Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

07. Đức Phật thành đạo

01/03/201420:12(Xem: 22086)
07. Đức Phật thành đạo
phatthichca2


Sự Tích Đức Phật Thích Ca
Soạn giả : Minh Thiện Trần Hữu Danh

(Ấn bản 09/2010, có hiệu chính và bổ túc)



E- ĐỨC PHẬT THÀNH ĐẠO

Năm 29 tuổi (-595) thái tử Siddhattha rời bỏ hoàng cung, đến bờ sông Anomà thuộc làng Anupiya, xứ Malla, tham vấn ông Bhargava đang tu khổ hạnh; kế đến một làng gần thủ đô Vesàlì, xứ Vajji (Bạt Kỳ), học với vị đạo sư thứ nhất là Àlàra Kàlàma, đạt đến bậc thiền Vô Sở Hữu Xứ. Rồi ngài lại đến Ràjagaha (Vương Xá), thủ đô xứ Magadha (Ma Kiệt Đà), học với vị đạo sư thứ hai là Uddaka Ràmaputta về bậc thiền Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Chỉ độ vài ngày đã học hết sở học của thầy. Nhưng chưa được thỏa mãn với trình độ chứng ngộ đó, ngài đến làng Uruvelà bên bờ sông Neranjana chuyên tu khổ hạnh trong 6 năm nữa. Sau đó ngài lại bỏ lối tu khổ hạnh để lập ra pháp tu trung đạo, và 49 ngày sau, ngài thành đạo dưới cội cây Bồ-đề.

1- Chọn lối tu trung đạo[1]

Năm 589 trước tây lịch, sa môn GOTAMA được 35 tuổi, trong lúc thân thể suy nhược cùng cực, ngài nhận thấy lối tu khổ hạnh chỉ giúp người Tu diệt trừ các dục vọng, làm chủ các đòi hỏi của thân xác; nhưng với thân thể suy yếu, tâm thức không thể đạt đến giác ngộ hoàn toàn. Từ chỗ ngồi, ngài loạng choạng đứng lên, cử động và nắn bóp tay chân cho đỡ tê, râu tóc và quần áo mục nát trên thân ngài rơi lả tả xuống đất. Ngài tìm đến một bãi tha ma gần đó lượm một bộ y phục, xuống sông giặt giũ, tắm rửa, rồi mặc vào, đi lần vào xóm khất thực.

Từ nay ngài áp dụng lối tu trung đạo, không quá hành xác cũng không quá buông lung, chỉ ăn uống vừa đủ cho có sức khoẻ để giữ cho tinh thần được sáng suốt. Ngài bắt đầu phân định giờ giấc tham thiền, khất thực, độ ngọ, kinh hành, nghỉ ngơi, nhưng vẫn giữ "tam thường bất túc" nghĩa là ba thứ ăn, ngủ và nghỉ không được quá đầy đủ mà phải hơi thiếu. Năm anh em ông Kondanna thấy vậy cho rằng ngài đã thối chí ngã lòng trong việc tu tập, quay về đời sống lợi dưỡng, nên cùng nhau rời ngài đi đến Vườn Nai (Lộc Uyển, Migadaya) tại làng Isipatana, hiện nay là Sarnath, cách làng Uruvelà quận Gayà khoảng 204 km về hướng tây-tây-bắc tiếp tục tu khổ hạnh. Thành phố Sarnath cách thành phố lớn Varanasi (tên cũ là Benares) 10 km về hướng bắc.

Sa môn Gotama, trong sáu năm tu khổ hạnh, rất nhờ sự giúp đỡ tận tình của năm anh em ông Kondanna về tinh thần cũng như vật chất. Bây giờ còn lại một mình, trong cảnh cô đơn, ngài phải tự giải quyết những vấn đề phức tạp, khó khăn, từ lớn đến nhỏ, nhưng ngài không nản chí ngã lòng. Ngài thường đến bờ sông Neranjana (Ni Liên Thiền, hiện nay là sông Phalgu) ngồi thiền định trên bãi cát. Một hôm, có hai cô bé chăn bò tên Nandà và Bala[2]đang dắt bò xuống sông tắm. Hai cô thấy sa môn Gotama y phục tả tơi, thân thể gầy yếu, nhưng nét mặt trang nghiêm, hiền lành, thanh thoát, đang ngồi thiền định, thì sanh lòng kính mến liền lựa một con bò cái thật tốt, tắm rửa cho nó sạch sẽ rồi tự tay vắt lấy sữa, nấu chín, tới nơi thành kính quỳ gối dâng lên. Sa môn Gotama nhận sữa rồi chú nguyện rằng :

Tôi vì lòng độ sinh nên dùng món ăn này, nguyện được khí lực khoẻ mạnh; người dâng cúng đời đời được thức ăn ngon, thân thể hùng tráng, được tâm từ, bi, hỷ, xả, an lạc, không tật bệnh, sống lâu, giàu bền, trí tuệ đầy đủ.

Chú nguyện xong, ăn rồi, ngài cảm thấy thân thể khỏe mạnh, khí lực sung túc. Ngài thầm nghĩ rằng : “Sáu năm khổ hạnh, áo rách tả tơi, vậy ta nên đổi tấm áo phẩn tảo[3]này”. Sa môn Gotama đi lần xuống sông Neranjana giặt áo, tắm rửa vừa xong thì có vị trời Tịnh Cư dâng áo cà-sa cúng dường. Sa môn Gotama bỏ áo phẩn tảo, mặc áo cà-sa rồi từ từ đi tới mé rừng, tìm một cội cây mát mẻ để ngồi thiền định. Thông thường ngài nằm nghỉ từ canh ba đến canh năm dưới một cội cây. Khi sao mai vừa ló dạng, ngài thức dậy, xuống sông rửa mặt rồi tìm nơi ngồi thiền định. Đến giờ tỵ ngài đi khất thực trong xóm làng gần đó. Sau khi độ ngọ xong, ngài đi kinh hành, xuống sông tắm, rồi lại tìm nơi mát mẻ ngồi thiền định.

2- Đêm thành đạo[4](năm -589)

Đến ngày thứ 49 kể từ lúc năm anh em ông Kondanna bỏ đi, trong lúc ngài đang ngồi thiền định dưới gốc cây cổ thụ Ajapàla[5](cách cây Bồ-đề độ 100m về hướng đông, hiện nay có dựng bảng kỷ niệm gần cổng vào Bồ Đề Đạo Tràng), sắp đi khất thực, thì có hai chị em nàng Sujàtà, con ông xã trưởng Senànì, mang bát cháo sữa (kheer) đến cúng vị Thần gốc cây để tạ ơn vị Thần đã giúp người chị toại nguyện theo lời khấn vái cầu con trước đây. Thấy sa môn Gotama tướng mạo trang nghiêm tươi sáng đang tĩnh tọa, hai nàng tưởng là vị Thần hiện ra nhận lễ vật nên hai nàng đặt bát cháo sữa bằng vàng trước mặt sa môn Gotama, cung kính đảnh lễ rồi ra về.

Sau khi ăn xong bát cháo sữa[6], sa môn Gotama thấy cơ thể khoẻ mạnh lạ thường nên không đi khất thực mà chỉ đi kinh hành trong chốc lát rồi xuống sông Neranjana tắm. Ngài nhận thấy thân mình hôm nay trở nên vô cùng tươi sáng, đầy đủ 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp, da màu vàng ròng rực rỡ. Ngài vô cùng phấn khởi, sau khi rửa bát xong, ngài để cái bát bằng vàng trên dòng nước và nguyện rằng : “Nếu hôm nay ta được chứng quả thành Phật, thì nguyện cho cái bát nầy nổi trên mặt nước và trôi ngược lại dòng sông”. Quả nhiên cái bát vàng nổi phêu trên mặt nước và trôi ngược lại dòng sông 80 sải tay, đến khi gặp phải một xoáy nước mạnh thì chìm xuống đáy sông. Sa môn Gotama hăng hái đi trở lên bờ, đến cây Pippala[7](ficus religiosa, cây Bồ-đề) to lớn, cành lá sum-sê. Nơi đây rất thích hợp cho việc thiền định, vừa có bóng mát, vừa khoảng khoát sáng sủa, có rừng cây phía sau lưng, có con sông chảy ngang trước mặt với bãi cát vàng rộng lớn, phong cảnh thật thanh nhàn. Đến trước cội cây, ngài thầm nghĩ : “Dưới cội cây nầy, làm thế nào có một tòa ngồi cho yên tĩnh trang nghiêm”. Bỗng thấy một em bé gánh cỏ đi ngang qua gần đó, sa môn Gotama gọi lại hỏi xin một mớ cỏ để làm tòa ngồi. Em bé vui vẻ và cung kính dâng ngài tám bó cỏ sắc (kusha) mềm mại như lông cổ chim công, mùi thơm ngào ngạt. Ngài cám ơn và hỏi :

Cháu tên gì ? Năm nay cháu mấy tuổi ?

