KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA
CHƯƠNG TƯ
22.-ÂM :
Phú thứ, Tu Bồ Đề!
NGHĨA :
Lại nói tiếp: Tu Bồ Đề này!
Giải :Vương Nhựt Hưu giải: Phú thứ là biên tiếp thêm lời vấn đáp của Phật cùng Tu Bồ Đề. Ấy là lời của người viết kinh nói.
Nhan Bính giải: Phú thứ :là lại nói tiếp.
Lý Văn Hội giải: Phú thứ: là tiếp thêm bài trước, khởi ra lời sau.
23.-ÂM :
Bồ Tát ư pháp ưng vô sở trụ, hành ư Bố thí.
NGHĨA :
Bồ Tát làm việc Bố thí, theo phép, thì không có chỗ trụ .
Giải : Sớ Sao giải: Ưng vô sở trụ: Ưng: là nên,vô sở trụ: là lòng chẳng nên chấp trước.
Lý Văn Hội giải: Bồ Tát ư pháp :là nên cả thảy pháp "không tướng".
Ưng vô sở trụ :là không chấp trước cả thảy các pháp.
Kinh Pháp Hoa có nói: "Trong mười phương quốc độ. Chỉ có pháp Nhứt thừa".([88])
"Ấy gọi là tâm. Tâm tức là pháp, pháp tức là Tâm".
Hạng người trong hai bực thừa ([89]) chẳng hay tỏ ngộ, nói ngoài tâm riêng có pháp, lại sanh điều chấp trước theo pháp tướng.
Ấy là kiến giải đồng với chúng sanh.
Ông Tiêu Diêu Ông có giải: Kẻ phàm phu chẳng biết tự mình là Phật, chỉ cầu ở ngoài, chấp tướng mê chơn, phân biệt cảnh khác, chẳng vì giúp ích cho đạo, chỉ mong phước lợi, ví như tên bắn trên không, người vào chỗ tối.
Ông Cu Chi Hòa Thượng, hễ gặp ông Tăng nào đến hỏi đạo, thì đưa lên một ngón tay. Vậy nên Phật Giám Thiền sư có lời tụng:
Chẳng khả dụng tâm kiếm ở ngoài,
Trong tiêu tức đó có do lai,
Báo tin Đạt Mạ Tây thiên lại,
Chỉ tại Cu Chi một ngón tay.
Bồ Tát thì ngộ đặng "nhơn, pháp" đều không, lòng không chấp bỏ, rõ thấu Thánh phàm một bực, sắc không một loài, lành dữ một thể.
Long Tế Hòa Thượng giải:
Tụng:
Tâm, cảnh chẳng còn sanh,
Sắc, không mới hiểu rành,
Bổn lai như muốn rõ,
Ở nước biển non xanh.
Ấy là lòng của Bồ Tát không còn chi trụ trước.
Hành ư bố thí: Bốnghĩa là khắp; thí nghĩa là tản ra. Là nói dứt hết bốn tướng: "Ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả" cùng cái lòng phiền não, vọng tưởng, chấp bỏ, ghét thương.
Đức Thế Tôn dùng giáo pháp mà bố thí, trong thì diệt trừ cả thảy chấp trước, ngoài thì lợi ích cho cả thảy chúng sanh.
Bồ Tát bố thí không nên trụ trước, chẳng thấy có "ta" là người bố thí, chẳng thấy có "người" là kẻ thọ thí, chẳng thấy có "vật" là của tín thí. Ba thể đều không, trụ "chỗ không trụ". Thanh tịnh bố thí ; chẳng sợ mình nghèo, chẳng trông trả ơn, chẳng cần phước báu.
Kẻ phàm phu bố thí, vọng cầu phước lợi. Ấy là bố thí trụ tướng.
Vĩnh Gia Đại Sư giải:
Cầu phước nhơn, thiên mà bố thí.
