikàya) 89: kinh Dhammacetiya.
[15]Xem Buddhist Legends, quyển II, trang 43-46; Tiểu Bộ, Jàtaka 465: Bhadda Sàla; Tăng Nhất A Hàm 26, 266; Tỳ-nại-da Tạp Sự 7; Luật Ngũ Phần 21; Luật Tứ Phần 41; Kinh Đại Bát Niết Bàn, phẩm Phạm hạnh, trang 427.
[16]Theo Tiểu Bộ, Jàtaka 465, thì lúc 7 tuổi, Vidùdabha xin phép cha mẹ về Kapilavatthu thăm ông bà ngoại, mong được cưng chìu và cho quà. Gặp lúc triều đình đang lập trai đàn thỉnh Phật thuyết pháp, Vidùdabha leo lên pháp tòa ngồi chơi, bị những người Sàkya mắng là "kẻ nô tỳ mà dám to gan", đuổi đi, rồi dùng nước và sữa để tẩy sạch pháp tòa. Vidùdabha tức giận lắm, nguyện sau này sẽ dùng máu của dòng họ Sàkya để tẩy sạch ghế của mình.
[17]Vua Mahànàma là ông ngoại của vua Vidùdabha.
[18]Sau khi vua Vidùdabha chết vì thủy tai, những người dòng Sàkya tụ họp lại thành lập Kapilavatthu 2, hiện nay ở làng Piprawa thuộc Ấn Độ. Kapilavatthu 1 hiện nay ở làng Tilaurakot thuộc Nepal.
[19]Có tài liệu cho rằng Vidùdabha bắt 500 cô gái xinh đẹp dòng Sàkya để vui thú . Bị chống cự mãnh liệt, ông ta tức giận sai chặt hết tay chân rồi ném xuống hầm. Khi đức Phật và các vị Tỳ kheo đến nơi, Phật thuyết pháp cho 500 cô gái bị nạn nghe, khiến họ đều được pháp nhãn thanh tịnh và được sanh lên cõi trời. Lại có tài liệu nói rằng trong khi Kapilavatthu đang bị tấn công, Thượng tọa Moggallàna dùng thần thông hiện đến cứu một số người ưu tú dòng Sàkya, để vào bình bát bay đi, nhưng đến khi mở nắp bình bát ra thì chỉ thấy toàn là máu.
[20]Xem The Life of Buddha as Legend and History, trang 141-142; Buddhist Legends, quyển II, trang 304-308; Tiểu Bộ, Jàtaka 95 và 522.
[21]Xem Buddhist Legends, quyển II, trang 306-308.
[22]Xem Đường Xưa Mây Trắng, trang 544.
[23]Theo Tiểu Bộ, Jàtaka 466 (kinh Samudda Vànijà) thì sau khi hai thượng tọa Sàriputta và Moggallàna đến Gayàsìsa đưa các Tỳ kheo lạc đường trở về với Phật, Devadàtta lại bị vua Ajàtasattu và dân chúng bỏ rơi, nên cảm thấy bơ vơ lạc lõng và mang bệnh nặng bèn nhờ hai đệ tử còn lại khiên đến Jetavana để xin sám hối với Phật, không dè vừa đến gần cổng tinh xá thì bị sụp hố chết, tức bị đất nuốt rơi vào địa ngục Avìci (Jàtaka 150, 240, 422 và 457). Hiện nay gần cổng tinh xá Jetavana còn di tích "ao nước Devadàtta" (Devadatta's pond). Theo kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì Phật thọ ký cho Devadàtta sẽ thành Phật hiệu là Devaràja.
[24]Xem Trung Bộ (Majjhima nikàya) 29: kinh Mahà Saropama.
[25]Xem Trường Bộ 16; Trường A Hàm 2; Tăng Chi Bộ, chương 7 pháp, kinh 20: Vassakàra.
[26]Xứ Vajji thời bấy giờ đã có thể chế Dân Chủ Cộng Hòa rất tốt đẹp; tổng thống Cedaga Licchavi và các chức sắc trong xứ đều do dân cử bằng cách phổ thông đầu phiếu.
[27]Xem Tăng Chi Bộ, chương 7 pháp, kinh 21: Vị Tỳ-kheo.
[28]Lục Diệu Pháp Môn: Sổlà phép đếm hơi thở để trừ phiền não; dùng tâm điều khiển hơi thở vào, ngưng, ra, đếm một ... Tùylà để hơi thở tự do ra vào nhẹ nhàng, không đếm, nhưng để tâm theo dõi để biết lúc nào thở ra, lúc nào thở vào, lúc nào ngưng. Chỉlà dừng vọng tưởng bằng cách tập trung tư tưởng vào một nơi trên cơ thể như đỉnh đầu, tam tinh, chóp mũi, tim, rún, lòng bàn tay. Quánlà suy nghĩ trong yên lặng để tìm thật tướng, thật tánh, thật thể của sự vật (các pháp) để trừ vọng tưởng và phiền não. Hoànlà quán sát tâm mình xem đã hết vọng tưởng và phiền não chưa. Tịnhlà xả hết, không chỉ không quán, để tâm an nhiên thanh tịnh, không nghĩ tưởng. Trong khi thực hành Chỉ mà có vọng tưởng nổi lên thì dùng Quán để trừ. Xong rồi thực hành Hoàn để xem tâm mình đã hết vọng tưởng đó chưa. Nếu hết thì chuyển sang Tịnh (Xả), nếu còn thì tiếp tục dùng Quán để trừ.
[29]Xem Trường Bộ (Dìgha nikàya) 28: kinh Sampasadaniya; Trường Bộ 16: kinh Mahà Parinibbàna; Trường A Hàm 2: kinh Du Hành; Tương Ưng Bộ, chương 47, kinh 12: Nàlandà; Đường Xưa Mây Trắng, trang 548-549.
[30]Xem Tiểu Bộ, Udàna VIII.6; Tạng Luật, Đại Phẩm, tập 2: 71-74; The Life of Buddha as Legend and History, trang 143.
[31]Theo kinh Trường Bộ 16, kinh Udàna VIII.6, Tạng Luật (Đại Phẩm, tập 2: 74) thì đức Phật dùng thần thông cùng chư đệ tử sang sông trong lúc hai vị đại thần đang chuẩn bị đò.