Thưa ông, cháu tên Sotthiya Svastika (Cát Tường). Năm nay cháu được 9 tuổi. Mà ông xin cỏ để làm gì ? Bộ ông có nuôi trâu bò hả ?

Không phải, tôi đã xuất gia đi tu, đâu có nuôi trâu bò gì. Tôi chỉ xin cỏ để chêm ngồi cho êm và thẳng lưng để có thể ngồi lâu được. Tôi chỉ mong được giác ngộ thành Phật để cứu độ chúng sinh khỏi mọi đau khổ ở đời.

Thưa ông, bộ ngồi lâu trên đống cỏ thì sẽ được giác ngộ thành Phật hả?

Không phải vậy đâu cháu. Ngồi kiết già, lưng thẳng đứng chỉ là phương tiện giúp cho sự thực hành Chỉ Quán chóng đạt đến Định Tuệ. Nhưng muốn giác ngộ thành Phật còn phải thực hành đầy đủ các hạnh Từ Bi Hỷ Xả nữa mới được. Nếu cháu muốn học thì khi cháu lớn lên và tôi đã thành đạo rồi, tôi sẽ dạy cho. Hôm nay, tôi vì chúng sinh đau khổ, nguyện ngồi dưới gốc cây này cho đến khi chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nếu chưa toại nguyện thì dù máu cạn thịt khô quyết không đứng lên.[8]

Nói rồi, ngài xấp cỏ thành tọa cụ và bồ đoàn[9], ngồi kiết già, lưng thẳng đứng hướng về phía gốc cây, mặt hơi cúi xuống nhìn về hướng đông, phía bờ sông Neranjana. Tức thì thế giới chấn động sáu lần, làm rung chuyển cả trời đất. Trên không trung từng đàn chim vui mừng bay liệng, trong cành lá đủ giọng hót thánh thót líu lo, tám bộ chúng trời rồng[10]mang hương hoa đến múa hát và hòa tấu nhạc khúc cúng dường.

Bồ tát Gotama ngồi trên tòa cỏ, đầy đủ thế lực hùng mạnh như sư tử; trí tuệ sáng suốt như vừng thái dương. Ngài bắt đầu thực hành các pháp thiền định (Jhana, Dhyàna, Như Lai thiền) theo thứ lớp từ thấp lên cao như sau[11]:

1- Quán niệm hơi thở(Ànàpàna sati) để thanh lọc và ổn định thân tâm, đoạn trừ năm triền cái[12].

2- Khởi tâm lìa ái dục và vọng tưởng, dùng 5 thiền chi[13]là Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc, Nhất tâm để nhập Ly Sanh Hỷ Lạc Địa, an trú sơ thiền.

3- Xuất sơ thiền, bỏ Tầm và Tứ. Khởi tâm Hỷ Lạc, nội tĩnh nhất tâm, nhập Định Sanh Hỷ Lạc Địa, an trú nhị thiền.

4- Xuất nhị thiền, ly Hỷ trú Xả. Chánh niệm tĩnh giác, xả niệm Lạc trú, nhập Ly Hỷ Diệu Lạc Địa, an trú tam thiền.

5- Xuất tam thiền, xả Lạc, xả Khổ, ly Hỷ Ưu. Khởi tâm an nhiên thanh tịnh, bình đẳng trước ngoại cảnh, nhập Xả Niệm Thanh Tịnh Địa, an trú tứ thiền.

6- Xuất tứ thiền. Vượt khỏi sắc tưởng, đoạn diệt hữu đối tưởng, không tác ý với dị tưởng, quán thân mình hòa tan vào cõi hư vô không biên giới để nhập Không Vô Biên Xứđịnh (Akasanantya yatana). An trú Thân Không.

7- Xuất Không Vô Biên Xứ định. Vượt khỏi Không Vô Biên Xứ, quán thân mình không còn, chỉ còn cái tâm thức vô biên mà thôi để nhập Thức Vô Biên Xứđịnh (Vijnanantya yatana). An trú Thức Không.

8- Xuất Thức Vô Biên Xứ định. Vượt khỏi Thức Vô Biên Xứ, quán tất cả sự vật đều không, vô sở hữu, vô sở đắc, vô sở dụng, để nhập Vô Sở Hữu Xứđịnh (Àkincannà yatana). An trú Pháp Không.

9- Xuất Vô Sở Hữu Xứ định. Vượt khỏi Vô Sở Hữu Xứ, quán thân, tâm mình và toàn thể vạn vật đều không, chỉ còn cái tri giác biết không, không còn gì để nghĩ tưởng, để nhập Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứđịnh (N'eva sanna nasanna yatana). An trú Tưởng Không.

10- Rồi nhân lúc tinh thần sảng khoái, định lực kiên cố, chí cả quyết thành, ngài được tri giác khai thông, nhập Đại định, thấy rõ năm uẩn[14]đều không, mười tám giới[15]chẳng có, ngã chấp tiêu tan, được Ngã Không, đi vào Diệt Thọ Tưởngđịnh (Nirodha Samàpatti)[16], chứng được Phương Quảng Thần Thông Du Hý, Thủ Lăng Nghiêm định, đầy đủ đức tướng trang nghiêm, đảnh phóng đại quang minh chiếu khắp mười phương Phật quốc, khiến cho trời, người vui vẻ, địa ngục sáng choang, Ma Vương kinh sợ.

Bấy giờ từ giữa hai chặng lông mày, Bồ tát phóng ra một đại đạo hào quang, chiếu tới cung điện của Ma Vương[17], làm át mất ánh sáng trên thiên cung (Tha Hóa Tự Tại thiên). Ma Vương biết Bồ tát sắp thành đạo Bồ-đề, triệu tập tất cả họ hàng, thiên ma, thiên binh, thiên tướng đến, dạy rằng :

Hiện nay có một người dòng Sàkya sắp thành đạo vô thượng tại Gayà ở cõi Diêm-phù-đề (Jambudipa, Ấn Độ). Chúng ta phải mau đem binh tướng đến nơi, phá hoại cho bằng được, nếu không thì cung điện của chúng ta sẽ sụp đổ, uy thế và quyền lợi của chúng ta sẽ lần hồi mất hết.

Kính lạy Phụ vương, con của Ma Vương là Thương Chủ thưa, xin Phụ vương chớ đem lòng thù oán với Bồ tát Gotama, mà làm những điều ác nghịch với ngài, con e cha hối không kịp, xin cha hãy nghĩ lại.

Chà ! Con còn nhỏ, chưa từng biết sức thần thông biến hóa của cha, con đừng xen vào quyết định của cha.

Thưa cha, chẳng phải con không biết thần thông uy lực của cha, trái lại chính cha chưa rõ thần thông, phúc đức, oai lực rộng lớn của Bồ tát Gotama. Nếu cha không tin, lúc đến nơi cha sẽ biết.

Thôi đi ! Đừng nói nữa ! Cha là Vị Trời tối cao ở cõi Dục này. Tất cả đều phải chết dưới uy lực của cha. Ái dục, tham lam, giận tức, si mê là vũ khí sắc bén của cha, không ai tránh khỏi. Con hãy xem đây.

Nói rồi Ma Vương Ba Tuần liền điều động bốn đạo thiên binh, thiên tướng, quyết đến nơi tiêu diệt vị sa môn sắp thành đạo. Hằng ngàn binh tướng, đầu trâu mặt ngựa, kỳ hình dị tướng, gầm thét vang trời, nổi mưa giông, sấm sét, ngập lụt, bắn tên, lửa, tro, than, đá, cát tới tấp như mưa. Nhưng Bồ tát Gotama vẫn ngồi yên bất động, không vật gì chạm được đến mình Bồ tát. Ngài nói :

Này Ma Ba Tuần, kiếp trước ngươi đã từng làm chủ một ngôi chùa, thọ tám giới, mỗi ngày cúng một bát cơm cho một vị Bích Chi Phật. Nhân phúc đức ấy nên được sanh về cõi trời Tha Hóa Tự Tại làm Đại Ma Vương. Còn ta đã từng cúng dường vô lượng chư Phật trong vô số kiếp, công đức không thể nghĩ bàn, thì ngươi làm sao hại ta được. Thôi, ngươi hãy đi đi, nếu còn ngoan cố, mất hết phước báo, sẽ bị đọa trong ba đường ác[18].