Như tên bắn bổng giữa hư không
Tiêu Diêu Ông giải: Như người tụng kinh Kim Cang này, mà tỏ đặng lý: Trụ cái tâm không chỗ trụ, đặng cái pháp không chỗ đặng; ấy là tu Huệ nghiệp.
Bằng người mỗi ngày có công đọc tụng, mà vọng cầu phước lợi; ấy là tu phước nghiệp.
Hai điều ấy, cách nhau rất xa, như trời với vực vậy.
Kinh Pháp Hoa có nói: "Như đời sau có người đọc tụng kinh này, mà chẳng còn tham muốn những đồ ăn uống, y phục mền chiếu, là vật để nuôi sự sống, thì cái sở nguyện mới là chẳng uổng".
Trương Vô Tận giải: Phàm người học đạo, chẳng nên để ý về sự ăn no, mặc ấm, cốt yếu tại nơi cầu pháp Vô thượng Bồ đề là pháp xuất thế gian. Bằng cho việc ấy là không vừa ý mà hờn lòng, chỉ lo về sự ăn mặc thì có ích chi?
24.-ÂM :
Sở vị bất trụ sắc bố thí, bất trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp bố thí.
NGHĨA :
Là nói: Chẳng trụ sắc mà bố thí, chẳng trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp mà bố thí ([90]).
Giải :Vương Nhựt Hưu giải: Sắc: là hình sắc; thinh :là âm nhạc; hương: là hơi hám; vị:là mùi vị; xúc :là nam nữ tình dục, cảm xúc;pháp: là so lường suy nghĩ. Phương pháp ấy là dạy bảo chúng sanh chẳng cho mê chấp sáu trần.
Trần Hùng giải: Kinh Ma ha Bát Nhãcó nói: "Mắt biết sắc, tai biết tiếng, mũi biết hơi, lưỡi biết mùi, thân biết trơn láng, mềm mỏng, ý biết phương pháp".
Lại trong Sám Pháp có nói: "Mắt nhiễm sắc, tai nhiễm tiếng, mũi nhiễm hơi, lưỡi nhiễm mùi, thân nhiễm mịn màng mềm mại, ý nhiễm phương pháp, nên gây ra cả thảy nghiệp".
Đây nói " trụ" nghĩa là sự biết và sự nhiễm.
Kẻ phàm phu sáu căn chẳng tịnh, nên tham chấp sáu điều ấy cho vừa ý muốn, ấy là sáu trần. Có một điều nào trong căn, trần mà chưa vừa, thì cũng bố thí mong cầu cho đặng. Ấy là bố thí trụ tướng.
Bồ Tát vưng giáo pháp "Không tướng" của Như Lai, không cầu sái sự ưa muốn, không chấp lòng hay bố thí, chỉ dùng pháp mà bố thí, lợi ích cả thảy chúng sanh, như nước lưu thông trong đất. Chẳng có chi ngăn ngại. Ấy là bố thí không trụ tướng.
Kinh Hoa Nghiêm có nói:
"Sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp,
Cả thảy "lục căn" chẳng vọng sanh,
Vì tế độ chung cho chúng loại,
Trí "Vô thượng tối thắng"thường hành".
Ấy là làm việc bố thí.
Kinh Hoa Nghiêm, cuốn thứ 24 cũng có nói: "Nhãn thức biết cả thảy các thứ sắc; nhĩ thức biết cả thảy các thứ thinh; tỹ thức biết cả thảy các thứ hương; thiệt thức biết cả thảy các thứ vị; thân thức biết cả thảy các thứ xúc; ý thức biết cả thảy các thứ pháp".
Kinh Thiên Địa Bát Dương có nói: "Nhãnthường thấy cả thảy vô tận sắc; nhĩ thường nghe cả thảy vô tận thinh; tỹ thường ngửi cả thảy vô tận hương; thiệt thường nếm cả thảy vô tận vị; thân thường cảm giác cả thảy vô tận xúc; ý thường tư tưởng cả thảy vô tận pháp".
