KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA
CHƯƠNG BA MƯƠI
151.ÂM:
Tu Bồ Đề! Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhơn dĩ tam thiên đại thiên thế giới, tối vi vi trần, ư ý vân hà? - Thị vi trần chúng, ninh vi đa phủ?". Tu Bồ Đề ngôn: "Thậm đa, Thế Tôn! Hà dĩ cố? - Nhược thị vi trần chúng, thiệt hữu giả, Phật tức bất thuyết thị vi trần chúng. Sở dĩ giả hà? - Phật thuyết vi trần chúng, tức phi vi trần chúng, thị danh vi trần chúng. Thế Tôn! Như Lai sở thuyết tam thiên đại thiên thế giới, tức phi thế giới thị danh thế giới.
NGHĨA:
Này Tu Bồ Đề! Bằng có trai lành, gái tín dùng tam thiên đại thiên thế giới, đập nát ra làm vi trần, ý ông thế nào? Những vi trần ấy thiệt là nhiều chăng?".
Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn ! Rất nhiều".
Bởi cớ sao? Nếu những vi trần ấy, mà thiệt có, thì Phật chẳng gọi là vi trần. Sở dĩ sao? - Bởi Phật nói những vi trần nhưng chẳng phải vi trần, chỉ cưỡng danh là vi trần.
Bạch đức Thế Tôn! Còn Như Lai nói tam thiên đại thiên thế giới, nhưng chẳng phải thế giới, chỉ cưỡng danh là thế giới.
Giải :Vương Nhựt Hưu giải: Vi trần chúnglà vi trần thiệt nhiều như thế.
Tu Bồ Đề đáp "Rất nhiều", rồi lại bạch đức Thế Tôn mà tự hỏi "bởi cớ sao", là vi trần chúng cớ sao rất nhiều, lại tự đáp: "Bằng vi trần chúng thiệt có, thì Phật chẳng nói là vi trần chúng", là bởi chơn tánh thiệt có, nhưng chẳng nói đặng. Còn vi trần chúng chẳng phải thiệt có, nên Phật mới nói: "Phàm sự chi mà nói đặng, đều là hư vọng cả". Duy có chơn tánh là chơn thiệt nên chẳng nói đặng. Sở dĩ Phật thường nói: "Chẳng nói đặng, chẳng lấy đặng" là vậy.
Sở dĩ giả hà là ông Tu Bồ Đề tự hỏi: "Vi trần chúng nếu có thiệt thì Phật chẳng nói là vi trần chúng" là sao vậy? Lại tự đáp: "Phật nói vi trần chúng, là chẳng phải vi trần chúng, chỉ cưỡng danh là vi trần chúng", là nói: Phật nói vi trần chúng là chẳng phải chơn thiệt, chỉ có hư danh vậy thôi, rồi nói nữa: "Như Lai nói tam thiên thế giới là thế giới cũng chẳng phải chơn thiệt, cũng chỉ có cái hư danh". (Có giải trong phần thứ mười ba).
Lý Văn Hội giải: Vi trần là vọng niệm, thế giới là biệt danh của sắc thân. Vi trần là nhân, thế giới là quả. Nói vi trần và thế giới, tức là nói nhân quả vậy.
Chơn tánh của tự mình không nhân, không quả, bởi tùy sáu đường chúng sanh mà làm nhân quả, thì tự tánh là nhân, sáu đường là quả.
Nên biết đặng vi trần khởi ở thế giới, luân hồi bởi nơi một niệm. Tuy thấy lành nhỏ chẳng nên chấp trước, tuy gặp dữ nhỏ hẳn phải diệt trừ.
Vả chăng chúng sanh bởi tại vọng niệm mà khởi ra cái nghiệp tham, sân, si nên phải chịu cái quả mộng huyễn của ba cõi, cũng như vi trần kia mà thành ra thế giới vậy.
Nhân quả nguyên bởi vọng tâm, mình làm mình chịu. Nhứt niệm ngộ rồi tức không có vi trần; đã không vi trần thì thế giới bởi đâu mà có! Cho nên nói: "Chẳng phải vi trần chỉ cưỡng danh là vi trần, chẳng phải thế giới, chỉ cưỡng danh là thế giới".
Nếu muốn tạo ra thế giới, thì mặc dầu vi trần chúng nó xông ung, còn muốn trừ bỏ thế giới, thì giác ngộ nhơn pháp đều không, không một pháp chi mà đặng, rỗng rang thanh tịnh chẳng bị sự chuyển lay của các cảnh; cũng đều bởi tại tự mình.
Tăng Liễu Tánh giải: Phần này Phật e người sau đời mạt kiếp trùng trùng chấp trước nhân quả, chẳng chịu lìa bỏ, nên có mấy phen căn dặn ông Tu Bồ Đề.