Này đạo sĩ Gotama, đừng khoác lác, chính nhờ những công đức tối thượng mà ta mới được làm Chúa Tể cõi Dục này. Tất cả mọi người ở thế gian đều biết. Còn ngươi chỉ là một đạo sĩ quèn, ngồi một mình dưới gốc cây, thì có công đức gì ? Ai làm chứng cho ngươi ?

Này Ma Ba Tuần, đại địa này là bà mẹ vô tư của muôn loài chúng sanh sẽ làm chứng cho ta.

Vừa nói Bồ tát Gotama vừa dũi tay phải chấm đầu ngón tay xuống đất. Đại địa bỗng chấn động sáu cách, tiếng đại hồng chung trong các đền thờ xung quanh ngân lên vang dội, một vùng đất lớn trước mặt Bồ tát nứt ra, vị Đại Địa thần Sthavara nhô nửa người lên khỏi mặt đất với đầy món trang sức quý báu trên mình, cung kính đảnh lễ trước Bồ tát và nói :

Kính thưa Đại Bồ tát, con xin làm chứng về vô lượng công đức không thể nghĩ bàn của Bồ tát trong quá khứ.

Nói xong, Địa thần trợn mắt nhìn Ma Vương, rồi rút mình xuống đất; mặt đất liền lại như cũ. Binh tướng của Ma Vương bỏ chạy tán loạn. Ma Vương vừa hoảng sợ vừa hổ thẹn vội rút binh về. Khi ấy con của Ma Vương là Thương Chủ hiện đến trước mặt Bồ tát Gotama, đảnh lễ sát đất và sám hối rằng :

Kính lạy Bồ tát ! Xin ngài từ bi hỷ xả, nhận lòng thành kính sám hối của con, tha thứ cho cha con là kẻ phàm ngu đã trót phạm tội não loạn Bồ tát. Chúng con xin cầu nguyện Bồ tát chóng thành đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Nhưng Ma Vương chưa chịu thua, quyết dùng độc kế cuối cùng. Vừa về đến thiên cung, liền gọi ba cô con gái đến bảo:

Các con hãy hóa trang và ăn mặc cho thật đẹp, xuống cõi Diêm-phù-đề, gặp sa môn dòng Sàkya đang ngồi nhập định dưới cội cây pippala gần thành phố Gayà, ra tài múa hát, trêu chọc, khêu gợi dục tình, khiến cho hắn mất hết thần thông, không thể thành đạo vô thượng có hại cho chúng ta[19].

Ba cô gái tên là Tanhà (Ái Dục), Arati (Bất Mãn) và Raga (Tham Vọng) nghe theo lời cha, hóa ra ba nàng tiên tuyệt đẹp, hình dung yểu điệu, nhan sắc xinh tươi, cùng nhau đi đến chỗ Bồ tát Gotama đang ngồi, giả đem hương hoa cúng dường, rồi múa hát, lần lần tìm cách gợi chuyện, trêu chọc, tỏ tình, quyến rủ. Nhưng Bồ tát vẫn ngồi an nhiên bất động, tâm trí bền vững như núi Tu Di (Sumeru). Ba cô thấy thế, ngạc nhiên, đến trước mặt Bồ tát xem ngài còn sống hay đã chết. Bồ tát bảo rằng :

Các ngươi đã trồng căn lành nhiều đời, nay được làm thiên nữ, hưởng phước báo nơi cõi trời, sao không nhớ thân này là vô thường, có ngày hoại diệt, còn có thái độ vô lễ đối với ta? Thân hình tuy đẹp mà tâm bất chính có khác chi cái túi da đựng đồ nhơ bẩn, lại đây làm chi, hãy đi đi, ta không dùng.

Nói rồi ngài đưa tay lên chỉ mặt, tự nhiên ba cô tiên biến dạng thành ba bà lão da nhăn, tóc bạc, lưng còng, loạng choạng đứng không vững. Ba cô hoảng sợ lật đật bỏ chạy về thiên cung trình lại với Ma Vương Ba Tuần.

Vua trời Đại Phạm (Brahmà), vua trời Đao Lợi (Sakka Indra, Thích Đề Hoàn Nhơn hay Đế Thích) và vô số các vị trời đứng đầy cả hư không, nhìn thấy Bồ tát Gotama hàng phục Ma Vương, ai nấy đều vui mừng, đồng thanh tán thán :

Hay lắm ! Hay lắm ! Chưa từng có ! Chưa từng có ! Bồ tát Gotama giờ đây đắc đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác !

Các vị trời vui mừng, tung hoa, rắc hương, tấu nhạc cúng dường.

Sau khi hàng phục Ma Vương xong, Bồ tát Gotama tiếp tục nhập Diệt Thọ Tưởng địnhvà bắt đầu cuộc chiến thắng vẻ vang trong trận giặc cuối cùng hết sức tế nhị và khó khăn gồm ba giai đoạn :

1- Tận diệt các vi tế phiền não(Kammavasa) còn ẩn náu trong tâm làm nghiệp nhân cho sanh tử luân hồi (Samsàra). Đến canh một đêm đó ngài toàn thắng trận giặc nầy và chứng Túc Mạng Minh(Pubbe nivasanussati nana): Ngài biết rõ tất cả các tiền kiếp của ngài, ở thời đại nào, tên gì, sanh trưởng trong gia đình nào, giai cấp nào, sinh sống ra sao, vui thích và đau khổ thế nào, chết cách nào, rồi tái sanh vào cảnh nào, vân vân ...

2- Tận diệt các vi tế vô minh(Avidyàsava). Đến canh ba ngài toàn thắng trận giặc nầy và chứng Thiên Nhãn Minh(Cutupapata nana): Ngài biết rõ tất cả sự biến chuyển của vạn vật qua các giai đoạn thành, trụ, hoại, không; và biết rõ chúng sanh ở thời đại nào, tên gì, sanh trưởng trong gia đình nào, giai cấp nào, sinh sống ra sao, vui thích và đau khổ thế nào, tạo nghiệp gì, chết cách nào, rồi tái sanh vào cảnh nào, vân vân ... Ngài biết rõ tất cả nhân duyên nghiệp báo của chúng sanh, từ đó suy ra luật Nhân Quả Luân Hồi.

3- Tìm ra phương cách giúp chúng sinh chấm dứt phiền não và vô minh, đạt đến giác ngộ hoàn toàn, thoát ra khỏi vòng sanh tử luân hồi. Đến canh năm, sao mai vừa ló dạng, vào ngày mồng tám tháng chạp âm lịch[20]năm Nhâm Thân (đầu năm -589), ngài chứng Lậu Tận Minh(Àsavakkhaya nana): Do đã biết rõ tất cả các tiền kiếp của chính bản thân mình và của mỗi chúng sinh, nên ngài nhận thấy rõ ràng đâu là khổ, đâu là nguyên nhân của khổ, đâu là hạnh phúc chân thật vĩnh cửu, và làm thế nào để đạt được hạnh phúc chân thật vĩnh cửu đó. Ngài đã tìm ra Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo).

Đức Phật liền đọc lên bài kệ đầu tiên sau khi thành đạo như sau :

Lang thang bao kiếp luân hồi,

Tìm hoài chẳng gặp kẻ xây cất nhà[21].

Tử sanh phiền não thật mà !

Này ông thợ chánh, ta đà thấy ông[22].

Chớ hòng xây cất, đừng mong,

Sườn nhà sụp nát, đòn dông[23]không còn.

Như Lai đạo quả đã tròn,

Ái dục dứt sạch, chẳng còn ngã nhơn.

(Kinh Pháp Cú, bài 153 và 154)

Bồ tát Gotama đã trở thành bậc toàn thiện toàn giác(accariya manussa), là bậc vô thượng chánh đẳng chánh giác(anuttara sammà sambodhi), là đức Phật Thích Ca Mâu Ni(Sàkyamuni Buddha). Ngài là bậc duy nhứt trong các cõi trời và cõi thế gian có đầy đủ mười đức hiệusau đây :

1- Như Lai= Thân tâm bất động, không dời đổi.