Như trong hai hiệu kinh ấy đã nói: "Cả thảy các thứ thinh, và cả thảy vô tận thinh". Mà ông Vương chỉ nói thinh là âm nhạc, thì e lỗi về sự nê chấp theo âm nhạc?
Lại nói: Cả thảy các thứ xúc, và cả thảy vô tận xúc, mà ông Vương chỉ nói xúc là nam nữ tình dục, thì e lỗi về sự nê chấp theo nam nữ tình dục?
Trương Vô Tận giải: Bất trụ sắc bố thí là tánh trí huệ soi thấy cả thảy đều không.
Đàn na: là kẻ bố thí.
Bực Bồ Tát có chấp sắc đâu mà bỏ.
Gọi là bố thí là như thuốc đối với bịnh, không đối với có. Có cùng bịnh đã trừ, không với thuốc đều bỏ. Sắc, không đã dứt, Trung đạo đâu còn, thì có pháp chi mà đặng?
Hai bực thừa (Nhị thừa) bỏ sắc chấp không, mà cho là bố thí chẳng trụ sắc.
Trong kinh của Huyền Trang Pháp sư dịch, có nói: "Không trụ sắc, không trụ chẳng phải sắc,thinh, hương, vị, xúc, pháp một cách như nhau". Cho nên không, có thảy đều không trụ. Nghĩa là: Có cái không đâu mà chấp, có cái có đâu mà bỏ! Không, có vốn đồng một thể bình đẳng. Bình đẳng mà bố thí mới là đặng tánh Pháp giới (Lý tánh của Chơn như).
Chẳng chấp có bố thí, chẳng chấp không bố thí, hai bên có không đừng cho ngăn ngại, lòng bố thí rộng lớn cũng như hư không, thì đặng công đức lại cũng như vậy. Cho nên trong kinh này, lấy mười phương hư không mà so sánh cùng phước bố thí cũng là ý đó.
Ông Phó Đại Sĩ có lời tụng :
Pháp môn của lục độ, Gồm sáu hạnh ba đàn,
Vô húy, tư sanh, pháp,Tu trì giới luật toàn;
Hai bên đều chẳng lập, Trung đạo cũng không an.
Tìm lý "Vô sanh nhẫn"Kíp trừ vọng phản quang.
Bất trụ thinh :là thanh tịnh không ngăn ngại.
Thi la: là giới.
Hai bực thừa lầm tưởng: Thinh là do sắc sanh ra, mới theo thinh trần mà phân biệt. Nghe vui thì mừng, nghe buồn thì thương; muốn bỏ thinh mà chấp không thinh, lại cho là giới.
Bồ Tát có thinh đâu mà bỏ? Nếu cho có sắc, thì thinh do đó mà sanh, sắc đã vốn không, thì thinh do đâu mà có? Bằng đã ngộ đặng lý ấy, tuy ở trong vòng sanh tử, mà sanh tử chẳng ràng buộc đặng, ở trong cảnh lục trần mà lục trần cũng không ô nhiễm đặng; dầu ở nơi nào, chốn nào, lòng cũng vẫn thường thanh tịnh.
Tụng:
Trì giới đặng thanh tịnh, Kiếp vô lượng tạo nhân,
Vọng tâm như oán tặc, Tham ái, tợ Sâm Thần ([91])
Chỗ dục không mê dục, Ở trần chẳng nhiễm trần,
Nương theo Ly Cấu Địa([92]) Ắt chứng Pháp vương thân (Phật).
Bất trụ hương :là thấy sắc mà vẫn thanh tịnh.
Sằn đề :là nhẫn nhục.
Hai bực thừa vọng sanh nhẫn nhục, bởi e phạm về chấp trước, nên muốn lánh xa, lại cho là nhẫn nhục. Như vậy là bỏ sắc chấp không, chẳng tỏ lý Trung đạo, đâu biết đặng hương trần là vốn không.