Trong thân của mỗi người đều có cái tạp niệm vi tế, lành dữ rất nhiều, cũng ví như vi trần của đại thiên thế giới vậy. Niệm ấy không chi là chẳng phải cái ảnh hưởng hư vọng mà tạo ra, cho nên nói: "Chẳng phải vi trần chúng".
Cũng bởi tại chuyển lay cái lòng vô minh phiền não thành ra cái trí vô ngại từ bi, mới vào đặng chỗ vắng lặng "tri giải " đặng sự an vui. Cho nên nói: "Chỉ cưỡng danh là vi trần chúng".
Xuyên Thiền sư giải: Nếu không lặn xuống nước, đâu biết người có sở trường.
Tụng:
Bụi trần vừa khởi lấp hư không,
Đập nát tam thiên số chẳng cùng.
Giả lão này không thâu thập đặng,
Mặc dầu theo gió mặc theo giông.
152.ÂM:
Hà dĩ cố? - Nhược thế giới thiệt hữu giả, tức thị nhứt hiệp tướng.
NGHĨA:
Bởi cớ sao? - Nếu thế giới mà thiệt có, thì tức là tướng nhứt hiệp.
Giải :Vương Nhựt Hưu giải: Hà dĩ cố là Tu Bồ Đề tự hỏi: "Bởi sao mà thế giới không phải chơn thiệt", rồi tự đáp: "Bằng thế giới thiệt có tức là tướng nhứt hiệp". Tướng nhứt hiệp tức chơn tánh. Chơn tánh khắp cả hư không thế giới, không có hình tướng.
Nhứt: là không chia làm hai đặng, hiệp :là không chẻ cho lìa đặng; vốn chẳng có tướng chi, chỉ cưỡng danh là tướng.
Nếu cho thế giới là thiệt có thì tức là chơn tánh? Duy có chơn tánh mới thiệt có mà thôi. Sao vậy? - Là bởi từ đời vô thỉ đến nay còn hoài không biến hoại, tự nhiên chẳng phải giả hiệp. Còn cả thảy sự hư huyễn đều là chẳng phải cái bổn nguyên của chơn tánh, thì đâu phải là có thiệt. Vậy thì thế giới đâu sánh với chơn tánh đặng, là bởi thế giới là giả hiệp; đến khi kiếp số hết rồi cũng phải biến hoại, thì cũng đều là hư huyễn, không phải chơn thiệt. Cho nên không thế sánh với chơn tánh đặng.
Lý Văn Hội giải: Vi trần là nhân, thế giới là quả. Nếu chấp nhân quả là thiệt có thì bị các tướng buộc ràng, cho nên nói: Tướng nhứt hiệp.
Kim Hải Quang Như Lai giải: Thế giới là Như Lai nói Phật Lô Xá Na, trụ trì cả tam thiên đại thiên thế giới, sắc thân hóa sanh cội Bồ đề, hiệu là Thế giới Liên Hoa Tạng, chẳng phải là nói cái thế giới ngăn ngại kia đâu!
Nhứt hiệp tướng là Phật tánh trong thân của cả thảy chúng sanh vớiPháp thân Lô Xá Na, cho nên nói: Tướng nhứt hiệp.
Tụng:
Thuyết pháp Liên Hoa Tàng của Phật.
Tam thiên thế giới nghe tường tất.
Lý mầu Bồ Tát hiểu phân minh,
Phàm tục chấp mê nên thất lật.
153.ÂM:
Như Lai thuyết nhứt hiệp tướng tức phi nhứt hiệp tướng, thị danh nhứt hiệp tướng".
NGHĨA:
Như Lai nói tướng nhứt hiệp, nhưng chẳng phải tướng nhứt hiệp, chỉ cưỡng danh là tướng nhứt hiệp".
Giải :Vương Nhựt Hưu giải: Như Lai thuyết nhứt hiệp tướng là ông Tu Bồ Đề nói Phật thường gọi chơn tánh là tướng nhứt hiệp.
Tức phi nhứt hiệp tướng là chơn tánh ví như hư không, chẳng có vật chi. Như "một" thì chẳng hai, "hiệp" thì chẳng lìa.
Thị danh nhứt hiệp tướng là cưỡng danh làtướng nhứt hiệp
Phàm nói: tức phiđều là thiệt không, thị danhđều là cưỡng danh.
Lý Văn Hội giải: Chẳng chấp thiệt có, cũng chẳng chấp thiệt không, nơi tướng mà lìa tướng, cho nên nói: Chẳng phải tướng nhứt hiệp, chỉ cưỡng danh là tướng nhứt hiệp.