2- Ứng cúng= Xứng đáng nhận lãnh sự cúng dường của trời và người.

3- Chánh biến tri= Trí tuệ thông suốt. Hiểu biết tất cả đúng như thật.

4- Minh hạnh túc= Đầy đủ các hạnh cao thượng.

5- Thiện thệ= Đã làm đủ các hạnh nguyện cao thượng.

6- Thế gian giải= Biết giải thích tất cả mọi sự việc ở thế gian.

7- Vô thượng sĩ= Không còn ai cao quí hơn.

8- Điều ngự trượng phu= Có đầy đủ khả năng điều phục, chế ngự và chỉ dạy cho chúng sanh thoát mê, đạt ngộ.

9- Thiên nhơn sư = Là bậc thầy của các cõi trời và cõi người.

10- Phật Thế Tôn= Là bậc sáng suốt, giác ngộ hoàn toàn.

3- Tuần lễ đầu tiên sau khi thành đạo[24]

Đức Phật ngồi không cử động dưới tàng cây Bồ-đề để chứng nghiệm Hạnh phúc Giải thoát (Vimutti sukha). Trong đêm cuối tuần ngài xuất thiền và suy niệm về Thập Nhị Nhân Duyên[25](Paticca samuppàda). Nhân và Duyên là nguyên nhân chánh và các nguyên nhân phụ làm phát sanh sự sống. Ví dụ : Sở dĩ có cây xoài mọc lên là vì có nguyên nhân chánh là hột xoài, và các nguyên nhân phụ là đất, nước, ánh sáng, không khí, khí hậu ... thích hợp cho sự phát triển của hột xoài thành cây xoài. Mười hai nhân duyênlà 12 yếu tố chánh làm nhân và duyên cho nhau để phát sanh hiện tượng sanh tử luân hồi của chúng sanh. Muốn chấm dứt dòng sanh tử luân hồi đó thì phải dứt trừ một trong 12 yếu tố đó, và phải biết yếu tố nào dễ trừ nhứt đối với mình. Các yếu tố dễ trừ nhứt là Ái, Thủ và Vô minh. Dứt trừ Ái dục là chận đứng không cho 6 căn duyên theo 6 trần. Dứt trừ Thủ là thực hành hạnh bố thí. Dứt trừ Vô minh là phải học giáo lý và thiền quán để biết rõ thân tâm và vạn vật đều vô thường, vô ngã; để biết rõ Chơn Tâm, Phật Tánh của mình mới thật là thường, lạc, ngã, tịnh.

Vào canh một đêm đó, Đức Phật bắt đầu suy luận theo chiều sanh khởi (anuloma) như sau : Khi cái này có thì cái kia có, khi cái này phát sanh thì cái kia phát sanh. (Tạng Luật, Đại Phẩm, tập 1: 1)

Do Vô Minh[26](Avijjà) phát sanh, nên Hành (Samskhàrà) phát sanh.

Do Hành[27]phát sanh, nên Thức (Vinnàna) phát sanh.

Do Thức[28]phát sanh, nên Danh (Nàma) và Sắc (Rùpa) phát sanh.

Do Danh và Sắc[29]phát sanh, nên Sáu Căn (Salàyatana) phát sanh.

Do Sáu Căn[30]phát sanh, nên Xúc (Phassa) phát sanh.

Do Xúc[31]phát sanh, nên Thọ (Vedanà, cảm giác) phát sanh.

Do Thọ[32]phát sanh, nên Ái (Tanhà) phát sanh.

Do Ái[33]phát sanh, nên Thủ (Upàdàna) phát sanh.

Do Thủ[34]phát sanh, nên Hữu (Bhava) phát sanh.

Do Hữu[35]phát sanh, nên Sanh (Jàti) phát sanh.

Do Sanh[36]phát sanh, nên Bệnh, Lão và Tử (Jarà, Màrana),

Phiền não, Đau khổ phát sanh.

Toàn khối đau khổ trong cuộc sống hiện tại đã phát sanh như thế.

Rồi Đức Phật nói bài kệ[37]sau đây :

Khi các thực tại hiển bày,

Thánh nhơn thiền định, rõ ngay ngọn ngành.

Nhân nào quả nấy đành rành,

Các duyên phò trợ phát sanh luân hồi.

Khoảng canh ba đêm đó, Đức Phật suy luận theo chiều hoại diệt (patiloma) như sau : Khi cái này không còn thì cái kia cũng không còn, khi cái này diệt thì cái kia cũng diệt. (Tạng Luật, Đại Phẩm, tập 1: 2)

Khi hết Vô minh thì Hành chấm dứt.

Khi hết Hành thì Thức chấm dứt.

Khi hết Thức thì Danh và Sắc chấm dứt.

Khi hết Danh và Sắc thì Sáu Căn chấm dứt.

Khi hết Sáu Căn thì Xúc chấm dứt.

Khi hết Xúc thì Thọ chấm dứt.

Khi hết Thọ thì Ái chấm dứt.

Khi hết Ái thì Thủ chấm dứt.

Khi hết Thủ thì Hữu chấm dứt.

Khi hết Hữu thì Sanh chấm dứt.

Khi hết Sanh thì Bệnh, Lão, Tử, Phiền não, Đau khổ chấm dứt.

Toàn khối đau khổ trong cuộc sống hiện tại có thể được chấm dứt như thế.

Rồi Đức Phật nói bài kệ sau đây :

Khi các thực tại hiển bày,

Thánh nhơn thiền định, rõ ngay ngọn ngành.

Nhân diệt, quả phải tan tành,

Các duyên chẳng thuận, quả sanh đàng nào?

Đến canh năm, sáng hôm sau, Đức Phật suy luận theo hai chiều sanh khởi và hoại diệt như sau : Khi cái này có thì cái kia có, khi cái này phát sanh thì cái kia phát sanh. Khi cái này không có thì cái kia không có, khi cái này diệt thì cái kia cũng diệt[38]. (Tạng Luật, Đại Phẩm, tập 1: 3)

Khi Vô minh phát sanh thì Hành phát sanh, vân vân. Và như thế toàn khối đau khổ luân hồi phát sanh.

Khi Vô minh diệt thì Hành cũng diệt, vân vân. Và như thế toàn khối đau khổ luân hồi cũng phải chấm dứt.

Rồi Đức Thế Tôn nói bài kệ sau đây :

Khi các thực tại hiển bày,

Thánh nhơn thiền định, rõ ngay ngọn ngành.

Ma Vương binh tướng tan tành,

Chân lý chiếu sáng, chúng sanh an hòa.

4- Tuần lễ thứ hai sau khi thành đạo[39]

Đức Phật trải qua tuần lễ thứ hai một cách bình thản, ngài đứng cách cây Bồ-đề khoảng 100m về hướng đông, chăm-chú nhìn cây Bồ-đề trọn một tuần không nháy mắt, hồi tưởng lại cuộc trường kỳ chiến đấu cam go, gian khổ, với tự thân, tự tâm, trong vô lượng kiếp, cho đến ngày nay thành đạo dưới cội Bồ-đề, để rút tỉa kinh nghiệm hầu tìm ra một Con Đường ngắn hơn và dễ dàng hơn cho chúng sanh sau này. Hiện nay nơi đây còn có tháp kỷ niệm do vua Asoka dựng lên, tên là Animesalocana Cetiya.

Noi theo gương lành cao quí ấy, và để tưởng nhớ công ơn Đức Phật, hàng tín-đồ đến ngày nay vẫn còn tôn kính các cây Bồ-đề ở Bodhgayà, Sarnath, Lumbini, Jetavana, Anuradhapura (Sri Lanka), Châu Đốc (Việt Nam).

Cây Bồ-đề Ànanda tại Jetavana (vườn Cấp Cô Độc) được trồng do ý kiến của ngài Ànanda, được Phật chấp thuận, và ông Cấp Cô Độc thực hiện bằng cách lấy hột của một trái chín của cây Đại Bồ-đề về trồng gần cổng vào tinh xá, lúc Phật thường trú nơi đây, để các tín đồ từ xa đến viếng Phật, rủi gặp lúc Phật đi vắng, có thể lễ bái cây Bồ-đề này cũng như lễ bái Phật.

Cây Bồ-đề hiện nay tại Lumbini cũng đã có từ lúc Phật còn tại thế.

Vào thế kỷ thứ ba trước tây lịch, ni sư Sanghamitta, con vua Asoka, chiết một nhánh phía nam của cây Đại Bồ-đề, đem qua Sri Lanka (Tích Lan) trồng tại thủ đô Anuradhapura, đến nay vẫn còn tươi tốt sum sê.