Bồ Tát, nhẫn cũng không nhẫn, nhục cũng không nhục, chỉ để tự tánh cho thanh tịnh, chẳng sanh lòng khởi diệt, nên tâm địa mới là tỏ ngộ.
Cho nên Cổ Đức có nói : "Kẻ sĩ minh tâm tỏ như gương sáng, thâu rút các hình, không chi ngăn ngại, hàm dung sự thanh tịnh, bao la, không bờ không bực.
Lại có lời tụng:
Cảnh nhục như sừng thỏ Nhẫn tâm tợ huyễn phao,
Dụng công phu chớ trễ, Điều khổ nạn liền tiêu.
Chi quấy mà chi phải? Chẳng hèn cũng chẳng cao.
Giặc tham sân muốn dứt, Lấy trí huệ làm đao.
Bất trụ vị là nói tánh chúng sanh cùng tánh Như Lai vốn không phân biệt.
Tỳ ly da: là tinh tấn.
Tỏ đặng cái căn của lưỡi vốn không, là chẳng chấp vị.
Cho nên nói: Ăn những món chi, ví như uống thuốc, dầu ngon hay dở, chớ khá khen chê.
Ông Triệu Pháp sư có nói: "Hội đủ muôn pháp đem về nơi mình, chỉ có bực Thánh nhơn mà thôi".
Ông Triều Thái Phó có nói: "Cả thảy phàm phu đều là mê muội, bằng có kẻ nào hồi tâm tín ngưỡng, tìm xét lý mầu cho tâm địa sáng suốt, ấy là mê mà đặng ngộ".
Ông Kỉnh Sơn Quả Thiền sư có nói: "Phật với chúng sanh tướng vốn không khác, chỉ vì mê ngộ, nên khác nẻo, đường".
Ông Huỳnh Nghiệt Thiền sư có nói về: "Trí thực và thức thực: "Thân tứ đại có sự đáng lo là: Đói với đau. Tùy phận mà cấp dưỡng, chẳng chấp trước, nên nói trí thực; có tình ưa đắm mùi ngon, vọng sanh lòng phân biệt, chỉ toan đẹp miệng, chẳng biết chán nhàm, nên nói thức thực".
Hai bực thừa, tuy chẳng chấp các mùi ăn uống, nhưng còn chấp các mùi đạo pháp, lại lấy làm chỗ tham chấp đó mà cho là tinh tấn.
Lòng Bồ Tát đối với pháp tướng, như chiêm bao, huyễn hoặc; gặp duyên thì thí, qua rồi thì thôi.
Kinh Viên Giác có nói: "Soi tỏ các tướng như chốn hư không, ấy gọi là Như Lai tùy sự thuận lợi mà giác tánh".
Ông Phó Đại Sĩ có lời tụng:
Bởi tánh huệ cần tu, Chứng thành địa thứ tư.
(Diệu huệ địa)
Tục, chơn đâu có thiệt, Nhơn pháp thảy đều hư.
Cao hạ không tham chấp, Nhân duyên hãy diệt trừ.
Hồi quang đừng giải đãi, Chẳng những đến Vô dư.
Bất trụ xúclà nói lòng không chấp bỏ: trong đó Bồ đề đâu mà chấp, ngoài có phiền não đâu mà bỏ.
Thiền na: là tịnh lự (dứt lo).
Hai bực thừa nhận cái xúc làm sắc thân:
Như sắc thân mà có, Xúc trần mới tính trừ.
Sắc thân nguyên chẳng có, Xúc lại có bao giờ?
Hựu: Tỏ lý xúc không sanh, Uổng công toan chẳng chấp.
Bao nhiêu những pháp môn. Vốn có chi là pháp?
Lục Tổ có nói: "Cả thảy muôn pháp đều bởi tâm sanh, tâm chẳng chỗ sanh thì pháp không chỗ chấp".