154.ÂM:
"Tu Bồ Đề! Nhứt hiệp tướng giả, tức thị bất khả thuyết.
NGHĨA:
"Tu Bồ Đề! Tướng nhứt hiệp ấy, nói chẳng đặng.
Giải :Vương Nhựt Hưu giải: Phật thường nói chơn tánh là tướng nhứt hiệp, nên ông Tu Bồ Đề mới cho là thiệt có. Phật lại bảo ông Tu Bồ Đề: Tướngnhứt hiệp là chơn tánh, mà không thế nói đặng, chỉ cưỡng danh vậy thôi.
Lý Văn Hội giải: Tức thị bất khả thuyếtlà người học đạo phải tự tỉnh ngộ, các lý sự đều không ngăn ngại. Phàm phu cứ tham chấp sự tướng, chẳng thông lý đạo, nên nói nhân quả, thì chấp nhân quả, còn nói thế giới thì lại chấp thế giới.
155.ÂM:
Đản phàm phu chi nhơn, tham trước kỳ sự".
NGHĨA:
Chỉ vì kẻ phàm phu hay tham chấp sự tướng".
Giải :Vương Nhựt Hưu giải: Phật nói kẻ phàm phu chẳng tỏ ngộ chơn tánh, lại hay chấp căn trần sự tướng trong chơn tánh hiện ra, rồi nhận căn trần ấy là "thiệt ta", nên phải đắm chìm trong lục đạo, không bao giờ thoát khỏi, cho nên nói: Phàm phu.
Kinh Hoa Nghiêm có nói: "Lìa các tướng hòa hiệp mới là Vô thượng giác".
Phật gọi là Giác: ngoại giác lìa cả thảy có tướng, nội giác lìa cả thảy không tướng; nơi tướng mà lìa tướng, nơi không mà lìa không. Đặng cái lý nhiệm mầu không tướng của chơn không, nên nói là Phật.
Lục Tổ giải: Nhứt hiệp tướng là mắt thấy sắc thì mến, nên hiệp với sắc, tai nghe thinh thì mộ, nên hiệp với thinh v.v... Khi Lục trần tan hết, tức là chơn thế giới. Hiệp lại, ấy là phàm phu, còn tan ra ấy là chẳng phải phàm phu.
Phàm phu đối với cả thảy pháp đều hiệp, Bồ Tát đối với cả thảy đều chẳng hiệp.
Bởi cớ sao? - Bởi hiệp thì còn trói buộc, nên khởi ra sanh diệt, còn tan thì đặng giải thoát, nên không có sanh diệt. Nếu còn bị trói buộc trong đường sanh diệt, ấy là phàm phu. Bởi vậy trong kinh nói: "Chỉ có kẻ phàm phu mới là tham chấp sự tướng".
Nhan Bính giải: Vi trần tuy nhiều, chưa đủ làm nhiều, thế giới giả hiệp cũng là không thiệt. Nếu nói thiệt có vi trần và thế giới, thì đều chấp tướng cả hai. Nó đã là tướng, ta lại chấp tướng, thì hai tướng hòa hiệp, ấy là tướng nhứt hiệp . Cho nên nói: "Tướng nhứt hiệp ấy, nói chẳng đặng, chỉ kẻ phàm phu chưa tỏ ngộ, mới vọng sanh tham chấp".
Viên Ngộ Thiền sư giải: Bao giờ các ngươi, trên chẳng thấy có chư Phật, dưới chẳng thấy có chúng sanh, ngoài chẳng thấy có núi sông đại địa, trong chẳng thấy có sự thấy nghe hiểu biết, tốt xấu dở hay, nhồi lại làm một khối, còn mỗi mỗi đều buông bỏ thì không còn thấy cái chi khác nữa.
Tiêu Diêu Ông giải: Người học đạo, chỉ phải tỏ ngộ cái lòng minh linh, ấy là nguồn cội. Bằng có niệm chi vọng tưởng đều là trần cấu, chớ cho nó nhiễm trước thì sẽ chứng đặng Pháp thân thanh tịnh.
Phó Đại Sĩ giải:
Tụng:
Báo ứng không chi khác, Giới trần cũng chẳng ngoài.
Có nhân đâu quả có, Ai trước lại sau ai.
Sự phải tường nguyên một, Lý nên diệt cả hai.
Vô sanh như muốn rõ, Mau xét thấu do lai.
Xuyên Thiền sư giải:
Nắm tóm lại, mở bùng ra,
Chỉ huy tướng lịnh, binh gia vận hành.
Tụng:
Một khối thành hai mảnh,
Đập tan trở lại tròn.
Nhai nghiền đừng cắn bể,
Mùi vị mới hoàn toàn.