Cây Bồ-đề tại Bodhgayà và tại Sarnath, Ấn Độ, hiện nay cũng đều là cây con chiết nhánh từ cây Bồ-đề tại Anuradhapura ở Sri Lanka.

Một cây con của cây Bồ-đề tại Bodhgayà ngày nay được Đại đức Jina Ràjadasa, hội trưởng hội Thông Thiên Học Quốc tế tại Ấn Độ, tặng Việt Nam vào năm 1952, được trồng tại trung tâm thị xã Châu Đốc, miền tây Nam Việt. Các hội viên hội Bồ Đề Đạo Tràng thường tụng niệm tại đây mỗi buổi chiều tối. Ngoài ra các chùa lớn tại Việt Nam như chùa Trấn Quốc ở Hà Nội, chùa Từ Đàm ở Huế, chùa Xá Lợi ở Sài Gòn đều có trồng một cây Bồ-đề thật uy nghiêm.

1- Cây Đại Bồ-đề (lúc Phật thành đạo) sanh ra :

2- Cây Bồ-đề Ànanda tại Jetevana lúc Phật thường trú tại đây,

2- Cây Bồ-đề tại Anuradhapura (Sri Lanka). Cây này sanh ra :

3- Cây Bồ-đề tại Sarnath,

3- Cây Bồ-đề Ànanda tại Jetavana hiện nay,

3- Cây Bồ-đề tại BodhGayà hiện nay. Cây này sanh ra :

4- Cây Bồ-đề tại Châu Đốc (Việt Nam).

5- Tuần lễ thứ ba sau khi thành đạo[40]

Vì Đức Phật vẫn còn ở quanh quẩn bên cội Bồ-đề, nên chư thiên lúc bấy giờ còn nghi ngờ không biết ngài đã đắc quả Phật chưa. Đức Phật đọc được tư tưởng ấy, ngài dùng oai lực thần thông tạo một "đường kinh hành quí báu" (Ratana Cankamana, đường kinh hành bằng ngọc), và đi tới đi lui trên đường kinh hành này suốt tuần lễ thứ ba. Dưới mỗi bước chân Phật có một hoa sen nở ra đỡ lấy không cho chân chạm đất. Con đường này hiện nay được xây bằng gạch lên cao khỏi mặt đất độ một thước, nằm song song với cạnh phía bắc tháp Đại Giác. Trên mặt đường có đúc 18 hoa sen bằng xi măng, tượng trưng cho 18 bước chân của đức Phật.

Theo Phật giáo đại thừa thì trong ba tuần lễ đầu (21 ngày) sau khi thành Phật, ngài hiện thân đức Tỳ Lô Giá Na (Vairocana Buddha) thuyết kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka sutra)[41]cho vô số đại Bồ tát, các Vua trời và các vị Thần đã thọ giáo với Đức Phật Tỳ Lô Giá Na từ vô lượng kiếp. Nguyên tên kinh là “Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh”. Nội dung kinh này đứng trên cảnh giới bất tư nghì giải thoát của chư Phật để mô tả toàn thể pháp giới tánh, còn gọi là vô ngại pháp giới. Đức Phật có ý nói kinh đốn giáo đại thừa này cho các vị đã có nhiều căn lành trước, để các vị này lần hồi truyền bá lại cho các vị thấp hơn, cho đến khắp cả pháp giới chúng sinh.

6- Tuần lễ thứ tư sau khi thành đạo[42]

Đức Phật ngự trong “bảo cung[43](Ratana ghara, cái phòng bằng ngọc) để suy niệm về những điểm phức tạp của Tạng Luận (Abhidhamma, giáo lý cao siêu, vi diệu pháp, thắng pháp). Kinh sách ghi nhận rằng khi ngài suy tưởng về lý Nhân Quả Tương Quan (Patthàna), quyển khái luận thứ bảy của tạng Luận, tâm và thân ngài trở nên hoàn toàn tinh khiết và do đó phát ra một vừng hào quang sáu màu, hiện nay là sáu màu của lá cờ Phật Giáo Thế giới. Năm màu đầu là : xanh, vàng, đỏ, trắng, cam. Màu thứ sáu là tổng hợp năm màu đầu. Bảo Cung hiện nay ở cạnh phía bắc tháp Đại Giác.

7- Tuần lễ thứ năm sau khi thành đạo[44]

Đức Phật trở lại ngồi dưới cội cây Ajapàla, nơi ngài đã nhận bát cháo sữa của hai chị em nàng Sujàtà, để tiếp tục chứng nghiệm hạnh phúc giải thoát (Vimutti sukha). Trong lúc Đức Phật ngồi tham thiền thì ý nghĩ sau đây phát sanh :

Làm thế nào để Giới, Định, Tuệ và Giải thoát được tăng trưởng đầy đủ? Có lẽ ta nên sống gần một vị đạo sĩ hay một vị Bà-la-môn nào để tôn kính và sùng bái ?

“Có lẽ ta nên sống gần một vị đạo sĩ khác hay một vị Bà-la-môn để tôn kính và lễ bái vị ấy hầu nâng cao giới đức(Sìlakkhanda) đến chỗ toàn thiện? Nhưng ta không thấy ai có giới đức hơn ta để ta cộng tác, tôn kính, lễ bái, kể cả chư Thiên, Ma Vương hay Phạm Thiên ở các cõi trời, cũng như các đạo sĩ hay Bà-la-môn ở cõi người.

“Có lẽ ta nên sống gần một vị đạo sĩ khác hay một vị Bà-la-môn để tôn kính và lễ bái hầu nâng cao định lực(Samàdhikkhanda) đến chỗ toàn thiện? Nhưng ta không thấy ở các cõi trời hay trên thế gian này có vị nào có định lực hơn ta để ta cộng tác, tôn kính và lễ bái.

“Có lẽ ta nên sống gần một vị đạo sĩ khác hay một vị Bà-la-môn để tôn kính và lễ bái hầu nâng cao trí tuệ(Pannakkhanda) đến chỗ toàn thiện ? Nhưng ta không thấy ở các cõi trời hay trên thế gian này có vị nào có trí tuệ hơn ta để ta cộng tác, tôn kính và lễ bái.

“Có lẽ ta nên sống gần một vị đạo sĩ khác hay một vị Bà-la-môn để tôn kính và lễ bái hầu nâng cao mức độ giải thoát(Vimuttikkhanda) đến chỗ toàn thiện ? Nhưng ta không thấy ở các cõi trời hay trên thế gian này có vị nào có mức độ giải thoát hơn ta để ta cộng tác, tôn kính và lễ bái.

“Hay là ta nên sống trong sự tôn kính và lễ bái chính cái Giáo Pháp mà ta đã chứng ngộ ?”

Lúc bấy giờ vị Phạm Thiên Sahampati, hiểu được ý Phật, liền từ cõi trời Phạm Thiên (Brahmà) hiện đến trước mặt Phật, nhanh như một lực sĩ duỗi thẳng cánh tay hay co tay vào. Và, đắp y lên vai trái, quỳ gối phải xuống đất, chấp tay lễ Phật và bạch rằng :

Bạch đức Thế Tôn, quả thật như vậy, những bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, trong quá khứ đều tôn kính và sùng bái chính Giáo Pháp này. Những bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, trong tương lai cũng sẽ tôn kính và sùng bái chính Giáo Pháp này. Thế nên, bạch đức Thế Tôn, ngài là bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, trong đời hiện tại, cũng nên tôn kính và sùng bái chính cái Giáo Pháp này.

“Bạch đức Thế Tôn, các bậc Chánh Biến Tri trong quá khứ, vị lai và hiện tại, đã, sẽ và đang cứu giúp chúng sanh thoát khổ, đều tôn kính Giáo Pháp cao thượng này. Đó là đặc tánh chung của chư Phật.

“Vậy, ai muốn được lợi ích và tinh tấn, dĩ nhiên cũng nên tôn kính Giáo Pháp cao thượng này, và luôn luôn nhớ đến lời vàng của chư Phật.”

Vị Phạm Thiên Sahampati bạch xong, cung kính đảnh lễ Phật, đi nhiễu một vòng xung quanh ngài rồi biến mất.

Vì chư Tăng cũng có những đặc tánh và chí hướng cao thượng nên cũng được Đức Phật tôn kính[45].