Ông Thái Dương Thiền Sư có lời tụng:
Thái Dương pháp thiền, Mỗi bữa liên miên.
Luôn luôn không dứt, Xúc mục là duyên.
Bằng hay đặng vậy, Pháp pháp hiện tiền.
Ông Phó Đại Sĩ có lời tụng:
Sông thiền cơn phẳng lặng, Sóng tịnh nước đều bình.
Có định tâm liền giác, Không lo, tánh ắt linh.
Y tha do vọng khởi, Biến kế hẳn hư danh,
Bằng rõ thông nguyên lý, Nghĩa viên thành mới minh.
Bất trụ pháp là soi thấy thân tâm, pháp tướng đều không.
Bát Nhã: là trí huệ.
Các pháp thuộc ý, ý thuộc thức, thức ấy là vọng.
Trong kinh Kim Cang Tam muội có nói: "Cảnh giới thấy đó chẳng phải bổn thức của ta".
Hai bực thừa phân biệt các tướng đều là vọng thức, thì bổn thức lại có đâu mà đặng!
Bồ Tát tỏ thấu cái bổn thức đã rốt ráo, nên mới không phân biệt.
Ông Phó Đại Sĩ có lời tụng:
Huệ đăng dường mặt nhựt, Năm uẩn tợ thành Càn([93])
Sáng tối thường xen lẫn, Xưa nay thấy rõ ràng.
Chấp nên chưa dứt vọng, Nhơn ngã hẳn còn mang.
Dùng trí hồi quang lại, Hư danh sẽ tỏ tường.
Lời tụng chung sáu pháp Ba la mật :
Ba kiếp đại tăng kỳ ([94]), Tu muôn hạnh chỉnh tề.
Ngã nhơn nay đã ngộ, Thánh đạo cử theo về.
Lý "nhị không" ([95]) lần tỏ, Hạnh "tam muội" ([96]) chẳng nghi.
Ở an nơi cảnh đẹp, Thong thả có lo chi?
Lâm Tế Thiền sư giải: Phật có pháp Lục thông là:
1.- Đến chỗ sắc chẳng bị sắc nhiễm.
2.- Đến chỗ thinh chẳng bị thinh nhiễm.
3.- Đễn chỗ hương chẳng bị hương nhiễm.
4.- Đến chỗ vị chẳng bị vị nhiễm.
5.- Đến chỗ xúc chẳng bị xúc nhiễm.
6.- Đến chỗ pháp chẳng bị pháp nhiễm.
Bởi tỏ thấu sáu thứ ấy đều là không tướng, nên nó không thể ràng buộc đặng. Vậy mới gọi là người hành đạo không nhơ nhiễm. Tuy là còn cái thân ngũ uẩn uế trược, nhưng cũng chứng đặng bực Địa Hạnh Bồ Tát.
Huỳnh Nghiệt Thiền sư giải: Vốn một điểm tinh minh chia sáu căn hòa hiệp. Một điểm tinh minh là một cái tâm, sáu cái hòa hiệp là sáu căn. Căn đều hiệp với trần:
Nhãn hiệp với sắc, Nhĩ hiệp với thinh;
Tỹ hiệp với hương; Thiệt hiệp với vị;
Thân hiệp với xúc; Ý hiệp với pháp.
Ở trung gian sanh ra sáu thức, cộng là 18 giới. Bằng tỏ đặng 18 giới ấy, cả thảy đều không. Thân sáu thứ hòa hiệp làm một tinh minh, thiệt là người tỏ ngộ; chỉ còn có cái chơn tâm rỗng rang thanh tịnh mà thôi.
25.-ÂM :
Tu Bồ Đề, Bồ Tát ưng như thị bố thí: bất trụ ư tướng.
NGHĨA :
Tu Bồ Đề! Bồ Tát nên bố thí như vậy: Chẳng nên trụ tướng .