Vào cuối tuần thứ năm, khi ngài xuất định, có một vị Bà-la-môn dòng Huhunka đến gần, chào thân thiện rồi hỏi :

Thưa Tôn giả Gotama, đứng trên phương diện nào ta trở thành một thánh nhơn (Bràhmana), và những điều kiện nào làm cho ta trở thành thánh nhơn ?

Đức Phật đáp bằng bài kệ sau đây :

Thánh nhơn tật xấu chẳng còn,

Chẳng còn ngã mạn, chẳng còn nhiễm dơ.

Sáu căn thanh tịnh như tờ,

Sở học rốt ráo, sống đời thanh cao.

Dù đi bất cứ nơi nào,

An nhiên, tự tại, chẳng lo sợ gì. (Tạng Luật, Đại Phẩm, tập 1: 4)

8- Tuần lễ thứ sáu sau khi thành đạo[46]

Đức Phật rời cây Ajapàla đến cây Mucalinda[47](tên khoa học là Barringtonia acutangula), và ngồi thiền định tại đây một tuần lễ nữa để chứng nghiệm hạnh phúc giải thoát. Bỗng nhiên có một trận mưa to đổ xuống. Mây kéo tới đen nghịt và gió lạnh thổi suốt nhiều ngày. Lúc ấy Rắn thầnMucalinda từ trong hang chun ra, lấy mình quấn bảy vòng xung quanh Đức Phật, và phùng mang lớn ra che trên đầu ngài. Nhờ vậy mà mưa to gió lớn không động tới thân ngài. Đến cuối ngày thứ bảy, trời quang mây tạnh, Mucalinda tháo mình trở ra, rồi biến thành một thanh niên đứng chấp tay trước mặt Phật. Đức Phật đọc bài kệ khen ngợi và khuyên nhủ Mucalinda như sau :

Hạnh phúc thay sống đời ẩn dật,

Có bao nhiêu cũng đủ ấm no.

Hạnh phúc thay sống trong thiền định,

Được thấy, nghe Chơn lý nhiệm mầu.

Hạnh phúc thay kẻ có tâm lành,

Sống đơn sơ, lợi ích chúng sanh.

Hạnh phúc thay sống không ràng buộc,

Vượt lên trên dục vọng sáu căn.

Nhưng hạnh phúc cao hơn tất cả,

Là xa lià chấp ngã, chấp ta.[48]

9- Tuần lễ thứ bảy sau khi thành đạo[49]

Đức Phật từ cội cây Mucalinda bước sang cội cây Ràjàyatana (tên khoa học là Buchanania latifolia) và ở đó chứng nghiệm hạnh phúc giải thoát.

Cuối tuần thứ bảy, ngài đi từ cội cây Ràjàyatana trở lại cội cây Ajapàla. Trong lúc ngồi thiền định, những tư tưởng sau đây phát sanh :

Giáo Pháp mà Như Lai đã chứng ngộ quả thật thâm diệu, khó nhận thức, khó lãnh hội, vắng lặng, cao siêu, không nằm trong phạm vi lý luận, rất tế nhị, chỉ có bậc hiền thánh mới thấu hiểu. Chúng sanh còn trong vòng tham ái dục lạc vật chất khó hiểu nổi lý “Mười Hai Nhân Duyên” (hay lý Duyên Khởi). Và Niết bàn là trạng thái chấm dứt các điều kiện sanh khởi, hết dục vọng, không còn tham ái, không còn ràng buộc, cũng không phải là một đề tài dễ lãnh hội. Nếu Như Lai truyền dạy Giáo Pháp ấy thì kẻ khác sẽ không hiểu được. Thật hoài công ! Phí công vô ích !

“Như Lai đã khó khăn lắm mới chứng ngộ được Giáo Pháp (Dhamma). Không cần phải phổ biến ngay bây giờ. Người còn mang nặng tham ái và sân hận không dễ gì thấu triệt. Người tham ái chìm đắm trong đêm tối, không thấy được Giáo Pháp, vì bị tham ái bao phủ như đám mây đen kịch. Giáo Pháp đi ngược dòng đời, sâu kín, thâm diệu, khó nhận thức và rất tế nhị[50].

Nghĩ như vậy, Đức phật chưa quyết định truyền bá Giáo Pháp. Nhân dịp ấy, Ma Vương (Màra) liền hiện đến, đi nhiễu quanh Phật ba vòng, rồi đến trước Phật quỳ xuống đảnh lễ và nói :

Bạch Thế Tôn, chúng sanh ở thế gian này rất ngu muội và ngang ngược, bao nhiêu vị Phật ra đời trước đây đều không độ được chúng. Xin Thế Tôn đừng phí công vô ích. Xin đức Thế Tôn hãy nhập Đại Bát Niết Bàn vô sanh bất diệt ngay từ bây giờ để tận hưởng hạnh phúc giải thoát[51].

Này Ma Ba Tuần, Như Lai đã vì đại nguyện cứu khổ chúng sanh nên mới xuất hiện ở thế gian này. Như Lai chỉ nhập Đại Bát Niết Bàn sau khi đã thành lập Giáo Đoàn Khất Sĩ với đầy đủ ba ngôi Tam Bảo và đã truyền đạt đầy đủ Giáo Pháp Cao Thượng cho các vị Tỳ kheo để tiếp nối nhau chỉ dạy lại cho chúng sanh. Thôi ! ngươi hãy đi đi, đừng quấy rầy ta vô ích[52].

Ma Vương buồn giận lui ra, cầm gậy vạch một đường dài trên mặt đất làm đường ranh giới tượng trưng giữa mình và đức Phật, rồi rút lui.

Vị Phạm Thiên Sahampati vội hiện đến trước Phật, đi nhiễu ba vòng xung quanh Phật, rồi quỳ xuống bạch Phật như sau[53]:

Bạch đức Thế Tôn, cầu xin ngài hãy truyền dạy Giáo Pháp của Phật ! Có những chúng sanh bị ít nhiều cát bụi vướng trong mắt, nếu không được nghe Giáo Pháp của Phật sẽ bị trầm luân sa đọa. Nhưng họ cũng có thể ngộ được chơn lý.

“Thuở xưa ở xứ Magadha có phát sanh một Giáo Pháp không toàn hảo, do người còn trần tục nghĩ ra. Nay xin đức Thế Tôn hoan hỉ mở rộng cửa Vô Sanh Bất Tử, cho chúng sanh được nghe Giáo Pháp giải thoát của đấng Trọn Lành. Bậc Toàn Giác, Toàn Trí đứng trên đỉnh tối cao của lâu đài Pháp bảo, cũng như người đứng trên ngọn núi đá cao nhìn xuống, thấy rõ ràng từng người ở vòng quanh phía dưới. Xin đấng Hoàn Toàn Hạnh Phúc hãy nhìn xuống chúng sanh đang chìm đắm trong biển khổ sanh tử !

“Xin Ngài hãy cương quyết lên, vị anh hùng, vị chiến thắng, vị lãnh đạo, vị cứu thế, xin Ngài hãy truyền bá Giáo Pháp khắp thế gian. Chắc chắn sẽ có nhiều người lãnh hội được.

Này Sahampati, Như Lai nghĩ rằng người còn tham ái và sân hận không dễ gì hiểu nổi Giáo Pháp của Như Lai. Người tham ái bị chìm đắmtrong đêm tối, không thể thấy được Chân lý. Vì Chân lý trái ngược với tham ái nên thành ra sâu kín, thâm diệu, khó nhận thức và rất tế nhị. Vì thế nên Như Lai chưa quyết định truyền bá Giáo Pháp.

Vị Phạm Thiên Sahampati thỉnh Đức Phật lần thứ hai, Đức Phật cũng trả lời như trước. Khi vị Phạm Thiên cung thỉnh lần thứ ba, đức Thế Tôn dùng Phật nhãn quán sát thế gian (Tạng Luật, Đại Phẩm, tập 1: 9). Ngài nhận thấy rằng có kẻ ít người nhiều cát bụi trong mắt, người thông minh sáng suốt, kẻ mù mịt tối tăm, bẩm tánh người này tốt, người kia xấu, có chúng sanh khó dạy, cũng có chúng sanh dễ dạy, và có một số ít khác nhận thức được hiểm họa của tội lỗi và đời sống. Cũng như trong hồ sen, có sen xanh, đỏ, trắng, vàng lẫn lộn. Có cây sanh dưới nước, lớn lên dưới nước, và sống suốt đời dưới nước; có cây sanh dưới nước, lớn lên trong nước, và sống trưởng thành trên mặt nước; có cây sanh dưới nước, lớn lên trong nước, và sống trưởng thành nhô lên khỏi mặt nước, không vướng chút bùn nhơ. Sau khi quán sát xong ba hạng chúng sanh, hạ, trung và thượng, Đức Phật tuyên bố với vị Phạm Thiên rằng:

Này Sahampati, cửa Vô Sanh đã rộng mở, để cho ai có tai muốn nghe đặt trọn niềm tin[54].Này Sahampati, vì nhận thấy chúng sanh còn quá thấp kém nên trước đây Như Lai chưa quyết định truyền dạy Giáo Pháp vô thượng.

Vị Phạm Thiên Sahampati vô cùng mừng rỡ đã thỉnh cầu được Đức Phật hoằng dương Chánh Pháp, liền đảnh lễ tạ ơn ngài, đi nhiễu quanh ngài, rồi rút lui.[55]

10- Hai thiện tín đầu tiên[56]

Sau 49 ngày an vui thiền định, không ăn uống, kể từ lúc ăn bát cháo sữa của hai cô Sujàtà, hôm nay, trong lúc Đức Phật ngồi dưới cội cây Ràjàyatana,có hai thương gia người Miến Điện tên TapussaBhallikatừ Ukkala (hiện nay là Orissa) đến, đi ngang qua gần đó. Có một vị trời, vốn là bà con kiếp trước với hai thương gia, đến mách bảo rằng :

Này hai ông, đức Thế Tôn vừa đắc quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hiện đang ngồi dưới cội cây Ràjàyatana đàng kia. Hai ông nên đến đó cúng dường bột rang và mật ong[57], sẽ được an vui và hạnh phúc lâu dài.

Hai thương gia vui mừng, sửa soạn bột rang và mật ong rồi đến trước Phật cung kính đảnh lễ, cầu Phật nhận lãnh hai món cúng dường khiêm tốn này để hai ông được an vui hạnh phúc lâu dài. Đức Phật, không còn bát khất thực nữa[58], nghĩ rằng :

Các đấng Như Lai không bao giờ đưa tay thọ nhận vật thực. Làm sao ta nhận hai món bột rang và mật ong này ?

Lúc ấy bốn vị Thiên vương[59]đoán biết ý nghĩ của Phật, liền từ bốn phương bay đến dâng lên Đức Phật bốn cái bát bằng vàng; Đức Phật không nhận. Bốn vị liền dâng lên bốn cái bát bằng bạc; Đức Phật không nhận. Bốn vị liền dâng lên bốn cái bát bằng ngọc; Đức Phật cũng không nhận. Bốn vị sực nhớ đến chư Phật đời trước thường dùng bát bằng đá, liền dâng lên bốn cái bát bằng đá và đồng thưa rằng :

Bạch đức Thế Tôn, xin ngài hãy nhận bột rang và mật ong trong cái chén đá này.

Để cho bốn vị Thiên vương đều hài lòng, Đức Phật để cái chén thứ nhất vào lòng bàn tay trái, tay phải cầm cái chén thứ hai để chồng lên chén thứ nhất rồi ấn xuống làm hai cái nhập lại làm một, rồi đến cái chén thứ ba và thứ tư cũng được nhập vào như thế. Cuối cùng bốn cái chén đá được nhập lại làm một nhưng vẫn còn dấu vết của bốn miệng chén[60]. Đức Phật đưa chén ra nhận vật thực. Sau khi thọ thực xong, ngài bảo hai vị thương gia Tapussa và Bhallika như sau :

Này hai ông, nếu hai ông muốn được phúc báo lâu dài thì nên quy y Phật bảo, quy y Pháp bảo và thọ trì năm giới.

Hai vị thương gia liền quỳ xuống đảnh lễ ngài và bạch rằng :

Bạch đức Thế Tôn, xin ngài cho phép chúng con được quy y Phật và quy y Pháp, thọ trì năm giới, và xin ngài thu nhận chúng con vào hàng thiện tín (Upàsaka) của ngài từ nay cho đến hết cuộc đời của chúng con.

Đó là hai thiện tín đầu tiên đã quy y Nhị Bảo (Phật và Pháp, chưa có Tăng). Sau khi đã được Đức Phật ban pháp quy y và truyền năm giới (không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không uống rượu, không nói dối), và trước khi từ giã ngài để trở về quê ở Miến Điện, hai vị thương gia xin ngài ít vật lưu niệm để luôn luôn tưởng nhớ đến ngài. Đức Phật tặng cho hai vị một ít tóc và móng tay và bảo rằng:

Hằng ngày các ông trông thấy những vật này cũng như trông thấy Như Lai vậy.

Hai vị cung kính nhận lãnh, lạy tạ rồi mang về Miến Điện xây tháp thờ. Hiện nay bảo vật này vẫn còn được giữ gìn cẩn thận trong bảo tháp của chùa Swedagontại thủ đô Rangoon (Ngưỡng Quang).



[1]Xem Trung Bộ (Majjhima nikàya) 36.

[2]Xem Buddhacarita sutta (Phật Sở Hành Tán) của Tổ Asvaghosa (Mã Minh).

[3]Áo phẩn tảo(pamsu kula) là áo cà-sa may bằng vải rách lượm trong đống rác.

[4]Xem Trường Bộ (Dìgha nikàya) 14; Trung Bộ (Majjhima nikàya) 26, 36; Tiểu Bộ, kinh Pháp Cú 153-154; Tiểu Bộ, Udàna, phẩm 1: 1-3; Lalitavistara; Buddhacarita; Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh 186, 187, 190.

[5]Một loại cây sung (cây bàng) ở Ấn Độ : Banyan tree, Figuier d'Inde, cây dừng, tên khoa học là Ficus Indica.

[6]Sau khi ăn xong bát cháo sữa này, Đức Phật nhịn ăn luôn 49 ngày liền.

[7]Cây Pippala(Tất-bát-la) còn có tên khác là Assattha(Bát-đa) vì trái của cây này tên là Pippala, còn bông của nó tên là Assattha. Đây là một loại cây đa, tên khoa học là Ficus religiosa. Sau khi Phật thành đạo, người ta đặt tên cây là Bodhi (Bồ-đề) có nghĩa là cây Giác ngộ.

[8]Đoạn đối thoại này phỏng theo kinh Lalitavistara. Xem The Life of The Buddha, A. Foucher, trang 107.

[9]Tọa cụlà tấm thảm vuông trải xuống đất để ngồi cho sạch sẽ. Bồ đoànlà cái gối tròn để lót ngồi cho thẳng lưng.

[10]Thiên Long Bát Bộgồm có Trời (Deva), Rồng (Nàga), Dạ-xoa (Yaksa), A-tu-la (Asura), Ca-lầu-la (Garuda) còn gọi là Kim sí điểu, Càn-thát-bà (Gandharva) chuyên hòa tấu nhạc, Khẩn-na-la (Kimnara) chuyên múa hát và đánh trống, Ma-hầu-la-già (Mahoraga) đầu người mình rắn chuyên thổi sáo. Đây chỉ trạng thái hỷ lạc của Bồ tát trong khi thiền định.

[11]Xem chi tiết trong Tăng Chi Bộ, chương 9 pháp, Đại phẩm, nhất là kinh 41: Tapussa.

[12]Năm triền cái: tham dục, sân hận, hôn trầm, trạo cử, hoài nghi là 5 trở ngại sơ đẳng khi thiền.

[13]Năm thiền chi: Tầm (vitakka, hướng tâm về định tướng), Tứ (vicara, chú tâm quan sát và theo dõi định tướng), Hỷ (pity, mừng), Lạc (sukha, vui), Nhất tâm (ekacitta, tâm hoàn toàn an trụ vào định tướng) còn gọi là Nhất điểm tâm (ekaggata).

[14]Năm uẩnhay năm ấmlà : sắc (rùpa), thọ (vedanà), tưởng (sanna), hành (sankhàra), thức (Vinnàna). Là 5 yếu tố cấu tạo thành con người.

[15]Mười tám giớilà : 6 căn, 6 trần và 6 thức. Có nghĩa là tất cả pháp giới.

[16]Diệt Thọ Tưởng định(Nirodha Samàpatti) còn gọi là Vô Tướng Tâm định (Animitto cete Samàdhi).