Giải :Lục Tổ giải: Bố thí mà cái tâm không trụ tướng chẳng chấplà có bố thí ; chẳng thấy có vật bố thí, chẳng phân biệt có người thọ thí, cho nên nói: Bố thí không chấp tướng.
Tăng Nhược Nột giải: Ưng như thị bố thí:là chỉ về sáu trần. Bất trụ tướng bố thí là chẳng chấp các tướng của sáu trần. Bằng bố thí mà chấp tướng thì chỉ có đặng phước báu nhơn thiên mà thôi.
Lý Văn Hội giải: Bồ Tát ưng như thị bố thílà diệt trừ cả thảy các lòng phiền não ghét thương; nhưng bổn tánh phiền não đều là "vọng kiến", thì có chi đâu mà bỏ?
Trong Kinh có nói: Cả thảy các cái "có" đều như chiêm bao huyễn hoặc, cả thảy các cái "không" đều là giặc là ma.
Tiêu Diêu Ông giải: Tánh phiền não là cảnh giới của Phật. Phải quán tưởng tánh phiền não vốn không, mới thiệt là người tu hành học đạo.
Bằng nương theo pháp quán tưởng, làm cho chín chắn, thì chẳng cần cầu pháp chi khác nữa.
Vả chăng người kiến tánh, trong mười hai giờ, phàm gặp cảnh thuận nghịch, lòng vẫn an vững tự nhiên, chẳng đổi dời theo muôn cảnh. Dầu người mắng nhiếc, ta vẫn như không, thì những lời ác ấy trở lại cho người. Cho nên nói: "Ai làm nấy chịu".
Ví như có người cầm đuốc mà toan đốt trời, càng thêm mệt nhọc, nào có ích chi!
Vậy nên Cổ Đức có nói:
Lòng theo muôn cảnh chuyển,
Lý chuyển rất nên mầu.
Tùy hạng người viên giác,
Chẳng vui cũng chẳng rầu.
26.-ÂM :
Hà dĩ cố? Nhược Bồ Tát bất trụ tướng bố thí, kỳ phước đức bất khả tư lương.
NGHĨA:
Bởi cớ sao? Nếu Bồ tát bố thí chẳng trụ tướng, thì phước đức không thể so lường đặng.
Giải : Sớ Sao giải: Hà dĩ cố :là tỏ ý hỏi- Bố thí vốn để cầu phước, nay bảo chẳng chấp tướng, là ý làm sao? - Phật tự đáp: "Như Bồ Tát bố thí chẳng chấp tướng, thì phước đức không thể so lường đặng". Bằng thông cái lý ba thể chuyển luân đều không mới gọi là bố thí chẳng chấp tướng.
Bất trụ :là lòng chẳng chấp hữu vi.
Trần Hùng giải: Đức Thế Tôn có đáp cùng ông Văn Thù rằng: "Thí của là người phàm, thí pháp là bực Thánh".
Kẻ phàm phu bố thí dùng bảy báu đầy cả tam thiên thế giới, đặng mà cầu phước. Ấy là thí tài là bố thí trụ tướng.
Vả lại làm như vậy, là mong cho đặng phước báo nhơn thiên, khi hưởng hết rồi, thì cái kiếp luân hồi cũng chẳng khỏi. Bực Bồ Tát bố thí, chỉ một lòng thanh tịnh lợi ích cho cả thảy chúng sanh, đặng bực đại thí chủ thí pháp. Ấy là bố thí không trụ tướng.
Tuy chẳng cầu phước, mà tự nhiên lìa khỏi cái khổ sanh tử, hưởng đặng sự khoái lạc: Siêu thoát ba cõi, tự tại muôn đời. Cho nên nói: Phước đức vô hạn, không thể so lường bàn nghĩ đặng.