[17]Ma Vương(Màra) là vua cõi trời Tha Hóa Tự Tại (Paranimmitavàsavatti), cõi trời cao nhất ở cõi Dục. Theo tiếng Pali Màra là chết, Màra là thần Chết hay Ma Vương. Ma Vương là vị thần có ảnh hưởng rất lớn ở cõi Dục vì tất cả sự vật nơi đây đều chịu định luật vô thường, tức phải chết, và tất cả sinh hoạt nơi đây đều do động cơ tham (lobha) sân (dosa) si (moha) thúc đẩy. Người nào còn tham sân si là còn phải thần phục Ma Vương, dưới quyền điều khiển của Ma Vương.

[18]Ba đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.

[19]Xem Tương Ưng Bộ, chương 4, kinh 25.

[20]Theo Phật giáo nguyên thuỷ, đức Phật giáng sanh, thành đạo và nhập niết bàn đều nhằm ngày trăng tròn tháng Vesàkha (tháng 4-5 dương lịch).

[21]Tìm xem do đâu mà có thân để tạo nghiệp.

[22]Người thợ xây nhà (nguyên nhân của sắc thân) chính là ái dục và chấp ngã.

[23]Sườn nhà là tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến ... Đòn dông nhà là vô minh.

[24]Xem Đức Phật và Phật Pháp, tác giả Narada, dịch giả Phạm Kim Khánh, trang 60-63; Tạng Luật, Đại Phẩm, tập 1: 1-3.

[25]Xem Trường Bộ 14-15; Tương Ưng Bộ, chương 12, kinh 1-10.

[26]Vô minhlà không biết Tứ Đế, không có Tam Minh (Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, Lậu tận minh). Trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy “Tri kiến lập tri tức vô minh bổn”. Nghĩa là : Từ “tánh biết” không có chủ thể và đối tượng mà lập ra cái “biết” có chủ thể và đối tượng, rồi 6 căn vướng mắc vào 6 trần sanh ra chê khen thương ghét, đó chính là gốc của “vô minh”. Do vô minh nên thấy có đối đãi, phân biệt. Do vô minh nên vạn vật vô thường mà ta cho là thường, vô ngã mà ta cho là có ngã; dục lạc ở thế gian là khổ mà ta cho là vui. Do vô minh nên quên hết các kiếp trước, không biết nhân quả luân hồi. Tiếng Pali “avijjà-paccaya Samskhàrà” có nghĩa là “vô minh duyên sanh ra hành”.

[27]Hànhlà thay đổi, biến chuyển, di động; là Tâm Hành(tham, sân, si...); là Hành Nghiệp(thân, khẩu, ý).

[28]Thức(vinnàna) là cái biết do sự phân biệt tốt, xấu, hay, dở, phải, quấy ... Sáu căn tiếp xúc với sáu trần sanh ra sáu thức. Thức(= thần thức, hương ấm, gandhabba) là động lực đi thọ sanh.

[29]Danhlà vật vô hình, chỉ có tên, không có tướng, là tâm thức, là thọ, tưởng, hành và thức;

Sắclà vật hữu hình, là cơ thể, là tứ đại.

[30]Sáu cănlà mắt, mũi, tai, lưỡi, thân, bộ óc (mano).

[31]Xúclà sự tiếp xúc giữa căn và trần, ví dụ như nhãn căn và sắc trần; là bộ ba căn, trần, thức.

[32]Thọlà cảm giác dễ chịu, khó chịu, trung tính, khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần.

[33]Áilà ưa thích, muốn có làm của riêng mình. Là dục vọng, khao khát, ham muốn, là động cơ tạo nghiệp.

[34]Thủlà giữ làm của riêng mình, là tâm vướng mắc vào một vật, một quan niệm hay một chủ thuyết.

[35]Hữulà có, là hữu vi, là sở hữu, cũng có nghĩa là nghiệp do mình tạo ra (kamma bhava).

[36]Sanhlà hiện hữu, hiện sinh, có mạng sống, có 5 uẩn.

[37]Xem The Life of Buddha as Legend and History, trang 76.

[38]Nguyên văn: “Imasmim sati, idam hoti; imasmim asati, idam na hoti”. Có nghĩa là: Khi cái này như vầy thì có cái kia; khi cái này không phải như vầy thì không có cái kia.

[39]Xem Đức Phật và Phật Pháp, tác giả Narada, dịch giả Phạm Kim Khánh, trang 63.

[40]Xem Đức Phật và Phật Pháp, tác giả Narada, dịch giả Phạm Kim Khánh, trang 63-64.

[41]Có bài tụng của Thiên Thai tông như sau : “ Hoa Nghiêm tối sơ tam thất nhựt, (21 ngày)

“ A Hàm thập nhị, Phương Đẳng bát, (20 năm)

“ Nhị thập nhị niên Bát Nhã đàm, (22 năm)

“ Pháp Hoa, Niết Bàn, cộng bát niên. (8 năm)

[42]Xem Đức Phật và Phật Pháp, tác giả Narada, dịch giả Phạm Kim Khánh, trang 64.

[43]Gọi như vậy vì lúc ấy Đức Phật suy niệm về phần rất quí báu của tạng Luận (Abhidhamma).

[44]Xem Đức Phật và Phật Pháp, tác giả Narada, dịch giả Phạm Kim Khánh, trang 64-65; Tương Ưng Bộ, chương 6, kinh 2: Cung Kính.

[45]Đức Phật thuyết bài pháp này tại tinh xá Jetavana ở thủ đô Sàvatthi. Ngài muốn chứng tỏ lòng tôn kính của ngài đối với Tăng già để khuyên bà Mahà Pajapati Gotamì nên cúng dường chư Tăng bộ y giống như bộ y mà bà đã ra công may để cúng dường Đức Phật.

[46]Xem Tạng Luật, Đại Phẩm, tập 1: 5; Đức Phật và Phật Pháp, tác giả Narada, dịch giả Phạm Kim Khánh, trang 65. Có thuyết cho rằng trong tuần lễ này đức Phật thuyết pháp tại Long Cung.

[47]Hiện nay, tại Bodhgayà, về hướng đông-nam, có một hồ sen lớn, giữa hồ có tượng Rắn thần đang che mưa gió cho Đức Phật, và có bảng ghi kỷ niệm. Trước hồ có trụ đá của vua Asoka.

[48]Nguyên văn bài kệ : “Sukho viveko tuthassa sutadhammassa passato

“Abyapajjham sukham loke panabhutesu samyamo

“Sukha viragata loke Kàmanam samatikkamo

“Asmimanassa yo vinayo etam ve paràmam sukham.

(Udàna II.1).

[49]Xem Đức Phật và Phật Pháp, tác giả Narada, dịch giả Phạm Kim Khánh, trang 65-67; Tạng Luật, Đại Phẩm, tập 1: 7; Tương Ưng Bộ, chương 6, kinh 1: Thỉnh Cầu.

[50]Xem Tạng Luật, Đại Phẩm 1: 5; Trường Bộ 14; Trung Bộ 26.

[51]Xem Trường Bộ 16.

[52]Xem Trường Bộ 16.

[53]Xem Tạng Luật, Đại Phẩm, tập 1: 8; Đức Phật và Phật Pháp, tác giả Narada, dịch giả Phạm Kim Khánh, trang 70-73.

[54]Nguyên văn : Aparuta tesam amatassa dvara ye sotavantà pamuncantu saddham.

[55]Xem Trung Bộ 26: Ariyapariyesana sutta; Lalitavistara.

[56]Xem Tạng Luật, Đại Phẩm, tập 1: 6; Tiểu Bộ, Trưởng Lão Tăng Kệ, kinh 7 (Bhalliya); Đức Phật và Phật Pháp, tác giả Narada, dịch giả Phạm Kim Khánh, trang 73-74.

[57]Bột rang và mật onglà lương thực mà du khách Ấn thời bấy giờ thường mang theo mình để ăn dọc đường.

[58]Bình bát của Phật đã chìm xuống đáy sông Neranjana lúc Phật tắm lần cuối trước khi thành đạo.

[59]Tứ Thiên Vương= Càtum Mahà Ràjika.

[60]Theo The Life of The Buddha của A. Foucher, trang 132-133 : Ngài Pháp Hiển, thế kỷ thứ 5, còn thấy cái bát đặc biệt này của Phật được thờ trong một ngôi chùa ở Pesawar; nhưng khi ngài Huyền Trang, thế kỷ thứ 7, đến Pesawar thì ngôi chùa này đã đổ nát và cái bát của Phật cũng mất tích.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com