Phật thương chúng sanh đời mạt thế, mắc phải sáu trần ô nhiễm, chưa dễ gì hóa độ cho đặng, nên mới dùng cái thuyết phước đức vô hạn mà khuyến nhủ, cho mau tỏ ngộ về hội Pháp thí.
Kinh Duy Ma có nói: "Nên làm hội Pháp thí, chớ chẳng cần làm hội tài thí".
Nhan Bính giải: Trụ là chấp trước. Bồ Tát đối với Phật pháp thì nên bố thí không chấp trước. Bố thí là xả thí, là chẳng trụ sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp mà bố thí. Sáu điều ấy, gọi là sáu trần: nhãntham sắc, nhĩ tham thinh, tỹ tham hương, thiệt tham vị, tình trần đối với nhau gọi là xúc, tham trước hữu vi gọi là pháp. Bổn tánh vẫn thanh tịnh vốn không sáu căn, thì sáu trần do đâu mà có? - Cho nên Phật nói: "Nên phải bố thí như thế, chẳng đặng trụ tướng". Bằng bố thí không trước tướng, thì phước đức sánh tày chốn hư không không thế so lường đặng".
Lý Văn Hội giải: Bất trụ ư tướng là chẳng phải duy có thứ sắc thấy đó mới là tướng, cho đến các thứ phân biệt, cũng đều gọi là tướng cả. Các tướng ấy đều bởi nhân duyên mà sanh ra. Phải biết cả thảy thứ phân biệt đều như mộng huyễn, gặp duyên thì thí duyên qua rồi thì thôi. Cho nên Phật nói: "Phàm chỗ nào có tướng đều là hư vọng".
Lại ông Tây Minh Hòa Thượng có nói:
Pháp tướng, bằng như có, Mới cho rằng trụ tướng.
Pháp tướng vốn là không, Nên rằng không trụ tướng,
Bố thí đã không trụ tướng, thì phước đức lại làm sao mà so lường đặng?
Tiêu Diêu Ông giải: Phải biết các pháp như chiêm bao, như huyễn hoặc, như bóng, như tiếng dội, như trăng dưới nước, như bóng trong gương.
Lại nói: Tỏ thấu cả thảy pháp, chẳng chấp cả thảy tướng; lòng như hư không tự nhiên, không ngăn ngại. Nếu lòng còn trụ tướng thì thuộc về chấp pháp. Cho nên biết cả thảy pháp không trụ cả thảy tướng, mới thấy đặng tánh Phật.
Phó Đại Sĩ giải:
Tụng:
Không tầm mà bố thíCông đức khó so lường.
Tế độ người nghèo thiếu, Nghĩa nhơn chớ tính bàn.
Hạng phàm phu thấp thỏi Hay cổ võ khoe khoang,
Muốn rõ hình đàn thí, Hư không khắp thập phương.
Xuyên Thiền sư giải: Muốn đi khắp thiên hạ, chẳng chi bằng "Nhứt nghệ tinh".
Tụng:
Gấm tốt xứ Tây Xuyên,
Thêm hoa mới vẹn tuyền.
Muốn tin cho chắc chắn,
Bắc đẩu phía Nam xem.
Trống không chẳng vướng ly hào niệm.
Bởi thế nên xưng "Đại Giác Tiên".
27.-ÂM :
Tu Bồ Đề ! Ư ý vân hà? Đông phương hư không khả tư lương phủ?- "Phất dã, Thế Tôn !". - "Tu Bồ Đề! Nam, Tây, Bắc phương tứ duy thượng, hạ hư không, khả tư lương phủ?". - "Phất dã, Thế Tôn!". - "Tu Bồ Đề! Bồ Tát vô trụ tướng bố thí, phước đức diệc phục như thị, bất khả tư lương. Tu Bồ Đề ! Bồ Tát đản ưng như sở giáo trụ".
NGHĨA :
Này Tu Bồ Đề ! Ý ông thế nào? Hư không phương Đông, có so lường đặng chăng?- "Bạch đức Thế Tôn ! Chẳng đặng".- "Tu Bồ Đề! Còn như hư không phương Nam, phương Tây, phương Bắc bốn hướng bên cạnh, phương trên và phương dưới, có so lường đặng chăng?".- "Bạch đức Thế Tôn ! Chẳng đặng".- "Tu Bồ Đề! Bồ Tát bố thí mà chẳng trụ tướng, thì phước đức lại cũng như vậy; không thể so lường đặng. Tu Bồ Đề! Bồ Tát nên trụ theo chỗ ta dạy đó". (TRỤ CHỖ KHÔNG TRỤ)
Giải :Lý Văn Hội giải: Phất dã Thế Tôn:là ông Tu Bồ Đề nói cõi hư không, ta suy nghĩ, thiệt không thể so lường đặng. Bất khả tư lương: là đã giác ngộ rồi, lòng không "năng sở" tức không có bốn tướng: Ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả, thì có chi đâu mà so lường!Đản ưng như sở giáo trụ: là những người học đạo phải y theo lời Phật dạy, trụ chỗ " không trụ" thì sẽ đặng tỏ ngộ.
Tạ Linh Vận giải: Lời Thánh không sai, lý chẳng khá bỏ, nên phải an tâm mà vưng theo lời dạy của Phật.
Trần Hùng giải: Phật bảo: Nên trụ theo chỗ ta dạy đó, đồng một nghĩa với câu "Trụ vô sở trụ", trong kinh Hoa Nghiêm.
Pháp của Như Lai dạy Bồ Tát, không ngoài cái pháp "Trụ vô sở trụ",còn Bồ Tát chịu giáo pháp của Như Lai, không dám biến cải, chỉ phải y theo lời dạy là: Lấy pháp không trụ mà làm chỗ trụ.
Kinh Lăng Nghiêm có nói: "Trụ chỗ Bát Nhã Ba la mật ".
Kinh Văn Thù Bát Nhã có nói: "Phật hỏi ông Văn Thù Sư Lợi:
- "Nên làm thế nào mà trụ vào Bát Nhã Ba la mật?".
- "Dùng pháp không trụ là trụ Bát Nhã Ba la mật".
- "Thế nào pháp không trụ mà gọi là trụ Bát Nhã Ba la mật?".
- "Dùng pháp không trụ tướng tức là trụ Bát Nhã Ba la mật".
Vậy thì pháp trụ đã rõ ràng, không còn chi là chẳng phải cái ý nghĩa trụ chỗ không trụ.
Kinh Tam Muội có nói:
"Thuyết pháp của Như Lai, Lý "vô trụ" chẳng ngoài.
Ta tuân theo giáo lý, Mới thiệt kính tôn Ngài".
Nhan Bính giải: Tứ duylà bốn hướng góc: Như Đông Nam, Đông Bắc v.v... Bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn hướng góc thượng phương và hạ phương cộng chung là mười phương.
Phật hỏi: "Hư không của mười phương, có thể so lường đặng chăng?".
Tu Bồ Đề: "Không thế so lường đặng", là bởi không có chi lớn hơn hư không của mười phương, nên Phật mượn đặng ví dụ với phước đức.
Phó Đại Sĩ có nói:
Muốn biết hình đàn thí,
Hư không khắp thập phương.
Phật nói: "Bồ Tát bố thí không trụ tướng, phước đức lại cũng như cõi hư không ấy không thể so lường tính toán đặng. Bồ Tát phải theo chỗ chỉ dạy của Phật mà trụ. Phật dạy chỗ trụ đó, lộng lạc như cõi hư không của mười phương là: Trụ chỗ không trụ.
Xuyên Thiền sư giải: Đáng cho là biết lễ.
Tụng:
Hư không bổn thể lớn bao la,
Lý đạo lại càng quá thẫm xa.
Trăng gió năm hồ thường tự tại,
Chào xuân đua nở lập lòe hoa